
Cũng nằm trong danh sách di sản được UNESCO bảo vệ là những gì còn lưu lại của lâu đài Hara – một trong những cảnh của cuộc nổi dậy “Shimabara-Amakusa” (1637) của người Công giáo, theo sau cuộc bách hại trở nên khắc nghiệt hơn – và làng Sakitsu, trong tỉnh Kumamoto (Amakusa), nơi các Kitô hữu tiếp tục thực hành đức tin của họ trong bí mật.
Quyết định này của UNESCO được Giáo hội Công giáo Nhật Bản hân hoan đón nhận. Đức Hồng y Thomas Aquino Manyo Maeda – hậu duệ của các Kitô hữu “thầm lặng” – nói với tờ Japan Times rằng sự công nhận sẽ cho phép mọi người khám phá lịch sử Kitô giáo tại Nhật Bản, được “tóm lại” trong sự tha thứ và thấu hiểu: “Sự ghi nhận mang lại một cái gì đó sâu sắc và có nghĩa, trong đó một sự hòa bình thực sự cho các dân tộc đến khi có sự tôn trọng lẫn nhau”.
Đức cha Joseph Mitsuaki Takami, Tổng giám mục Nagasaki, bày tỏ với hãng tin Asia News sự hài lòng tương tự: “Trong 250 năm, Kitô giáo đã bị bách hại tại Nhật Bản. Bây giờ, nó được công nhận trong lịch sử, và nhiều người Nhật Bản bắt đầu quan tâm đến Kitô giáo. Nhiều người sẽ đến những nơi này để thăm viếng: đối với chúng tôi đây cũng là cơ hội để truyền giáo”.
Việc khám phá lại lịch sử Kitô giáo Nhật Bản cũng phải liên quan đến chính các tín hữu, họ được kêu gọi nghiên cứu “lịch sử của tổ tiên”: vì điều này vào ngày 01 tháng 4, giáo phận Nagasaki khánh thành một bảo tàng lịch sử Kitô giáo Nhật Bản, trong dinh tòa cũ của giám mục. Đức cha Takami kết luận: “Chúng ta cần phải nhớ lịch sử bởi vì nó không phải là những tòa nhà quan trọng, nhưng câu chuyện đằng sau đó. Đó là lịch sử của đức tin có giá trị phổ quát”.(Asia New 02/07/2018)
Ngọc Yến
(Nguồn: Đài Vatican)