Văn kiện mới của Tòa Thánh về Các Vấn Đề Kinh Tế và Tài Chánh

15/12/2018
900
Các Xem Xét Để Biện Phân Về Đạo Đức Một Số Khía Cạnh Của Hệ Thống Kinh Tế Hiện Nay

Ngày 17 tháng Năm vừa qua, Tòa Thánh đã công bố một văn kiện mới về kinh tế và tài chánh tựa là "Oeconomicae et pecuniariae quaestiones” (Các Vấn Đề Kinh Tế và Tài Chánh. Các Xem Xét Để Biện Phân Đạo Đức Học Liên Quan Đến Một Số Khía Cạnh Của Hệ Thống Kinh Tế - Tài Chánh Hiện Nay) kêu gọi phục hồi những gì “thực sự là nhân bản” và tùy thuộc vào Thiên Chúa để tránh “rơi vào sự sụp đổ xã hội”. 

Văn kiện trên do Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và Thánh Bộ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện soạn thảo và công bố. Tại buổi họp báo công bố văn kiện, Đức Tổng Giám Mục Ladaria cho hay vì các thách đố đạo đức hiện thời trong thế giới tài chánh, các xem xét này nhằm trình bầy một “cái nhìn trung thực” đối với một số phạm vi tài chánh, và “đưa ra một cách biện phân hợp đạo đức đối với một số khía cạnh trong các phạm vi này”.

Văn kiện dài hơn 11,000 chữ này bắt đầu với việc nhận định rằng dù phúc lợi kinh tế hoàn cầu đã gia tăng với một “mức độ lớn lao và nhanh chóng” chưa từng thấy, nhưng cần phải ghi nhận “nhiều bất bình đẳng” đã phát triển bên trong và giữa nhiều quốc gia khác nhau và ngoài ra, số người sống trong “các điều kiện nghèo khó cùng cực vẫn còn quá lớn”.

Văn kiện nói đến lúc phải "khởi diễn việc phục hồi những gì là nhân bản chân chính" trong một thời đại "tự chứng tỏ có một tầm nhìn rất giới hạn về con người nhân bản"; họ thường được hiểu như một "người tiêu dùng mà lợi ích trước hết hệ ở việc tối ưu hóa thu nhập tiền tệ của mình”.

Văn kiện nhấn mạnh rằng, trái lại, con người nhân bản có một "bản chất tương quan" mà phúc lợi "không thể giản lược vào thứ luận lý học tiêu dùng hoặc vào các khía cạnh kinh tế của đời sống".

Nó nhấn mạnh một số điểm đáng quan tâm, trong đó, có các điểm sau đây:

• “Thực vậy, không lợi ích nào hợp pháp khi nó không nhắm các mục tiêu: phát huy toàn diện con người nhân bản, của cải có mục đích dành cho mọi người và ưu tiên chọn người nghèo”.

• Phúc lợi phải được “đo bằng các tiêu chuẩn toàn diện hơn chứ không chỉ bằng tổng sản lượng nội địa của một quốc gia (GDP)”.

• Các thị trường “không có khả năng tự quản lý” vì chúng không biết cả việc phải làm sao đạt được các yếu tố cho phép chúng vận hành trơn tru lẫn việc sửa chữa các nguyên nhân khiến chúng gây hại cho xã hội loài người.

• Kỹ nghệ tài chính ngày nay là nơi “lòng ích kỷ và sự lạm dụng quyền lực có khả năng gây hại cho cộng đồng một cách không thể so sánh”.

• Việc làm “không những trở thành một thực tại ngày càng nhiều rủi ro hơn, mà còn mất đi giá trị của nó như một “thiện ích cho con người nhân bản”, tự biến mình thành một “phương tiện trao đổi đơn thuần”.

• Các quỹ đầu tư dựa trên rủi ro đầu cơ tài chính gây nguy hiểm cho “chính sự ổn định kinh tế của hàng triệu gia đình”, buộc các chính phủ phải can thiệp và “xác định một cách giả tạo cách vận hành đúng đắn của các hệ thống chính trị”.

• “Nơi nào thực hành việc bãi bỏ quy định hàng loạt”, tham ô, buôn bán đầu cơ, ở đấy xẩy ra “các vụ sụp đổ đột ngột và tàn hại, và khủng hoảng có hệ thống”.

• Đặt lợi nhuận ở “tột đỉnh” của doanh nghiệp tài chính “dễ dàng tạo ra một luận lý học đồi trụy và lọc lựa thường chỉ có lợi cho việc thăng tiến của các nhà lãnh đạo kinh doanh có khả năng, nhưng tham lam và vô liêm sỉ, và mối quan hệ của họ với những người khác được chủ yếu thúc đẩy bởi lợi ích vị kỷ và cá nhân".

• Văn kiện chỉ trích một số công cụ tài chính như “vốn phái sinh” (derivatives) mà nó cho là đã “khuyến khích sự gia tăng của việc buôn bán đầu cơ (speculative bubbles)” và là “quả bom nổ chậm đang tích tắc sẵn sàng phát nổ chẳng sớm thì muộn, gây độc cho sự lành mạnh của các thị trường”.

• Tương tự như thế, nó chỉ trích “các trao đổi tín dụng không trả được nợ (default credit)” vì đã khuyến khích “việc đánh bạc trên sự thất bại của người khác”, trở thành một loại “ăn thịt người về kinh tế” (econolmic cannibalism) và gây ra “thiệt hại to lớn cho toàn bộ nhiều quốc gia và hàng triệu gia đình”. 

• Việc tránh thuế và trốn thuế bằng cách sử dụng các nơi trốn thuế ở ngoại quốc (tax havens) góp phần làm nghèo đi nhiều quốc gia, đặc biệt là khi các công ty lớn thực hiện nó, dẫn đến “việc loại một cách bất công nhiều nguồn tài nguyên ra khỏi nền kinh tế hiện có”.

• Tài liệu cũng chỉ trích các chính phủ vì nợ nần công cộng gây ra bởi " việc quản lý hệ thống hành chính công một cách bất cẩn, nếu không muốn nói là gian lận", dẫn đến các trở ngại lớn lao cho "việc vận hành tốt và tăng trưởng của các nền kinh tế quốc gia khác nhau."

Văn kiện cũng chỉ ra các biện pháp có thể có:

• Bằng cách sống thường xuyên "trong tình liên đới", các thiện ích mà một người sở hữu "được sử dụng không những cho nhu cầu của riêng họ, mà còn tự nhân thừa lên, tạo ra những hoa trái bất ngờ cho người khác."

• Luật lệ không ngừng được cập nhật hóa là điều cần thiết vì sự kiện này: một trong các “lý do chính” đối với cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây là “hành vi vô luân của các chuyên gia trong thế giới tài chánh”.

• Các qui định phải hỗ trợ sự "hoàn toàn minh bạch để loại bỏ mọi hình thức bất bình đẳng", chẳng hạn như các ngân hàng chỉ chào đón các khách hàng nào nếu họ chịu sử dụng vốn vào các mục tiêu đầu cơ.

• Thị trường “cần biết các điều kiện tiên quyết về nhân học và đạo đức học này là nó không có khả năng tự cung cấp cho chính nó, cũng như tự ý sản xuất”.

• Văn kiện chủ trương phải có “các ủy ban đạo đức” bên trong các ngân hàng.

• Nó cũng đề xuất các loại thuế bình đẳng để mang lại "sự bình đẳng hóa và tái phân phối" của cải.

Trong phần kết luận, văn kiện thúc giục độc giả đừng bị cám dỗ rơi vào chỗ hoài nghi và có cảm thức bất lực nhưng phải nhớ “mỗi người chúng ta có thể làm được rất nhiều, đặc biệt nếu ta không sống một mình.”

Nó cho rằng “nhiều hiệp hội” đang xuất hiện để cổ vũ trách nhiệm xã hội, và điều quan trọng là phải lên khuôn các hành động “vì lợi ích chung”, dựa trên “nguyên tắc vững vàng là liên đới và phụ đới”.

Hơn nữa, văn kiện nhấn mạnh rằng tất cả các hành động như trên tùy thuộc vào Thiên Chúa và thiện chí, dẫn đến một "mạng lưới kết hợp thiên đàng và trái đất, vốn là một công cụ thực sự để nhân bản hóa từng người, và cả thế giới như một toàn thể".

I. Dẫn Nhập 

1. Ngày nay hơn bao giờ hết, các vấn đề kinh tế và tài chính đang thu hút sự chú ý của chúng ta, do ảnh hưởng ngày càng tăng của thị trường đối với phúc lợi vật chất của một phần lớn nhân loại. Điều này đòi hỏi, một mặt, một quy định công bằng về các năng động tính của chúng và mặt khác, một nền tảng đạo đức rõ ràng có thể bảo đảm cho phúc lợi đạt được một phẩm chất nhân bản trong các mối tương quan mà các cơ chế kinh tế không thể tự sản xuất được một cách tương xứng. Ngày nay, một nền tảng đạo đức như vậy được đòi hỏi từ mọi phía, đặc biệt là từ những người đang làm việc trong hệ thống kinh tế và tài chính. Chính ở đây, điều đã trở nên hiển nhiên là sự cần thiết phải có một liên minh giữa hiểu biết kĩ thuật và túi khôn nhân bản, nếu không muốn thấy bất cứ hành động nhân bản nào trở thành đồi bại. Ngược lại, liên minh này làm cho nó có thể tiến bộ trên con đường dẫn đến một phúc lợi thật sự và toàn diện của con người.

2. Việc phát huy toàn diện mỗi con người nhân bản, tất cả cộng đồng nhân bản và mọi con người là chân trời tối hậu của ích chung mà Giáo Hội, "bí tích cứu rỗi phổ quát" [1], tự đề xuất để đạt tới. Trong tính toàn diện của điều thiện này, được mặc khải trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kytô, ta thấy mục tiêu tối hậu của mọi hoạt động của Giáo Hội. Nguồn gốc và sự thành đạt tối hậu của hoạt động này là ở trong Thiên Chúa, Đấng đã tóm lược mọi sự trong Người (xem Ep. 1, 10).

Điều thiện trên trổ bông như một dự ứng về vương quốc của Thiên Chúa mà Giáo Hội được kêu gọi để công bố và thành lập trong mọi lĩnh vực hoạt động nhân bản [2]; nó là hoa trái đặc biệt của đức ái này, một đức ái, vì là con đường hoàng gia của hành động giáo hội, cũng đã được kêu gọi tự biểu hiện mình trong tình yêu xã hội, dân sự và chính trị. Tình yêu này "tự biểu hiện trong mọi hành động nhằm cố gắng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Tình yêu đối với xã hội và cam kết đối với ích chung là một hình thức tuyệt vời của đức ái, không những liên quan đến mối tương quan giữa các cá nhân, mà còn liên quan đến "các mối tương quan vĩ mô: tức các liên hệ xã hội, kinh tế, chính trị". Đây là lý do tại sao Giáo Hội đã đề xuất với thế giới lý tưởng về một "nền văn minh của tình yêu" [3]. Tình yêu đối với sự thiện toàn diện, một tình yêu không thể tách rời khỏi tình yêu đối với chân lý, là chìa khóa cho sự phát triển chân chính.

3. Đó là mục tiêu theo đuổi, với sự chắc chắn rằng trong tất cả các nền văn hóa, có nhiều điểm hội tụ về đạo đức, nói lên một túi khôn luân lý chung [4], mà trên trật tự khách quan của nó, nhân phẩm được đặt nền tảng. Các quyền và nhiệm vụ căn bản của con người dựa trên cái nền vững chắc và bất khả xâm phạm của trật tự này, một trật tự đề ra các nguyên tắc chung rõ ràng, mà nếu không có nó, việc kiểm soát và lạm dụng của kẻ mạnh nhất kết cục sẽ thống trị toàn diện đời sống nhân sinh. Trật tự đạo đức này, bắt rễ từ túi khôn của Thiên Chúa Tạo Dựng, do đó, là nền tảng không thể thiếu để xây dựng một cộng đồng thực sự của con người, một cộng đồng được cai trị bởi luật lệ đặt căn bản trên công lý đích thực. Điều này còn chân thực hơn chính con người, là những người, tuy hết mình mong ước điều thiện và điều chân thật, nhưng thường sa ngã, khi đối diện với lợi ích đảng phái, lạm dụng và thực hành không công bằng, gây đau khổ trầm trọng cho toàn thể nhân loại, đặc biệt cho những người yếu nhất và cho những người không có khả năng tự vệ.

Trong số các nhiệm vụ chính của mình, Giáo hội cũng nhìn nhận nhiệm vụ nhắc nhở mọi người, với một sự chắc chắn khiêm nhường, nhớ một số nguyên tắc đạo đức hiển nhiên, để giải phóng mỗi lĩnh vực hành động nhân bản khỏi rối loạn đạo đức thường xuyên gây khổ cho họ. Về phương diện này, chính lý trí của con người, vốn đặc điểm hóa mỗi con người bằng con dấu không thể xóa nhòa của nó, đòi phải có sự biện phân khôn ngoan. Thực thế, trong chân lý và công lý, tinh thần con người luôn tìm kiếm nền tảng vững chắc cho các công trình của nó, vì nhận thức rằng không có cơ sở này, ngay định hướng của nó cũng sẽ thiếu sót [5].

4. Định hướng đúng đắn của lý trí này không thể thiếu trong bất cứ lĩnh vực hành động nhân bản nào. Theo cách này, không một không gian nào, trong đó con người hành động, lại có thể tự cho phép mình xa lạ, hoặc không thể thẩm thấu vào một nền đạo đức xây dựng trên tự do, chân lý, công lý và liên đới [6]. Điều này cũng áp dụng cho các lĩnh vực trong đó các luật lệ chính trị và kinh tế có hiệu lực: "Hôm nay, suy nghĩ về ích chung, chúng ta có nhu cầu cấp bách này là chính trị và kinh tế, khi đối thoại với nhau, phải cương quyết đặt mình vào việc phục vụ sự sống, nhất là sự sống của con người "[7].

Thật vậy, tất cả các hoạt động nhân bản đều được kêu gọi sản sinh ra các hoa trái, bằng cách xếp đặt cách hào phóng và bình đẳng mọi ơn phúc mà từ nguyên thủy, Thiên Chúa vốn xếp đặt cho mọi người được hưởng dùng; nó cũng phải phát triển, với một niềm hy vọng chắc chắn, những hạt giống thiện ích vốn có sẵn trong mọi sáng thế như một lời hứa về khả năng sinh sản. Lời kêu gọi này tạo thành một lời mời vĩnh viễn cho việc triển khai tự do nhân bản, cho dù tội lỗi luôn sẵn sàng làm suy yếu kế hoạch thần linh từ nguyên thủy này.

Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đến gặp con người trong Chúa Giêsu Kytô. Người khiến chúng ta tham gia vào biến cố tuyệt vời là sự phục sinh của Người; Người "không những cứu chuộc cá nhân mà còn cả các tương quan xã hội" nữa [8]; Người làm việc cho một trật tự mới trong các mối tương quan xã hội được xây dựng trên Chân lý và Tình yêu, một chất men phong phú làm biến đổi lịch sử. Như thế, Người dự ứng Vương quốc Thiên đàng mà Người đã đến để công bố và khai mở nơi con người của Người trong diễn trình thời gian.

5. Mặc dù phúc lợi kinh tế hoàn cầu chắc chắn gia tăng trong hậu bán thế kỷ hai mươi, với một mức độ và tốc độ chưa bao giờ thấy trước đây, nhưng cần lưu ý rằng, song song, các bất bình đẳng cũng đã gia tăng nơi nhiều quốc gia khác [9], cũng như giữa các quốc gia. Nhiều người tiếp tục sống trong tình trạng nghèo nàn cùng cực.

Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đáng lẽ đã là cơ hội để khai triển một nền kinh tế mới biết chú ý nhiều hơn đến các nguyên tắc đạo đức và để quy định mới mẻ hoạt động tài chính, bằng cách loại trừ các khía cạnh ăn cướp và đầu cơ và tăng cường việc phục vụ nền kinh tế chân thực. Mặc dù ở các bình diện khác nhau, nhiều nỗ lực tích cực đã được thực hiện, được hoan nghênh và đánh giá cao, nhưng không có phản ứng nào giúp suy nghĩ lại các tiêu chuẩn lỗi thời này, những tiêu chuẩn tiếp tục thống trị thế giới [10]. Trái lại, dường như một sự ích kỷ mù quáng đang chiếm ưu thế, trong ngắn hạn; coi thường ích chung, nó loại khỏi chân trời mối bận tâm không những để tạo ra mà còn để chia sẻ sự giàu có và loại bỏ các bất bình đẳng quá sắc nét ngày nay.

6. Điều có liên quan là phúc lợi thực sự của hầu hết đàn ông và đàn bà trên hành tinh của chúng ta, những người có nguy cơ càng ngày càng bị gạt ra ngoài lề nhiều hơn, nếu không muốn nói là “bị loại trừ và bác bỏ" [11] khỏi sự tiến bộ và thịnh vượng thực sự, trong khi một thiểu số bóc lột và tự giành cho mình những nguồn tài nguyên mênh mông và sự giàu có, trong sự thờ ơ trước thân phận của đại đa số. Do đo, đã đến lúc phải hỗ trợ việc phục hồi những gì đích thực là nhân bản, phải mở rộng chân trời tinh thần và tâm hồn, để nhận ra một cách trung thực những gì xuất phát từ các đòi hỏi của sự chân và sự thiện, những điều mà không có chúng, bất cứ hệ thống xã hội, chính trị và kinh tế nào nhất định sẽ phá sản, thất bại và về lâu dài, sụp đổ. Lòng ích kỷ, cuối cùng, không mang lại gì, nhưng nó khiến mọi người phải trả giá quá cao; do đó, nếu chúng ta muốn phúc lợi thực sự cho nhân loại, "tiền bạc phải phục vụ chứ không thống trị!" [12].

Về vấn đề này, trước hết, các nhà điều hành có năng quyền và có trách nhiệm phải khai triển các hình thức kinh tế và tài chính mới mà việc thực hành và quy tắc của chúng phải nhắm sự tiến bộ của ích chung cũng như việc tôn trọng nhân phẩm, bằng cách dựa vào cái nền vững chắc là giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Tuy nhiên, Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, mà năng quyền cũng bao gồm các vấn đề về bản chất luân lý, hợp tác với Thánh Bộ Phát Triển Con Người Toàn Diện, muốn đề xuất, bằng văn kiện này, các xem xét căn bản cũng như các điểm tham chiếu để hỗ trợ sự tiến bộ này và bảo vệ phẩm giá này [13]. Đặc biệt, người ta nhận ra sự cần thiết phải thực hiện một cuộc suy tư đạo đức về một số khía cạnh của việc làm trung gian tài chánh mà sự vận hành khi bị tách khỏi cơ sở nhân học và luân lý công chính, không những tạo ra các lạm dụng và bất công hiển nhiên, mà còn tự chứng tỏ có khả năng tạo ra các cuộc khủng hoảng có hệ thống trên qui mô hoàn cầu. Việc biện phân này được cung cấp cho mọi người nam nữ có thiện chí.

II. Những xem xét nền tảng

7. Ngày nay, một số xem xét nền tảng rất hiển nhiên dưới nhãn quan tất cả những ai, vượt quá bất cứ lý thuyết hoặc trường phái tư tưởng nào, muốn tìm hiểu tình hình lịch sử mà chúng ta đang sống. Văn kiện này không có ý định can thiệp vào các cuộc thảo luận hợp pháp của các trường phái, mà đúng hơn đóng góp vào cuộc đối thoại, vì ý thức rằng, trong mọi trường hợp, không có công thức kinh tế nào có giá trị ở khắp mọi nơi và ở khắp mọi thời.

8. Bất cứ thực tại hoặc hoạt động nào của con người, sống trong chân trời đạo đức công chính, nghĩa là trong sự tôn trọng nhân phẩm và hướng tới ích chung, đều là một điều tích cực. Điều này có giá trị đối với mọi định chế mà xã hội loài người từng kích thích tạo ra, cả với các thị trường, ở mọi bình diện, kể cả các tổ chức tài chính.

Về vấn đề này, phải nhấn mạnh rằng ngay các hệ thống được thị trường tạo ra, trước khi dựa vào các động lực ẩn danh, nhờ việc sử dụng các kỹ thuật ngày càng tinh vi hơn mà được phát triển, cũng dựa trên các mối tương quan không thể được thiết lập mà không có sự tham gia tự do của các cá nhân. Do đó, điều rõ ràng là, "giống như các lĩnh vực khác của hoạt động con người, muốn vận hành một cách đúng đắn, kinh tế cần đến đạo đức; không phải bất cứ nền đạo đức nào, nhưng là một nền đạo đức thân thiện với con người"[14].

9. Do đó, điều xem ra rõ ràng là, nếu không có một viễn kiến chính đáng về con người, người ta không thể thiết lập được một nền đạo đức hay một thực hành xứng đáng với phẩm giá của họ và ích chung thực sự. Thực thế, dù cho rằng nó trung lập hay tách rời mọi ý niệm căn bản như thế nào đi nữa, mọi hành động của con người - cả trong lĩnh vực kinh tế - luôn bao hàm một cái hiểu về con người và thế giới, một cái hiểu luôn cho thấy giá trị của nó qua các hiệu quả và các phát triển nó tạo ra.

Theo nghĩa này, thời đại của chúng ta tự chứng tỏ đã có một tầm nhìn giới hạn về con người nhân bản, khi con người bị hiểu một cách cá nhân và chủ yếu như một người tiêu thụ, mà lợi ích hệ trước nhất ở việc tối ưu hóa thu nhập tiền tệ của họ. Tuy nhiên, con người nhân bản thực sự sở hữu một bản chất có tính tương quan độc đáo và có cảm thức về một cuộc tìm kiếm muôn thuở các thành quả và phúc lợi có thể toàn diện hơn, và không thể bị rút gọn vào thứ luận lý học tiêu thụ hoặc các khía cạnh kinh tế của đời sống [15].

Bản chất có tính tương quan nền tảng của con người nhân bản [16] có đặc tính chủ yếu là tính thuận lý biết chống lại một tầm nhìn giản lược đối với các nhu cầu căn bản của người ta. Về phương diện này, không thể im lặng khi đối diện với xu hướng ngày nay là sự vật hóa (reify) mọi trao đổi “thiện ích” như thể đây không là gì khác hơn là một cuộc trao đổi đơn thuần “các sự vật”.

Trong thực tế, điều hiển nhiên là trong việc chuyển giao hàng hóa giữa con người với nhau luôn có một điều gì đó hơn là hàng hóa vật chất, vì sự kiện này là hàng hóa vật chất thường là những phương tiện chuyên chở các thiện ích phi vật chất mà sự hiện diện hoặc vắng mặt cụ thể của chúng xác định dứt khoát phẩm chất của chính các mối tương quan kinh tế (như, sự tin tưởng, công bằng và hợp tác). Chính ở bình diện này, người ta có thể hiểu rõ rằng luận lý học của việc cho đi mà không nhận lại gì không phải là một điều thay thế cho, mà đúng hơn là một điều dính liền và bổ sung cho việc trao đổi hàng hóa tương đương [17].

10. Người ta dễ dàng nhận thấy các lợi thế của một viễn kiến về con người nhân bản hiểu như từ bản chất vốn được lồng vào một mạng lưới tương quan tự chúng vốn là một nguồn tài nguyên tích cực. [18] Mỗi người được sinh ra trong một môi trường gia đình, nghĩa là giữa lòng các tương quan có trước họ mà không có chúng, họ không thể nào hiện hữu được. Sau đó, họ trải qua nhiều giai đoạn của cuộc sống, lúc nào cũng nhờ đến các mối dây nối kết họ vào thế giới như một tự do không ngừng được chia sẻ. Đấy chính là các mối dây nối kết nguyên thủy xác định con người như một hữu thể tương quan và trong yếu tính được in dấu bởi điều Mặc Khải Kitô Giáo gọi là “hiệp thông”. 

Bản chất nguyên thủy của sự hiệp thông này, trong khi biểu lộ nơi mỗi con người dấu vết của mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên và kêu gọi người ta bước vào mối tương quan với chính Người, cũng là điều tự nhiên hướng con người đến đời sống hiệp thông, nơi nền tảng để họ tìm đựợc sự thành toàn của mình. Việc ta thừa nhận đặc tính này như một yếu tố nguyên thủy và cấu thành ra nhân dạng của chúng ta, cho phép chúng ta nhìn những người khác không chủ yếu như những đối thủ khả hữu, mà đúng hơn, như các đồng minh khả hữu, trong việc xây dựng thiện ích, một thiện ích chỉ chân chính nếu biết quan tâm tới mỗi người và mọi người cùng một lúc.

Nền nhân học tương quan như vậy giúp con người nhân bản nhận ra tính hợp lệ của các chiến lược kinh tế nhằm trước hết cổ vũ phẩm chất đời sống hoàn cầu, trước khi mở rộng lợi nhuận một cách không phân biệt, dẫn đường hướng tới phúc lợi toàn diện của trọn vẹn con người và mọi người. Thực vậy, không lợi nhuận nào là hợp pháp khi nó không nhắm mục tiêu như phát huy toàn diện con người nhân bản, hàng hóa dành cho mọi người và ưu tiên chọn người nghèo. [19] Đây là ba nguyên tắc bao hàm và nhất thiết hướng đến nhau, nhằm xây dựng một thế giới công bằng và thống nhất hơn.

Vì lý do này, sự tiến bộ trong một hệ thống kinh tế không thể chỉ được đo lường bằng các tiêu chuẩn định lượng và định lợi nhuận, mà còn trên cơ sở phúc lợi, biết coi một hàng hóa không chỉ đơn thuần có tính vật chất. Mọi hệ thống kinh tế sẽ hợp pháp nếu nó triển nở không chỉ nhờ sự phát triển trao đổi có tính định lượng mà còn bởi khả năng biết cổ vũ sự phát triển của toàn bộ con người và của mọi người. Phúc lợi và phát triển cả hai đòi hỏi và hỗ trợ lẫn nhau, [20] kêu gọi các chính sách và quan điểm lâu dài vượt xa các ngắn hạn. [21]

Về phương diện này, điều đặc biệt đáng ước mong là các định chế như đại học và trường kinh doanh cả hai nên thấy trước và cung cấp, như một yếu tố căn bản chứ không chỉ có tính bổ sung trong chương trình học của họ, một chiều kích đào tạo nhằm giáo dục sinh viên hiểu kinh tế học và tài chính dưới góc độ một viễn kiến tổng thể về con người nhân bản và tránh chủ nghĩa giản lược chỉ thấy một số chiều kích của con người. Cần có một nền đạo đức để thiết kế việc đào tạo như thế. Học thuyết xã hội của Giáo Hội sẽ là một sự trợ giúp đáng kể trong việc nối kết này.

11. Do đó, phúc lợi phải được đo bằng các tiêu chuẩn toàn diện hơn tổng sản lượng nội địa của một quốc gia (GDP), và, thay vào đó, phải tính đến các tiêu chuẩn khác, ví dụ, sự an toàn và an ninh, sự tăng trưởng của “vốn nhân bản”, phẩm chất mối tương quan nhân bản và việc làm. Có thể theo đuổi lợi nhuận nhưng không được “bằng mọi giá”, cũng không như một mục tiêu tổng bộ hoá hành động kinh tế.

Ở đây, sự hiện diện của các tiêu chuẩn nhân bản hóa và các biểu thức văn hóa biết đánh giá tính cho không (gratuité), cả hai, đã được chứng minh là hữu ích và mang tính điển hình. Tóm lại, việc phát hiện và thực thi điều đúng và điều chính đáng, coi chúng như các thiện ích ngay trong chúng, trở thành qui tắc để đánh giá. [22] Lợi nhuận và tình liên đới không còn là các đối kháng nữa. Thực thế, nơi nào lòng ích kỷ và quyền lợi bất di bất dịch chiếm ưu thế, thì con người nhân bản khó có thể hưởng được sự trao đổi hữu hiệu giữa lợi nhuận và sự hiến tặng, vì tội lỗi có xu hướng làm mờ đi và phá vỡ mối tương quan này. Theo quan điểm nhân bản trọn vẹn, có một sự trao đổi hiện thực giữa lợi nhuận và tình liên đới, một sự trao đổi, nhờ tự do của con người, đã tháo mở một tiềm năng to lớn cho thị trường.

Lời kêu gọi lâu dài muốn con người biết thừa nhận phẩm chất của việc cho không đã phát xuất từ qui luật được Chúa Giêsu đưa ra trong Tin Mừng, vốn được gọi là Luật Vàng, mời gọi chúng ta làm cho người khác những gì chúng ta muốn họ làm cho chúng ta (xem Mt 7, 12; Lc 6, 31).

12. Không hoạt động kinh tế nào triển nở dài hạn, nếu không được lồng vào một bầu khí tự do sáng kiến. [23] Ngày nay, điều cũng hiển nhiên là tự do mà các tác nhân kinh tế muốn hưởng, nếu nó được hiểu một cách tuyệt đối và mất hết qui chiếu nội tại vào chân lý và điều thiện, có xu hướng tạo ra trung tâm quyền lực và nghiêng về phía các hình thức hoạt đầu (oligarchy) và kết cục làm suy yếu chính tính hữu hiệu của hệ thống kinh tế [24].

Từ quan điểm trên, dễ thấy tại sao, với sự kiểm soát ngày càng lớn mạnh và bao trùm của các bên có quyền và mạng lưới tài chính - kinh tế rộng lớn, những người được đại biểu để thi hành quyền lực chính trị thường mất hướng và trở thành bất lực bởi các đại lý siêu quốc gia và bởi sự bất ổn của tư bản do họ quản lý. Những người được ủy quyền chính trị thấy khó có thể hoàn thành ơn gọi ban đầu của họ như các công bộc của ích chung, và thậm chí bị biến cải thành những công cụ phụ thuộc của các quyền lợi xa lạ với điều thiện [25].

Những nhân tố trên càng làm cho việc liên minh đổi mới giữa các tác nhân kinh tế và chính trị trở thành cần thiết ngõ hầu thúc đẩy bất cứ điều gì có thể có lợi cho việc phát triển toàn diện mọi con người nhân bản cũng như xã hội nói chung và kết hợp các đòi hỏi liên đới với các đòi hỏi liên đới [26].

13. Trên nguyên tắc, các hệ thống và phương tiện mà các thị trường sử dụng để gia tăng khả năng phân phối các tài nguyên của họ được phép về mặt đạo đức, miễn là chúng không chống lại phẩm giá con người và không thờ ơ với ích chung [27].

Đồng thời, điều rõ ràng là thị trường, trong tư cách các lực đẩy mạnh mẽ của nền kinh tế, không có khả năng tự quản trị chính nó. [28] Thực thế, các thị trường không biết cách đưa ra các giả định giúp chúng điều hành trơn tru (cùng hiện hữu về xã hội, trung thực, tin cậy, an toàn và an ninh, luật pháp, vv) cũng như cách sửa sai các hậu quả và các lực lượng gây hại cho xã hội loài người (bất bình đẳng, bất cân xứng, thiệt hại môi trường, mất an ninh xã hội và gian lận).

14. Hơn nữa, bên cạnh sự kiện hầu hết các nhà điều hành của nó được đặc biệt thúc đẩy bởi các ý hướng tốt và đúng, nhưng không thể bỏ qua sự kiện này là, do tính phổ biến (omniprésence) và khả năng nhất thiết của nó trong việc tạo điều kiện cho, và theo một nghĩa nào đó, thống trị nền kinh tế thực ngày nay, kỹ nghệ tài chánh là nơi mà lòng ích kỷ và việc lạm quyền có tiềm năng lớn lao gây hại cho cộng đồng.

Vì lý do đó, cần lưu ý điều này: trong thế giới kinh tế - tài chính, có những điều kiện trong đó một số phương pháp, mặc dù, theo quan điểm đạo đức, không phải là không thể chấp nhận được một cách trực tiếp, vẫn tạo ra các trường hợp gần như vô luân, nghĩa là, những dịp sẵn sàng sản sinh ra loại lạm dụng và lừa đảo có thể làm tổn hại các đối tác kém thế hơn. Ví dụ, việc thương mại hóa một số công cụ tài chánh, tự nó, là điều được phép (licit), nhưng trong một tình huống bất cân xứng, rất có thể nó lợi dụng việc thiếu kiến thức hoặc thế yếu kém về hợp đồng của một trong hai đối tác. Trong chính nó, việc này được kể là một vi phạm đến tính đúng đắn phải có trong mối tương quan, vốn dĩ là một vi phạm trầm trọng theo quan điểm đạo đức.

Sự phức tạp của nhiều sản phẩm tài chánh hiện đang làm cho tính chất bất cân xứng thành một yếu tố cố hữu của chính hệ thống và đặt người mua ở vị trí kém hơn những người rao bán các sản phẩm này - một tình huống mà xét theo một số khía cạnh sẽ dẫn đến việc vượt qua nguyên tắc caveat emptor (người mua phải kiểm soát món hàng mình mua) truyền thống. Nguyên tắc này, theo đó, trách nhiệm lượng định phẩm chất hàng hóa mua được trước hết thuộc về người mua, trên thực tế giả định sự bình đẳng trong khả năng bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên mua bán. Điều này thực sự không hề có trong nhiều trường hợp cả do mối tương quan tôn ti (hierarchical) rõ ràng đã được thiết lập trong một số loại hợp đồng (ví dụ, giữa người cho vay và người vay) lẫn cấu trúc phức tạp của nhiều công cụ tài chánh.

15. Giống nhiều của cải khác được con người sử dụng, tiền bạc, tự nó, cũng là một công cụ tốt; nó là một phương tiện phục vụ tự do và giúp tăng tiến các khả thể của họ. Tuy nhiên, phương tiện này có thể dễ dàng quay lưng chống lại con người. Cũng thế, việc tài chánh hóa thế giới làm ăn, khi cho phép các ngành kinh doanh sử dụng tiền bạc nhờ việc đi vào lãnh vực thương thuyết tự do ở thị trường chứng khoán, tự nó, cũng là một điều tích cực. Tuy nhiên, hiện tượng này ngày nay dễ có nguy cơ rơi vào chỗ nhấn mạnh đến việc tài chánh hóa nền kinh tế cách xấu xa; nó phần nào tạo ra thứ giầu có ảo, chủ yếu tập trung vào các giao dịch có đặc tính nhằm đầu cơ thuần túy và các giao dịch thuộc loại cao tần (high frequency trading), thu hút vào nó những khoản vốn khổng lồ, do đó, rút chúng ra khỏi lưu lượng tốt lành của nền kinh tế thực [29].

Điều được tiên đoán trước đây hơn một thế kỷ, bất hạnh thay, nay đã trở thành một thực tại: thu nhập do vốn nay đang gây tổn hại cho thu nhập do việc làm mà nó có nguy cơ thay thế trong khi thu nhập này bị loại ra bên lề các lợi ích chính của hệ thống kinh tế. Kết quả, chính việc làm, cùng với phẩm giá của nó, trở thành không những một thực tại luôn bị đe dọa, mà còn mất hết phẩm tính “điều thiện” đối với con người [30], như thế trở thành một phương tiện trao đổi đơn thuần bên trong các tương quan xã hội bất bình đẳng.

Trong việc đảo lộn trật tự trên giữa các phương tiện và mục đích, điều làm cho việc làm từ tư thế một điều thiện phải bước qua tư thế “dụng cụ”, và tiền bạc, từ tư thế phương tiện bước lên tư thế “mục đích”, thấy mình hiện diện trong mảnh đất mầu mỡ của nền văn hóa “vứt bỏ”; nền văn hóa này, không hề đắn đo và một cách phi luân, đã đẩy qua bên lề nhiều nhóm dân chúng, tước hết của họ việc làm xứng đáng và do đó biến họ thành “không viễn ảnh, không lối thoát”: “Ở đây không đơn giản chỉ là hiện tượng bóc lột và áp chế, mà là một điều mới lạ: Loại bỏ cuối cùng đụng đến tận gốc rễ, tức việc thuộc về xã hội nơi người ta sinh sống từ lúc người không còn bị đặt xuống hàng cuối cùng, ở bên lề, hay không có quyền hành, mà là đứng ở bên ngoài. Những người bị loại bỏ không phải là “những người bị bóc lột”, mà là bị vứt bỏ, “đồ bỏ đi” [31].

16. Về vấn đề này, làm sao không nghĩ đến chức năng xã hội không thể thay thế của tín dụng mà việc thực hành trước hết thuộc các trung gian tài chánh có khả năng và đáng tin cậy? Trong lãnh vực này, điều xem ra rõ ràng là sự kiện áp dụng các lãi xuất quá cao, trên thực tế, không thể chịu đựng được đối với người vay, nói lên một nghiệp vụ không những bất chính về phương diện đạo đức, mà còn là một sự loạn năng (dysfonctionnement) nếu nói về sự lành mạnh của nền kinh tế. Những thực hành như thế, cũng như các tác phong cho vay nặng lại, luôn luôn bị ghét bỏ, bởi lương tâm con người như là bất công, và bởi hệ thống kinh tế như là một trở ngại cho việc vận hành tốt của nó. 

Ở đây, hoạt động tài chánh cho ta thấy ơn gọi hàng đầu của nó là phục vụ nền kinh tế thực; nó được kêu gọi tạo ra giá trị bằng các phương tiện hợp luân và làm dễ việc giải phóng các khoản vốn ngõ hầu tạo ra tính lưu chuyển thịnh vượng tốt lành [32]. Xin đơn cử một thí dụ, các hợp tác xã tín dụng, các tín dụng vi mô (micro-crédit), cũng như tín dụng công cộng phục vụ các gia đình, các xí nghiệp, các tập đoàn địa phương hay các tín dụng giúp đỡ ở các nước đang phát triển đều là các thực tại rất tích cực và xứng đáng được khuyến khích. 

Trong lãnh vực này, lãnh vực, trong đó, tiền bạc có thể biểu lộ mọi tiềm năng tích cực, chưa bao giờ như trước đây, điều rõ ràng dường như là: xét theo quan điểm đạo đức, không được coi là hợp pháp khi đặt tín dụng phát sinh từ xã hội dân sự vào các nguy cơ quá đáng, bằng cách sử dụng nó chủ yếu vào các mục tiêu đầu cơ. 

17. Điều không thể chấp nhận được về luân lý không hẳn là sự kiện kiếm lời, mà là lợi dụng cho ưu thế của mình một sự bất bình đẳng nào đó để sinh những khoản lời quan trọng có hại cho người khác; là làm giầu bằng cách lạm dụng chức vụ nổi bật của mình mà làm hại người khác hoặc làm giầu bằng cách gây hại tới phúc lợi tập thể hoặc gây rối cho phúc lợi này [33].

Thực hành trên tỏ ra hết sức tồi tệ xét về phương diện luân lý, khi một thiểu số người, thậm chí có những khoản đầu tư quan trọng, vì chỉ muốn kiếm lời thuần túy, nên đã sử dụng các may rủi của đầu cơ [34] để hạ giá giả tạo các chứng khoán nợ công cộng, không hề quan tâm gì tới sự kiện nó có thể ảnh hưởng tiêu cực hay làm gia trọng tình thế kinh tế của toàn bộ nhiều xứ sở. Do đó, họ đã đặt không những nhiều dự án lành mạnh hóa công cộng vào thế nguy hiểm, mà cả sự ổn định kinh tế của hàng triệu gia đình, do đó, buộc các nhà cầm quyền chính phủ phải can thiệp bằng nhiều tiền bạc công, một điều sẽ tiến tới chỗ gây ảnh hưởng giả tạo lên việc điều hành tốt các hệ thống chính trị. 

Ngày nay, đầu cơ, đặc biệt trong lãnh vực kinh tế và tài chánh, có nguy cơ hất cẳng mọi mục tiêu quan trọng khác vốn nâng đỡ tự do nhân bản. Điều này gây hại cho di sản mênh mông các giá trị vốn tạo lập ra xã hội dân sự, môi trường cùng sống chung trong hoà bình, gặp gỡ, liên đới, hỗ tương phục hồi và trách nhiệm đối với ích chung. Trong đường hứng này, các hạn từ như “hiệu năng” (efficacité), “cạnh tranh”, “lãnh đạo”, “công trạng” có xu hướng chiếm hết chỗ trong nền văn hóa dân chính của chúng ta; chúng đảm nhận một tầm quan trọng kết cục làm nghèo đi phẩm chất các trao đổi, bị giản lược vào một hệ số số học thuần túy. 

Điều trên, trước nhất, đòi kinh doanh phải là một hoạt động cứu những gì là nhân bản ngõ hầu có thể mở lại các chân trời cho việc gia tăng các giá trị mà chỉ có nó mới giúp con người tự tìm lại chính mình, xây dựng các xã hội có khả năng trở thành những nơi ngụ cư đầy chào đón và đại lượng, nơi những con người yếu đuối nhất tìm được chỗ đứng và là nơi sự thịnh vượng đưỡc sử dụng một cách bình đằng, vì phúc lợi của mọi người. Tóm lại, đó là những nơi con người có thể có cuộc sống tốt đẹp và dễ dàng hy vọng. 

III. Một số soi sáng đối với bối cảnh hiện nay 

18. Để cung cấp một số định hướng cụ thể và chuyên biệt cho kế hoạch đạo đức đối với các tác nhân kinh tế và tài chánh, những người ngày càng mong muốn có chúng, chúng tôi xin đưa ra một số minh xác để biện phân nhằm mở đường cho những gì sẽ nhân bản hóa con người thực sự và ngăn cản họ gây thiệt hại cho phẩm giá họ và ích chung [35].

19. Nhờ các tiến bộ của việc hoàn cầu hóa và kỹ thuật số hóa, ta có thể so sánh thị trường với một sinh vật khổng lồ, mà trong huyết quản đang lưu chuyển một lượng tư bản mênh mông, giống như bạch huyết (lymphe) mang sức sống. Khi mượn so sánh này, ta cũng có thể nói đến “sức khỏe” của sinh vật này, lúc các phương tiện và cơ cấu của nó bảo đảm cho hệ thống một sự vận hành tốt đẹp, nơi việc gia tăng và phân phối thịnh vượng luôn đi đôi với nhau. Sức khỏe của hệ thống này tùy thuộc sức khỏe của các hành động cá nhân cộng tác vào công trình. Khi sinh vật là thị trường hưởng được một sức khỏe tốt, thì phẩm giá con người cũng như ích chung sẽ dễ dàng được tôn trọng và cổ vũ. 

Một cách có liên hệ, người ta cũng có thể nói tới việc “đầu độc” cơ thể này mỗi khi người ta du nhập và truyền bá các khí cụ tài chánh và kinh tế ít đáng tin cậy gây hại trầm trọng cho việc phát triển và phân phối sự thịnh vượng, và cũng tạo ra các khó khăn và nguy cơ có hệ thống. 

Bởi thế, ngày nay, hơn bao giờ hết, người ta hiểu sự cần thiết phải dẫn khởi việc các nhà cầm quyền dân sự thừa nhận mọi sản phẩm của cuộc cải tiến tài chánh, ngõ hầu sự lành mạnh của hệ thống được duy trì và ngăn ngừa được các hiệu quả phụ thuộc (callatéral) có hại.

Khuyến khích sự lành mạnh và ngăn ngừa sự thối nát, ngay trên quan điểm kinh tế, cũng đã là một mệnh lệnh luân lý không thể tránh được đối với mọi tác nhân liên hệ tới thị trường. Sự cần thiết này cũng cho thấy sự cấp thiết phải có sự phối hợp siêu quốc gia giữa các thành tố khác nhau của hệ thống tài chánh địa phương [36]. 

20. Một phúc lợi như vậy tự nuôi dưỡng mình trên vô số các tài nguyên đa dạng, vốn tạo nên một loại "đa dạng sinh học" (biodiversity) về kinh tế và tài chánh. Sự đa dạng sinh học này nói lên một giá trị gia tăng đối với hệ thống kinh tế và cần được kích thích và bảo vệ thông qua các chính sách tài chính - kinh tế thỏa đáng, nhằm bảo đảm cho thị trường sự hiện diện của những con người đa dạng và các dụng cụ lành mạnh với các đặc điểm phong phú và đa dạng. Điều này xẩy đến theo cả quan điểm tích cực, qua việc nâng đỡ hành động của họ lẫn theo quan điểm tiêu cực, bằng cách ngăn cản tất cả những ai, trái lại, làm hại chức năng của hệ thống sản xuất và phân phối thịnh vượng. 

Về vấn đề này, cần lưu ý rằng nhiệm vụ sản xuất giá trị gia tăng bên trong các thị trường một cách lành mạnh chỉ được thực hiện bằng chức năng hợp tác mà thôi. Một hiệp lực (synergy) trung tín và thâm hậu giữa các tác nhân dễ dàng đạt được giá trị thặng dư đó, một thặng dư mà mọi thành tựu kinh tế đều nhắm đến [37].

Khi con người nhân bản nhận ra tình liên đới căn bản vốn kết hợp họ với toàn thể nhân loại, họ hiểu ra rằng họ không thể chỉ giữ cho riêng mình các thiện ích họ đang sở hữu. Khi một người nào đó quen sống trong tình liên đới, thì các thiện ích họ sở hữu đều được sử dụng không những cho nhu cầu riêng của họ mà còn tự nhân thừa lên, tạo ra nhiều hoa trái bất ngờ cho người khác nữa [38]. Ở đây, chúng ta nhận thấy rõ rằng việc chia sẻ có thể không chỉ là “sự phân phối mà còn là sự nhân thừa hàng hóa, tạo ra bánh ăn mới, hàng hóa mới, Sự Thiện viết hoa mới nữa [39]. 

21. Kinh nghiệm và bằng chứng trong những thập niên qua đã cho thấy, một đàng, niềm tin vào sự cho là tự cung tự cấp của thị trường, độc lập đối với bất cứ nền đạo đức nào là một điều hết sức ngây thơ, và đàng khác, sự cần thiết bó buộc phải có một quy định thích đáng, một qui định cùng một lúc phải hợp nhất sự tự do và việc bảo vệ mọi người, và vận hành để tạo ra các tương tác lành mạnh và thích đáng, đặc biệt đối với những người dễ bị tổn thương hơn. Theo nghĩa này, các quyền lực chính trị và kinh tế - tài chính phải duy trì khoảng cách và tính độc lập, mà không có bất cứ tổn hại cận kề nào, đồng thời nhắm tới việc thực hiện một thiện ích chung cho mọi người xét trong căn bản chứ không dành riêng cho một số ít người có đặc quyền [40]. 

Một quy định như thế càng cần thiết hơn nữa do sự kiện này: trong số các nguyên nhân chính tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây nhất là hành vi vô luân của các tác nhân trong thế giới tài chánh, nơi mà chiều kích siêu quốc gia của hệ thống kinh tế tự làm dễ dàng việc qua mặt các quy định của các quốc gia riêng rẽ. Hơn nữa, tính bất ổn định và tính di động quá đáng của các cuộc đầu tư vốn trong thế giới tài chánh đã cho phép những người kiểm soát chúng hoạt động dễ dàng vượt quá mọi qui tắc không nhằm lợi nhuận tức khắc, thường bằng cách sử dụng chức vụ nổi bật của họ để gây áp lực, thậm chí lên cả quyền lực chính trị hiện hành.

Do đó, điều rõ ràng là các thị trường cần tới các phương hướng vững chắc và mạnh mẽ, có tính mềm dẻo khôn ngoan hết mực (macro-prudential) hơn là có tính quy phạm, chung chia hơn là độc dạng; cũng cần các quy định liên tục được cập nhật hóa, có thể đáp ứng với sự trồi sụt của thị trường. Các phương hướng tương tự phải bảo đảm việc nghiêm chỉnh kiểm soát phẩm chất và độ tin cậy của mọi sản phẩm tài chính - kinh tế, đặc biệt là các sản phẩm được cấu trúc nhiều hơn. Ngoài ra, khi vận tốc các diễn trình cải tiến tạo ra các rủi ro quá mức một cách có hệ thống, các nhà điều hành kinh tế phải chấp nhận các nghĩa vụ và giới hạn do ích chung đòi hỏi, mà không mưu toan qua mặt hoặc giảm bớt mục đích của chúng.

Việc hoàn cầu hóa hiện thời đối với hệ thống tài chính đòi phải có sự phối hợp ổn định, rõ ràng và hữu hiệu giữa các cơ quan qui định quốc gia, với khả thể, và đôi khi, sự cần thiết, phải chia sẻ các quyết định có tính ràng buộc ngay khi được yêu cầu, trước các đe dọa đối với ích chung. Các cơ quan có tính qui định như vậy phải luôn độc lập và bị ràng buộc bởi các đòi hỏi công bằng và lợi ích công cộng. Về phương diện này, các khó khăn dễ hiểu không nên ngăn cản việc tìm kiếm và áp đặt các hệ thống quy định như thế. Các hệ thống này phải được sự đồng thuận giữa các quốc gia khác nhau, nhưng với phạm vi hữu hiệu siêu quốc gia [41].

Các quy định phải làm dễ dàng sự minh bạch hoàn toàn liên quan tới bất cứ điều gì được giao thương để loại bỏ mọi hình thức bất công và bất bình đẳng, do đó bảo đảm được sự công bằng lớn nhất có thể trong việc trao đổi. Tương tự như vậy, sự tập trung bất cân xứng về thông tin và quyền lực có xu hướng tăng cường các tác nhân kinh tế mạnh hơn và do đó tạo ra các bá quyền có khả năng ảnh hưởng đơn phương không những các thị trường mà còn cả các hệ thống chính trị và pháp lý nữa. Hơn nữa, nơi nào, việc bãi bỏ quy định hàng loạt được thực hành, thì kết quả hiển nhiên sẽ là khoảng chân không về quy định và thể chế vốn tạo không gian không những cho nguy cơ luân lý và tham ô, mà còn tạo dịp cho việc xuất hiện cảnh sum sê vô lý của thị trường, tiếp theo trước hết là các nghiệp vụ đầu cơ, và sau đó sự sụp đổ bất ngờ, có tính phá hoại và các khủng hoảng có tính hệ thống [42].

22. Cuộc khủng hoảng có hệ thống có thể tránh được một cách hữu hiệu hơn nữa nếu có một định nghĩa và sự tách biệt rõ ràng giữa các trách nhiệm ngân hàng đối với việc quản lý tín dụng, quản lý tín dụng hàng ngày, tiết kiệm đầu tư và kinh doanh đơn thuần [43]. Điều này được dự tính càng nhiều càng tốt để tránh các tình huống bất ổn tài chánh.

Một hệ thống tài chánh lành mạnh cũng đòi một số lượng thông tin tối đa, bao nhiêu có thể, để mọi tác nhân có thể bảo vệ lợi ích của họ một cách đầy đủ, và với sự tự do hoàn toàn. Thực thế, điều quan trọng là phải biết liệu vốn của người ta có được sử dụng cho các mục đích đầu cơ hay không, và cũng phải biết mức độ rủi ro và giá thỏa đáng của các sản phẩm tài chánh mà người ta đã đặt mua. Hơn các khoản tiết kiệm thông thường thuộc loại quen thuộc, bảo vệ và tìm cách tối thiểu hóa các rủi ro bất lợi là một thiện ích công cộng. Chính việc tiết kiệm, khi ủy thác vào bàn tay chuyên môn của các cố vấn tài chánh, cần phải được quản lý tốt, chứ không phải chỉ quản lý mà thôi.

Trong số các hoạt động đáng nghi ngờ về luân lý của các cố vấn tài chánh trong việc quản lý các khoản tiết kiệm, những điều sau đây cần phải được xem xét: sự chuyển động quá mức của danh mục đầu tư thường nhằm tăng doanh thu từ hoa hồng dành cho ngân hàng hoặc trung gian tài chánh khác; sự thiếu vô tư phải có trong việc cung cấp các công cụ tiết kiệm, trong đó, so với một số ngân hàng, sản phẩm của những người khác có thể phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng; thiếu chuyên cần thoả đáng hoặc thậm chí sơ suất ác ý về phía các cố vấn tài chánh liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi liên hệ đối với danh mục đầu tư của khách hàng; việc cấp một khoản vay của một ngân hàng trung gian, tùy thuộc vào việc đặt mua song song với các sản phẩm tài chính khác do cùng ngân hàng này cung cấp, nhưng cuối cùng không thuận lợi cho khách hàng.

23. Mỗi doanh nghiệp tạo ra một mạng lưới liên hệ quan trọng và theo đại diện một cách độc đáo cho một bộ phận xã hội trung gian thực sự với một nền văn hóa và thực hành riêng. Nền văn hóa và thực hành này, trong khi xác định ra tổ chức nội bộ của doanh nghiệp, cũng ảnh hưởng đến cấu trúc xã hội, trong đó, nó hoạt động. Ở bình diện này, Giáo Hội nhắc lại sự quan trọng về trách nhiệm xã hội của mỗi xí nghiệp [44], một trách nhiệm đối với cả bên ngoài (ad extra) lẫn lẫn bên trong (ad intra) cơ cấu, cùng một lúc. 

Trong ý nghĩa này, bất cứ nơi nào chỉ có lợi nhuận mới được đặt ở tột đỉnh văn hóa của một xí nghiệp tài chánh, mà quên khuấy các đòi hỏi thực sự của ích chung, thì mọi chủ trương đạo đức thực sự bị coi là bất liên quan. Ngày nay, điều này được báo cáo là một sự kiện thực tế và hết sức phổ biến ngay trong các trường kinh doanh nổi tiếng. Mọi điển hình đạo đức, trên thực tế, đều bị coi là ngoại lai và chỉ nằm bên cạnh hoạt động kinh doanh. Điều này càng được nhấn mạnh hơn nữa do sự kiện này là, trong luận lý học tổ chức của họ, những người không thích ứng với các mục tiêu kinh doanh thuộc loại này đều bị phạt cả ở bình diện trả công (rémunération) lẫn ở bình diện nhìn nhận nghề nghiệp. Trong các trường hợp này, mục tiêu lợi nhuận mà thôi dễ dàng tạo ra một luận lý học tai ác (perverse) và lọc lựa (selective) thường có lợi cho sự tiến thân của các nhà lãnh đạo kinh doanh có khả năng, nhưng tham lam và cẩu thả, và mối liên hệ của họ với người khác thường chủ yếu được thúc đẩy bởi lợi nhuận bản thân đầy ích kỷ.

Ngoài ra, một luận lý học như vậy thường thúc đẩy ban quản trị thiết lập ra các chính sách kinh tế nhằm không làm tăng sự lành mạnh kinh tế của các công ty được họ phục vụ, mà chỉ vì lợi ích của các cổ đông, do đó, gây hại đến lợi ích hợp pháp của những người gánh vác mọi công việc và dịch vụ có lợi cho cùng công ty này, cũng như những người tiêu thụ và các cộng đồng địa phương khác nhau (các bên có liên quan). 

Thường được khuyến khích bằng một khoản thù lao đáng kể tỷ lệ thuận với kết quả tức khắc của việc quản trị, nhưng không cân đối như thế bằng một trừng phạt tương đương, trong trường hợp không đạt được các mục tiêu, các luận lý học này, những thứ luận lý này, trong đoản kỳ, bảo đảm lợi nhuận cao hơn cho các nhà quản lý và tác nhân, nhưng kết cục buộc phải chấp nhận các mạo hiểm quá mức, khiến các công ty yếu đi và thiếu các nguồn năng lượng kinh tế có thể bảo đảm cho họ nhiều triển vọng cho tương lai.

Tất cả những điều trên dễ dàng tạo ra và khuếch tán một nền văn hóa phi đạo đức sâu xa - trong đó người ta thường không ngần ngại phạm tội ác khi lợi ích dự kiến vượt quá mức phạt dự kiến. Tác phong này gây ô nhiễm nặng nề cho sức khỏe của mọi hệ thống kinh tế và xã hội. Nó gây nguy hiểm cho tính chức năng và làm tổn hại nghiêm trọng đến việc thực hiện hiệu quả lợi ích chung mà trên đó, mọi hình thức của đời sống xã hội nhất thiết phải dựa vào.

Thành thử, điều khẩn thiết bó buộc là một tự phê thành thực và đảo ngược xu hướng, thay vào đó, phải ủng hộ một nền văn hóa kinh doanh và tài chánh biết lưu ý tới mọi nhân tố tạo nên ích chung. Chẳng hạn, điều này có nghĩa đặt một cách rõ ràng con người nhân bản và phẩm chất các mối tương quan giữa họ với nhau ở tâm điểm nền văn hóa của doanh nghiệp, sao cho mỗi cơ cấu thực hành một hình thức trách nhiệm xã hội không những ngẫu nhiên hoặc nằm bên lề, nhưng còn điều hướng nó và sinh động hóa mọi hành động từ bên trong, điều hướng nó theo kế hoạch xã hội. 

Tính luân chuyển tự nhiên vốn có giữa lợi nhuận, một nhân tố cố hữu đối với mọi hệ thống kinh tế, và trách nhiệm xã hội, một yếu tố chủ yếu đối với sự tồn tại của bất cứ hình thức sống chung dân sự nào, được kêu gọi biểu lộ sự phong phú trọn vẹn của nó; nó cũng cho thấy sự nối kết keo sơn, một sự nối kết mà tội lỗi có xu hướng che dấu, giữa nền đạo đức biết tôn trọng con người và ích chung, và tính chức năng hiện thực của mọi hệ thống kinh tế tài chánh. Chẳng hạn, tính luân chuyển hợp đạo đức như vậy được đánh giá cao, khi theo đuổi việc giảm nguy cơ xung đột với các bên liên quan, cũng như khi khuyến khích một sự động viên nội tại lớn hơn đối với các nhân viên của công ty. 

Ở đây, việc tạo ra giá trị gia tăng, một việc vốn là mục tiêu chính của hệ thống kinh tế tài chánh, phải chứng minh một cách đầy đủ tính thực tiễn của mình bên trong một hệ thống đạo đức vững chắc, xây dựng trên việc chân thành mưu cầu ích chung. Chỉ nhờ việc nhìn nhận, và thực thi sự nối kết nội tại vốn có giữa động lực kinh tế và lý luận đạo đức này, mới nẩy sinh một thiện ích dành cho mọi người [45]. Vì, để vận hành đúng, thị trường phải tự dựa vào các điều kiện tiên quyết về nhân học và đạo đức, những điều kiện họ không có khả năng tự cấp cho mình, hay tự ý sản xuất ra.

24. Nếu, một mặt, sự đáng tin về tín dụng đòi một diễn trình lựa chọn thận trọng để nhận diện những người thụ hưởng thực sự xứng đáng, có khả năng đổi mới, được bảo vệ khỏi những thông đồng không lành mạnh, thì, mặt khác, để chịu được một cách hữu hiệu các rủi ro gặp phải, các ngân hàng phải có một sự quản lý tài sản thích hợp, để một sự phân chia cuối cùng các khoản lỗ có thể bị giới hạn ở mức lớn hơn và có thể, trước hết, qui cho những người thực sự chịu trách nhiệm về các tổn thất này.

Chắc chắn, việc quản lý tinh vi các khoản tiết kiệm, ngoài việc quy định pháp lý thích đáng, đòi phải có các mô hình (paradigms) văn hóa thỏa đáng, cùng với việc thực hành việc tái xét cẩn thận, theo quan điểm đạo đức, mối liên hệ giữa ngân hàng và khách hàng, cũng như bảo vệ liên tục tính hợp pháp của mọi giao dịch có liên quan.

Dọc theo các đường hướng trên, một gợi ý thú vị đáng được thử nghiệm, là việc lập ra các Ủy ban Đạo đức trong các ngân hàng, để hỗ trợ các Hội đồng Quản trị. Cho đến nay, điều này được thực hiện khi các ngân hàng được giúp đỡ không chỉ để bảo vệ bảng quyết toán (balance) của họ khỏi các hậu quả đau lòng và thua lỗ, và hướng tới một sự gắn bó hữu hiệu giữa sứ mệnh tập thể và các thực hành tài chánh, mà còn để nâng đỡ thoả đáng nền kinh tế thực.

25. Việc tạo ra các chứng khoán tín dụng với rủi ro cao, một việc trên thực tế tạo ra một giá trị ảo (fictive) mà không có sự kiểm soát thỏa đáng về phẩm chất hoặc đánh giá tín dụng đúng đắn, có thể làm giầu thêm cho các trung gian, nhưng dễ dàng tạo ra khả năng không chi trả được, có hại cho những người sau đó phải thu hồi các chứng khoán này. Điều này càng đúng hơn nếu gánh nặng phê phán các chứng khoán này được chuyển từ định chế phát hành chúng sang cho thị trường nhờ đó chúng được lan truyền và khuếch tán (như sự thanh toán các khoản vay dưới chuẩn [subprime mortages = tức loại cho vay mà người vay rất tồi về uy tín tín dụng – chú thích của người dịch]). Thực hành này tạo ra nhiều độc hại tổng quát, và nhiều khó khăn có tiềm năng xâm hại cả hệ thống. Sự thao túng thị trường như vậy mâu thuẫn với sự lành mạnh của hệ thống kinh tế - tài chánh, và không thể chấp nhận được theo quan điểm đạo đức biết tôn trọng ích chung.

Mỗi cổ phiếu tín dụng phải tương ứng với một giá trị có thể có thực chất, chứ không phải chỉ là một giá trị được cho là khó xác minh. Theo nghĩa này, việc cần phải có sự quy định công cộng và sự đánh giá vô tư (super partes) về công trình của cơ quan xếp hạng tín dụng, trở nên càng cấp bách hơn, với các công cụ pháp lý giúp có thể chế tài các hành động bị bóp méo và ngăn chặn việc tạo ra sự hoạt quyền (oligopoly) nguy hiểm về phía một thiểu số. Điều này thậm chí càng đúng hơn nữa trước sự hiện hữu của hệ thống môi giới tín dụng, trong đó trách nhiệm của tín dụng được cấp được chuyển từ người cho vay ban đầu sang những người cho vay trung gian sau đó.

26. Một số sản phẩm tài chính, trong đó có điều được gọi là “phái sinh” (derivative), được tạo ra nhằm cung cấp bảo hiểm chống các rủi ro cố hữu của một số giao dịch thường chứa một cuộc đánh cuộc dựa trên cơ sở giá trị được giả định gán cho các rủi ro này. Nằm ở nền các công cụ tài chính như thế thường là các hợp đồng trong đó các bên vẫn có thể đánh giá một cách hợp lý sự rủi ro căn bản mà họ muốn bảo hiểm.

Tuy nhiên, trong một số loại sản phẩm phái sinh, (đặc biệt các sản phẩm có tên là chứng khoán hóa (securizations), cần chú ý điều này: bắt đầu với các cấu trúc ban đầu, và được liên kết với các khoản đầu tư tài chính có thể nhận dạng được, càng ngày, các cấu trúc phức tạp hơn càng được xây dựng (chứng khoán hóa của các chứng khoán hóa) trong đó, sau nhiều giao dịch gần như không thể có, ngày càng khó khăn mới có thể ổn định đuợc giá trị đích thực của chúng một cách hợp lý và công bằng. Điều này có nghĩa: ở mỗi đoạn trong việc bán các cổ phần này, vượt quá ý muốn của các bên, đều thực sự diễn ra một sự bóp méo giá trị hiện thực của các rủi ro mà các công cụ này có nhiệm vụ phải bảo vệ. Tất cả những điều này khuyến khích sự xuất hiện của các ổ (bubbles) đầu cơ, vốn là nguyên nhân quan trọng góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng tài chánh gần đây.

Điều rõ ràng là sự không chắc chắn xung quanh các sản phẩm này, chẳng hạn như sự suy giảm đều đặn tính minh bạch của các sản phẩm được đảm bảo, vẫn không xuất hiện trong hoạt động ban đầu, khiến chúng liên tục kém được chấp nhận theo quan điểm đạo đức biết tôn trọng sự thật và lợi ích chung, vì nó biến chúng thành một quả bom nổ chậm, sớm hay muộn, sẵn sàng phát nổ, đầu độc sự lành mạnh của thị trường. Cần lưu ý rằng có một khoảng trống đạo đức, một khoảng trống sẽ trở nên nghiêm trọng hơn khi các sản phẩm này được thương lượng trên các điều được mệnh danh là thị trường ít được quy định hơn (over the counter = bán qua quầy) và bị chường nhiều hơn cho các thị trường được qui định một cách ngẫu nhiên, nếu không do gian lận, và do đó lấy đi các huyết mạch và đầu tư quan trọng cho nền kinh tế thực.

Một đánh giá đạo đức tương tự cũng có thể được áp dụng cho những việc sử dụng hoán đổi tín dụng mất khả năng chi trả (Credit Default Swap: chúng là các hợp đồng bảo hiểm cụ thể cho nguy cơ phá sản) cho phép đánh cuộc trên nguy cơ phá sản của bên thứ ba, ngay cả đối với những người, trước đó, chưa có bất cứ rủi ro tín dụng nào như vậy, và thực sự lặp lại các nghiệp vụ như vậy trên cùng một biến cố, một điều tuyệt đối không được thỏa thuận bởi công ước hoặc bảo hiểm thông thường.

Thị trường hoán đổi tín dụng mất khả năng chi trả(CDS), tiếp theo cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2007, đã gây ấn tượng mạnh mẽ đủ để đại biểu cho một qui mô lớn gần như tương đương với Tổng Sản Phẩm Nội Địa (GDP) của toàn thế giới. Việc phổ biến loại hợp đồng như vậy, mà không định giới hạn thích hợp, đã khuyến khích sự phát triển thứ tài chánh cơ hội, và đánh cuộc trên sự thất bại của người khác, một điều không thể chấp nhận được theo quan điểm đạo đức.

Thực thế, diễn trình thu mua các dụng cụ này, bởi những người không có bất cứ rủi ro tín dụng nào, đã tạo ra một trường hợp độc đáo trong đó người ta bắt đầu nuôi dưỡng ý muốn hủy hoại các thực thể kinh tế khác và thậm chí còn có thể quyết tâm làm như thế.

Rõ ràng một khả năng như vậy, một mặt, đại biểu cho một sự kiện đặc biệt đáng trách theo quan điểm đạo đức, vì tác nhân làm như vậy theo quan điểm ăn thịt người về kinh tế, và, mặt khác, kết cục phá hoại niềm tin căn bản cần thiết mà không có nó, hệ thống kinh tế kết cục sẽ tự ngăn chặn chính nó. Trong trường hợp này, chúng ta cũng có thể nhận thấy, theo quan điểm đạo đức, một biến cố tiêu cực sẽ gây hại như thế nào cho sự vận hành lành mạnh của hệ thống kinh tế.

Do đó, cần phải lưu ý rằng, khi từ một cuộc đánh cuộc như vậy, có thể phát sinh sự thiệt hại to lớn cho toàn bộ quốc gia và hàng triệu gia đình, chúng ta phải đương đầu với những hành động cực kỳ vô luân, xem ra điều cần là mở rộng các răn đe (deterrents), vốn có ở một số quốc gia, đối với loại nghiệp vụ ấy, xử phạt các vi phạm với mức độ nghiêm trọng tối đa.

27. Điểm chính của năng động tính đang điều chỉnh các thị trường tài chánh là mức độ đánh thuế tiền lời liên quan đến các khoản vay liên ngân hàng (LIBOR), mà việc đo lường được dùng để hướng dẫn lãi suất trên thị trường tiền tệ, cũng như trong tỷ giá hối đoái chính thức của các loại tiền tệ khác nhau do các ngân hàng xử lý.

Đây là một số thông số quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến toàn bộ hệ thống kinh tế - tài chánh khi chúng ảnh hưởng hàng ngày đến việc chuyển tiền đáng kể giữa các bên phê duyệt hợp đồng thực sự dựa trên số đo của các tỷ giá này. Việc thao túng cách đo lường các tỷ giá này cấu thành một hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng với các hậu quả có tầm rộng rãi.

Sự kiện điều này có thể xảy ra mà không bị trừng phạt trong nhiều năm qua cho thấy hệ thống tài chánh khi không được kiểm soát đầy đủ theo quy định và thiếu các biện pháp trừng phạt tương xứng đối với các vi phạm mà các bên liên quan thường gặp phải thì mong manh và cận kề với gian lận xiết bao. Trong môi trường này, việc thành lập các “mạng lưới” thông đồng thực sự, giữa những người thay vì được sắp xếp cho việc ấn định chính xác những tỷ giá này, thì thực tế đã tạo ra, một cách trùng hợp ngẫu nhiên, một hiệp hội tội ác, đặc biệt có hại cho ích chung, gây ra một vết thương nguy hiểm cho sức khỏe của hệ thống kinh tế. Hiện tượng này phải bị trừng phạt bằng các hình phạt thỏa đáng và làm nản việc lặp đi lặp lại.

28. Ngày nay, các tác nhân chính hoạt động trong thế giới tài chánh, và đặc biệt các ngân hàng, phải được trang bị bằng các bộ phận nội bộ giúp bảo đảm chức năng tuân thủ, tự kiểm soát tính hợp pháp trong các bước chính của diễn trình ra quyết định và các sản phẩm chính do công ty cung cấp. Tuy nhiên, nên gi nhận rằng, ít nhất cho đến những năm rất gần đây, việc thực hành hệ thống kinh tế-tài chính đôi khi dựa vào một phán đoàn hoàn toàn “tiêu cực” về chức năng này, nghĩa là, trên một sự tôn trọng hoàn toàn có tính hình thức các giới hạn do pháp luật hiện hành ấn định. Thật không may, từ điều này thường xuyên phát sinh ra các tình huống trốn tránh trên thực tế các luật lệ kiểm soát, nghĩa là các hành động có xu hướng lẩn tránh các nguyên tắc hiện hành, nhưng vẫn lo sao để đừng trực diện đi ngược lại các qui định nói lên các nguyên tắc này, để khỏi chịu các chế tài sau đó.

Để tránh điều trên, điều cần là phán đoán tuân thủ phải khảo sát tận tường các nghiệp vụ khác nhau kể cả các nghiệp vụ “tích cực”, nhằm bảo đảm chúng tôn trọng một cách hữu hiệu các nguyên tắc hướng dẫn luật lệ hiện hành. Theo nhiều người, việc thực thi chức năng theo cách này sẽ được tạo điều kiện nếu nó giúp tổ chức các Ủy ban Đạo đức, hoạt động cùng với các Hội đồng Quản trị, có thể cấu thành một đối tác tự nhiên được tạo thành từ những người cần đảm bảo, trong hoạt động cụ thể của ngân hàng, sự phù hợp của hành vi đối với các chỉ tiêu hiện có.

Theo nghĩa trên, cần phải dự liệu một số hướng dẫn trong công ty giúp tạo thuận lợi cho một phán đoán tuân thủ, để người ta có thể biện phân được những nghiệp vụ nào, có thể đạt được về kỹ thuật, là hợp pháp một cách cụ thể và có thể thể hiện được về mặt luân lý (thí dụ, câu hỏi này có thể tự đặt ra một cách chủ yếu liên quan tới các thực hành trốn thuế). Do đó, người ta có thể chuyển từ một sự tuân thủ hình thức qua một sự tuân thủ có thực chất trong việc áp dụng các quy định.

Ngoài ra, điều đáng mong ước là trong hệ thống định chuẩn, vốn chi phối thế giới tài chánh, nên dự liệu một điều khoản tổng quát; điều khoản này sẽ tuyên bố là bất hợp pháp mọi hành động mà mục đích trổi vượt là trốn tránh các qui định hiện hành, với việc nhận chịu hậu quả tội lỗi bằng các di sản của tất cả những bên liên hệ.

29. Không còn có thể bỏ qua một số hiện tượng trên thế giới, như sự phổ biến các hệ thống ngân hàng thế chấp (hệ thống ngân hàng trong bóng tối). Những hệ thống này, mặc dù được hiểu rõ ngay bên trong bản thân chúng, và cũng là các loại trung gian mà việc vận hành xem ra không bị bác bỏ ngay lập tức, nhưng thực ra, đã dẫn đến việc mất quyền kiểm soát đối với hệ thống về phía các cơ quan khác nhau của chứng khoán quốc gia. Do đó, họ đã cố ý ủng hộ việc sử dụng điều gọi là cấp vốn sáng tạo trong đó mục đích chính của việc đầu tư các tài nguyên tài chánh là trước hết có đặc tính đầu cơ, nếu không là cướp bóc trấn lột, chứ không phải là một việc phục vụ nền kinh tế thực sự. Ví dụ, nhiều người đồng ý rằng sự hiện hữu của các hệ thống "bóng tối" này có thể là một trong những nguyên nhân góp phần thúc đẩy sự phát triển và truyền lan khắp hoàn cầu cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính gần đây, bắt đầu từ Hoa Kỳ với các khoản thế chấp dưới chuẩn vào mùa hè 2007.

30. Ý định đầu cơ này, trong đó thế giới tài chánh hải ngoại (offshore finance) phát triển mạnh, trong khi cũng cung cấp các dịch vụ hợp pháp khác, thông qua các kênh trốn thuế khắp thế giới, nếu không trực tiếp trốn thuế và tái chế biến tiền bạc phát sinh từ tội phạm, đã góp phần làm nghèo thêm hệ thống sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ thông thường. Thật khó mà phân biệt được liệu nhiều tình huống như thế có nuôi sống các điển hình vô luân cận kề hay tức khắc không. Chắc chắn, cho đến nay, rõ ràng là khi bất chính lấy mất chất dinh dưỡng chủ yếu khỏi nền kinh tế thực chất, các thực tại như thế khó có thể được biện minh cả trên quan điểm đạo đức lẫn trên quan điểm hiệu năng hoàn cầu của chính hệ thống kinh tế.

Ngược lại, xem ra càng hiển nhiên hơn nữa là mức độ tương quan không đáng kể giữa các hành vi phi đạo đức của những người điều hành và các vụ phá sản hiện có của hệ thống trong sự phức tạp của nó. Bây giờ, không thể phủ nhận rằng sự hiếm hoi đạo đức càng làm trầm trọng thêm những khiếm khuyết của các cơ chế thị trường [46].

Trong hậu bán thế kỷ vừa qua, thị trường ngoài nước của đồng euro, không gian trao đổi tài chánh bên ngoài mọi khuôn khổ quy phạm chính thức, đã ra đời. Thị trường mở rộng từ một nước châu Âu quan trọng đến các nước khác trên thế giới, đang dọn đường cho một mạng lưới tài chính thay thế thực sự cho hệ thống tài chính chính thức và các khu vực pháp chế bảo vệ chúng.

Về phương diện này, cần nói rằng nếu lý do chính thức được đưa ra để hợp pháp hóa sự hiện diện của các địa điểm ở ngoài nước là cho phép các định chế đầu tư không phải chịu thuế kép, trước hết ở đất nước họ cư trú và thứ hai ở các quốc gia nơi đặt vốn của họ, thì trong thực tế, những nơi này, đến một mức độ đáng kể, đã trở thành cơ hội cho hoạt động tài chánh giáp ranh giới (border line), nếu không nói là vượt ranh giới, cả theo quan điểm về tính hợp pháp của chúng dưới góc độ qui định lẫn theo quan điểm đạo đức, nghĩa là một nền văn hóa kinh tế, lành mạnh và không có ý định trốn thuế.

Ngày nay, hơn một nửa thế giới thương mại được điều hợp bởi những con người đáng lưu ý từng cắt giảm gánh nặng thuế khóa của họ bằng cách di chuyển doanh thu từ địa điểm này sang địa điểm khác tùy theo sự thuận tiện của họ, chuyển doanh lợi qua những nước trốn thuế và các chi phí qua các nước đánh thuế cao hơn. Rõ ràng tất cả những người này đã chuyển nhiều tài nguyên có tính quyết định ra khỏi nền kinh tế thực sự và góp phần tạo ra các hệ thống kinh tế xây dựng trên bất bình đẳng. Hơn nữa, không thể bỏ qua sự kiện này là các địa điểm ngoài nước này, trong nhiều dịp hơn, đã trở thành những nơi thông thường để biến chế tiền bạc bẩn thỉu, vốn là hoa trái của thu nhập bất hợp pháp (trộm cắp, gian lận, tham nhũng, hiệp hội tội ác, mafia, chiến lợi phẩm vv.) 

Do đó, qua việc che dấu sự kiện các hoạt động gọi là ngoài nước này diễn ra tại các địa điểm tài chánh chính thức của họ, một số quốc gia đã đồng ý nhận lợi nhuận từ cả tội phạm, nhưng lại nghĩ mình không có trách nhiệm nào vì tội ác đã không chính thức diễn ra dưới quyền tài phán của họ. Theo quan điểm đạo đức, điều này thể hiện một hình thức giả hình hiển nhiên.

Trong một thời gian ngắn, một thị trường như vậy đã trở thành nơi chuyển vốn lớn, vì cấu hình của nó tượng trưng cho phương pháp thực hiện các hình thức tránh thuế khác nhau và thiết yếu một cách dễ dàng. Vì vậy, chúng ta hiểu rằng việc nội bộ hóa tư cách hải ngoại của nhiều hiệp hội quan trọng can dự vào thị trường là điều rất được thèm muốn và thực hành.

31. Chắc chắn, hệ thống thuế của nhiều quốc gia khác nhau dường như không phải lúc nào cũng bình đẳng. Về phương diện này, điều có liên quan là nên ghi nhớ sự bất bình đẳng như vậy thường bất lợi cho những người yếu kém về kinh tế và ủng hộ những người được ưu đãi nhiều hơn, và có khả năng gây ảnh hưởng trên cả các hệ thống quy định vốn điều chỉnh cùng các loại thuế này. Thực thế, việc áp đặt các loại thuế, nếu bình đẳng, thực hiện được chức năng căn bản trong việc bình đẳng hóa và tái phân phối sự thịnh vượng không chỉ có lợi cho những người cần trợ cấp thích hợp, mà còn hỗ trợ các khoản đầu tư và sự tăng trưởng của nền kinh tế thực sự.

Việc trốn thuế ở phía những người có quyền lợi chính, tức các trung gian tài chánh lớn, những người thúc đẩy thị trường, cho thấy một sự di chuyển bất hợp pháp các tài nguyên ra khỏi nền kinh tế thực sự, và điều này gây thiệt hại cho xã hội dân sự như một toàn thể.

Do tính không minh bạch của các hệ thống đó, rất khó thiết lập chính xác số lượng tài sản được giao dịch trong chúng. Tuy nhiên, người ta tính ra rằng thuế tối thiểu đánh trên các giao dịch được thực hiện ngoài nước ấy đủ để giải quyết một phần lớn vấn đề đói kém trên thế giới: tại sao chúng ta không thể can đảm thực hiện phương cách của một sáng kiến tương tự?

Hơn nữa, người ta đã xác định rằng sự hiện hữu của các địa điểm ngoài nước cũng đã khuyến khích một lượng vốn khổng lồ chạy ra khỏi nhiều nước có thu nhập thấp, do đó tạo ra nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị, cản trở họ cuối cùng đảm nhiệm con đường tăng trưởng và phát triển lành mạnh.

Vì lý do này, điều đáng nhắc đến là các định chế quốc tế khác nhau, thường xuyên hơn, đã tố cáo các thực hành này và nhiều chính phủ đã rất đúng khi cố gắng hạn chế sự lưu chuyển của các cơ sở tài chánh ngoài nước. Nhiều nỗ lực tích cực đã được thực hiện về phương diện này, đặc biệt trong thập niên vừa qua. Tuy nhiên, cho đến nay, họ vẫn không thành công áp đặt được các thỏa thuận và quy định đủ hữu hiệu. Ngược lại, các khuôn khổ qui định được ngay các tổ chức có thẩm quyền quốc tế đề xuất về phương diện này thường không được áp dụng, hoặc bị làm cho vô hiệu, vì ảnh hưởng đáng chú ý mà các căn cứ này có khả năng gây ra nơi nhiều quyền lực chính trị, nhờ vào số vốn lớn thuộc quyền sở hữu của họ.

Tất cả những điều trên, trong khi góp phần gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế thực chất có thể vận hành tốt, cho thấy một cấu trúc, như nó được hình thành ngày nay, dường như hoàn toàn không thể chấp nhận được theo quan điểm đạo đức. Do đó, cần thiết và cấp bách phải chuẩn bị ở bình diện quốc tế các biện pháp thích hợp để chữa trị các hệ thống bất công này. Trên hết, thực hành sự minh bạch tài chánh ở mọi bình diện, (như phải báo cáo công khai các công ty đa quốc về các hoạt động liên hệ và các loại thuế trả ở mỗi quốc gia mà họ hoạt động thông qua các nhóm công ty con của họ) cùng với những chế tài nghiêm ngặt, áp đặt lên các quốc gia nào lặp đi lặp lại các thực hành bất lương (trốn thuế và tránh thuế, tái chế biến tiền bạc bẩn thỉu) đã đề cập ở trên.

32. Hệ thống hải ngoại kết cục cũng đã làm cho tình trạng nợ công của các nước có nền kinh tế kém phát triển xấu thêm. Thực thế, người ta quan sát thấy sự giầu có riêng do một số phần tử ưu tú tích lũy tại các sào huyệt (havens) trốn thuế gần bằng với nợ công của các quốc gia liên hệ. Điều này, trên thực tế, đã làm nổi bật sự kiện, ở nguồn gốc của khoản nợ đó, thường có những tổn thất kinh tế được các tư nhân tạo ra và được trút lên vai hệ thống công cộng. Hơn nữa, cần lưu ý rằng những người giữ vai trò kinh tế quan trọng có khuynh hướng theo đuổi, thường là với sự thông đồng của các chính trị gia, thói quen xã hội hóa các tổn thất.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh: nợ công thường hay bị tạo ra bởi một sự quản trị bất cẩn (incautious), nếu không muốn nói là gian lận, của hệ thống hành chính công. Những khoản nợ này, những tổn thất tài chánh này gây gánh nặng cho nhiều quốc gia khác nhau, ngày nay đặt ra một trong những trở ngại chính cho sự vận hành và tăng trưởng tốt của các nền kinh tế quốc gia khác nhau. Thực vậy, nhiều nền kinh tế quốc gia oằn lưng bởi việc phải đối phó với việc trả tiền lời, vốn phát sinh từ khoản nợ đó, và do đó phải thực hiện các điều chỉnh cơ cấu một cách ngoan ngoãn để đáp ứng nhu cầu này.

Đứng trước tất cả các điều trên, một mặt, các quốc gia riêng lẻ được kêu gọi tự bảo vệ mình bằng một chính sách quản trị thích đáng hệ thống công cộng qua việc cải cách cơ cấu một cách khôn ngoan, phân bổ các chi phí hợp lý và đầu tư thận trọng. Mặt khác, trên bình diện quốc tế, cần phải đặt mọi quốc gia đứng trước trách nhiệm không thể tránh được của nó là cho phép và ủng hộ các đường thoát hợp lý ra khỏi các khoản nợ cứ tăng lên hoài hoài, chứ không đặt nó trên vai các nhà nước, và do đó, lên vai các công dân của họ, nghĩa là lên vai hàng triệu gia đình mang những gánh nặng tài chính không ai chịu đựng được.

Vì vậy, nỗ lực cũng phải có về phía chính trị, bằng cách giảm nợ công một cách hợp lý và đồng tình, đặc biệt là các loại nợ của những thực thể có nền kinh tế vững chắc, có khả năng cung cấp nó [47]. Các giải pháp tương tự cũng được yêu cầu cho cả sức khỏe của hệ thống kinh tế quốc tế nhằm tránh sự lây lan của một cuộc khủng hoảng tiềm tàng có hệ thống, cũng như cho việc theo đuổi lợi ích chung của mọi người.

33. Tất cả những điều chúng ta đã nói đến từ trước đến nay không những chỉ là công việc của một thực thể hoạt động ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, mà còn trong phạm vi trách nhiệm của chúng ta nữa. Điều này có nghĩa: chúng ta có trong tầm tay các công cụ quan trọng có khả năng góp phần hướng tới việc giải quyết nhiều vấn đề. Thí dụ, các thị trường sống nhờ việc cung và cầu hàng hóa. Về phương diện này, mọi người chúng ta có thể ảnh hưởng một cách quyết định bằng cách lên khung cho nhu cầu đó.

Do đó, điều trở nên hiển nhiên là thao tác tiêu thụ và tiết kiệm một cách có phê phán và có trách nhiệm là điều thực sự quan trọng và có trách nhiệm đến chừng nào. Mua sắm, chẳng hạn, một việc hàng ngày nhờ đó, chúng ta cung cấp các nhu yếu phẩm cho cuộc sống, cũng là một hình thức chọn lựa mà chúng ta thực hiện giữa các sản phẩm khác nhau được thị trường cung cấp. Đó là một chọn lựa qua đó chúng ta thường lựa, một cách vô thức, các hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng có thể diễn ra qua dây chuyền cung cấp, trong đó việc vi phạm các nhân quyền căn bản nhất được coi là chuyện bình thường hoặc nhờ công việc của các công ty mà nền đạo đức, trên thực tế, không biết bất cứ lợi ích nào khác ngoài lợi nhuận của các cổ đông với bất cứ giá nào.

Cần phải rèn luyện bản thân để thực hiện việc lựa chọn các hàng hóa mà trên vai chúng có cuộc hành trình xứng đáng theo quan điểm đạo đức, vì cũng nhờ cử chỉ này, bề ngoài có vẻ không quan trọng, nhưng thực ra, chúng ta đã biểu hiện một nền đạo đức và được kêu gọi có một lập trường trước điều tốt hay điều xấu đối với một con người có thực. Có người đã đưa ra đề nghị “bỏ phiếu bằng ví tiền của bạn”. Điều này có ý nói đến việc bỏ phiếu hàng ngày ở các thị trường có lợi cho bất cứ điều gì hỗ trợ phúc lợi cụ thể của mọi người chúng ta, và bác bỏ bất cứ điều gì làm hại họ [48].

Những cân nhắc trên cũng phải áp dụng tương tự vào việc quản lý tiền tiết kiệm, chẳng hạn như hướng chúng vào các doanh nghiệp nào chịu hoạt động với các tiêu chuẩn rõ ràng lấy cảm hứng từ đạo đức, biết tôn trọng toàn diện con người nhân bản, và mỗi con người đặc thù, trong chân trời trách nhiệm xã hội [49]. Hơn nữa, nói chung, mỗi người được kêu gọi trau dồi các thủ tục sản xuất của cải nhất quán với bản chất tương quan của chúng ta và có xu hướng ủng hộ sự phát triển con người toàn diện và không thể thiếu được. 

IV. Kết luận

34. Trước sự rộng lớn và phổ biến của các hệ thống kinh tế - tài chính ngày nay, chúng ta có thể bị cám dỗ để mình sa vào hoài nghi, và nghĩ rằng với sức nghèo nàn của mình, chúng ta sẽ không làm gì được nhiều. Nhưng thực ra, mỗi người chúng ta có thể làm được rất nhiều, nhất là nếu ta không chịu đứng một mình.

Trong chiều hướng trên, nhiều hiệp hội xuất hiện trong xã hội dân sự đại diện cho một nguồn ý thức, và trách nhiệm xã hội, mà chúng ta không thể bỏ qua. Ngày nay, hơn trước đây, chúng ta được kêu gọi làm người lính canh để theo dõi cuộc sống chân chính và làm cho chúng ta thành những chất xúc tác cho một tác phong xã hội mới, định hình hành động của chúng ta để tìm kiếm ích chung, và thiết lập nó trên các nguyên tắc liên đới và phụ đới vững chắc .

Mọi cử chỉ tự do của chúng ta, cả khi chúng có vẻ mỏng manh và không đáng kể, nếu chúng thực sự hướng tới sự thiện chân chính, dựa vào Đấng vốn là Chúa tể tốt lành của lịch sử và trở thành một phần của sự sôi nổi (buoyancy) vượt quá các sức lực nghèo nàn của chúng ta, đều hợp nhất một cách chặt chẽ mọi hành động có thiện chí trong một mạng lưới kết hợp cả trời và đất, vốn dĩ là công cụ thực sự của việc nhân bản hóa mỗi con người, và thế giới như một toàn thể. Đó là tất cả những gì chúng ta cần để sống tốt và nuôi dưỡng niềm hy vọng vốn ở đỉnh cao phẩm giá làm người của chúng ta.

Giáo hội, Mẹ và là Thầy, vì ý thức mình đã nhận được một kho tàng nhưng không, nên đã cung cấp cho con người nam nữ mọi thời các nguồn tài nguyên để xây dựng một niềm hy vọng đáng tin cậy. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa làm người vì chúng ta, có thể nắm lấy trái tim của chúng ta trong tay ngài và hướng dẫn nó trong việc xây dựng một cách khôn ngoan điều tốt lành mà Chúa Giêsu, qua nhân tính của Người được Chúa Thánh Thần đổi mới, đã đến để khai trương vì sự cứu rỗi của thế giới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong buổi triều kiến ban cho Tổng Thư Ký ký tên dưới đây của Thánh Bộ Giáo Lý Đức tin, đã phê chuẩn Các Xem Xét này, được thông qua trong phiên họp thường lệ của Thánh Bộ này và truyền lệnh công bố nó.

Rô-ma, ngày 6 tháng 1 năm 2018, Lễ Trọng Chúa Hiển Linh 
     + Luis F. Ladaria, S.J.
  Tổng giám mục hiệu tòa Thibica
Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin


     Hồng Y Peter Turkson

Bộ trưởng Thánh Bộ Cổ Vũ Phát Triển Con Người Toàn Diện.

     + Giacomo Morandi
Tổng giám mục hiệu tòa Cerveteri
Tổng Thư Ký của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin 


       Bruno Marie Duffé
Tổng Thư Ký của Thánh Bộ Cổ Vũ Phát Triển Con Người Toàn Diện.

Vũ Văn An chuyển dịch. 

______________

[1] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen gentium, 48.
[2] Xem Đã dẫn, 5.
[3] Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’ (24 tháng Năm 2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[4] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng Sáu 2009), 59: AAS 101 (2009), 694.
[5] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Fides et ratio (14 tháng Chín 1998), 98: AAS 91 (1999), 81.
[6] Xem Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Đi Tìm Một Nền Đạo Đức Học Phổ Quá: Một Cái Nhìn Mới về Luật Tự Nhiên, 87: ttp://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_con_cfaith_doc_20090520_legge- naturale_en.html.
[7] Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 189: AAS 107 (2015), 922.
[8] Đã dẫn, Tông Huấn Evangelii gaudium (24 tháng Mười Một 2013), 178: AAS 105 (2013), 1094.
[9] Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hướng Tới Việc Cải Tổ Các Hệ Thống Tài Chánh và Tiền Tệ trong bối cảnh Thẩm Quyền Công Cộng Hoàn Cầu, 1: L’Osservatore Romano (24-25 tháng Mười 2011), 6.
[10] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 189: AAS 107 (2015), 922.
[11] Đã dẫn, Tông Huấn Evangelii gaudium, 53: AAS 105 (2013), 1042.
[12] Đã dẫn, 58: AAS 105 (2013), 1044.
[13] Xem Công Đồng Vatican II, Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis humanae, 14.
[14] Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng Sáu 2009), 45: AAS 101 (2009), 681.
[15] Đã dẫn, 74: AAS 101 (2009), 705.
[16] Xem Đức Phanxicô, Diễn Văn Trước Quốc hội Âu Châu (25 tháng Mười Một 2014), Strasbourg: AAS 106 (2014), 997-998.
[17] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 37: AAS 101 (2009), 672.
[18] Xem Đã dẫn, 55: AAS 101 (2009), 690.
[19] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng Mười Hai 1987), 42: AAS 80 (1988), 572.
[20] Xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo,1908.
[21] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 13: AAS 107 (2015), 852; Tông Huấn Amoris Laetitia (19 tháng Ba 2016), 44: AAS 108 (2016), 327.
[22] Xem, chẳng hạn, khẩu hiệu Ora et Labora; nó nhắc nhớ Luật Thánh Bênêđíctô thành Nursia, trong nét đơn giản của nó, cho thấy việc cầu nguyện, nhất là cầu nguyện trong phụng vụ, trong khi mở cho chúng ta mối liên hệ với Thiên Chúa là Đấng, trong Chúa Giêsu Kitô và trong Thần Khí của Người, tự mạc khải là Sự Thiện và Sự thật, cũng theo cách này hiến tặng ta hình thức thích đáng cũng như cách thế để xây dựng một thế giới tốt đẹp và chân thực hơn; thế giới này cũng nhân bản hơn. 
[23] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Centesimus annus (1 tháng Năm 1991), 17, 24, 42: AAS 83 (1991), 814, 821, 845.
[24] Xem Đức Piô XI, Thông Điệp Quadragesimo anno (15 tháng Năm 1931), 105: AAS 23 (1931), 210; Đức Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng Ba, 1967), 9: AAS 59 (1967), 261; Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 203: AAS 107 (2015), 927.
[25] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 175. Về sự nối kết cần thiết giữa kinh tế và chính trị xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 36: “hoạt động kinh tế không thể giải quyết mọi vấn đề xã hội qua việc đơn giản áp dụng luận lý học thương mại. Điều này cần được điều hướng về phía theo đuổi ích chung, một việc mà cộng đồng chính trị nói riêng cũng phải chịu trách nhiệm. Do đó, cần phải nhớ rằng các bất cân bằng trầm trọng sẽ nẩy sinh khi hành động kinh tế, vì chỉ được quan niệm như là cỗ máy để tạo ra sự thịnh vượng, bị tách khỏi hành động chính trị, được quan niệm như phương thế để theo đuổi công lý qua việc tái phân phối”. 
[26] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate , 58: AAS 101 (2009), 693.
[27] Xem Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay Gaudium et spes, 64.
[28] Xem Đức Piô XI, Thông Điệp Quadragesimo anno, 89: AAS 23 (1931), 206; Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate , 35: AAS 101 (2009), 670; Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii gaudium, 204: AAS 105 (2013), 1105.
[29] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 109: AAS 107 (2015), 891.
[30] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Laborem exercens (14 tháng Chín 1981), 9: AAS 73 (1981), 598.
[31] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii gaudium, 53: AAS 105 (2013), 1042.
[32] Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hợp Tuyển Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 369.
[33] Xem Đức Piô XI, Thông Điệp Quadragesimo anno, 132: AAS 23 (1931), 219; Đức Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio, 24: AAS 59 (1967), 269.
[34] Xem Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 2409.
[35] Xem Đức Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio, 13. Về phương diện này, một số định mức quan trọng đã được đề ra (Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hướng Tới Việc Cải Tổ Các Hệ Thống Tài Chánh và Tiền Tệ trong bối cảnh Thẩm Quyền Công Cộng Hoàn Cầu, 4: L’Osservatore Romano, 24-25 tháng Mười 2011, 7). Nay chúng ta có ý định tiến hành theo đường hướng biện phân tương tự ngõ hầu khuyến khích việc phát triển tích cực hệ thống kinh tế tài chánh và góp phần vào việc loại bỏ các cơ cấu bất công nào có cơ giới hạn các phúc lợi tiềm ẩn của chúng. 
[36] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’,198: AAS 107 (2015), 925.
[37] Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hợp Tuyển Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 343.
[38] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 35: AAS 101 (2009), 670.
[39] Đức Phanxicô, Diễn Văn với Các Tham Dự Viên Hội Nghị “Kinh Tế Hiệp Thông” Do Phong Trào Focolare bảo trợ (4 tháng Hai 2017): L’Osservatore Romano (5 tháng Hai 2017), 8.
[40] Xem Đức Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis, 28: AAS 80 (1988), 548.
[41] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 67: AAS 101 (2009), 700.
[42] Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hướng Tới Việc Cải Tổ Các Hệ Thống Tài Chánh và Tiền Tệ trong bối cảnh Thẩm Quyền Công Cộng Hoàn Cầu, 1: L’Osservatore Romano (24-25 tháng Mười 2011), 6.
[43] Xem Đã dẫn, 4: L’Osservatore Romano (24-25 tháng Mười 2011), 7.
[44] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate , 45: AAS 101 (2009), 681; Đức Phanxicô, Thông Điệp dịp Cử Hành Ngày Thế Giới Hòa Bình lần thứ 48 (1 tháng Giêng 2015), 5: AAS 107 (2015), 66.
[45] Xem Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 36: AAS 101 (2009), 671.
[46] Xem Đức Phanxicô, Thông Điệp Laudato si’, 189: AAS 107 (2015), 922.
[47] Xem Đức Bênêđictô XVI, Diễn Văn Với Ngoại Giao Đoàn (8 tháng Giêng 2007): L’Osservatore Romano (8-9 tháng Giêng 2007), 6-7.
[48] Xem Đã dẫn, Đức Bênêđíctô XVI, Thông Điệp Caritas in veritate, 66: AAS 101 (2009), 699.
[49] Xem Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hòa Bình, Hợp Tuyển Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 358.