Nguồn Gốc Của Việc Truyền Giáo

03/12/2017
2369
Đức Giêsu đến gần nói với các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “

Chương I – Nguồn Gốc Của Việc Truyền Giáo

Dẫn nhập: Sứ vụ Truyền giáo mang đậm dấu ấn của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nguồn gốc là do sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha định dự án; Chúa Con đến thực hiện; Thần Khí hoàn tất trong sứ mệnh Giáo Hội. Mục đích là hiệp thông tất cả mọi người với Thiên Chúa không loại trừ ai.

I. KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA .

1.1 Do Ý định của Thiên Chúa :

Bởi ý định khôn ngoan nhân lành, hoàn toàn tự do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ ; Ngài đã quyết định nâng loài người lên tham dự đời sống thần linh, và Ngài đã không từ bỏ con người sa ngã trong A-đam, nhưng luôn ban sự trợ giúp để họ được cứu rỗi, nhờ Chúa Kitô Đấng Cứu Thế. Thực vậy, từ muôn thưở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha “đã biết trước và đã tiền định cho họ trở nên giống hình ảnh Con Chúa, hầu Người Con đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em” (Rm 8,29). Thế nên Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội.
(Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về Gíáo Hội, 2).

Lý do hoạt động truyền giáo được bắt nguồn từ ý muốn của Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý”
  (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 7).

1.2 Khơi nguồn từ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi:

Một trong các bận tâm thường xuyên của tôi trên ngai giáo hoàng này là làm sao nhắc các tín hữu nhớ tới sự hiệp thông về sự sống và sự hiệp nhất của Ba Ngôi trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc. Các Tông Thư của tôi như “Đấng Cứu Chuộc loài người”, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, “Thánh Thần là Chúa và là Đấng tác sinh” đều là những suy nghĩ lần lượt về Chúa Con, Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, và về vai trò của các Ngôi ấy trong chương trình cứu độ. Tuy nhiên chúng ta không được phép cô lập hay tách Ngôi này với các Ngôi kia, bởi vì chúng ta chỉ biết mỗi Ngôi trong sự hiệp thông Ba Ngôi về đời sống cũng như hoạt động. Hoạt động cứu độ của Đức Giêsu bắt nguồn từ trong sự hiệp thông của Thiên Chúa, đồng thời mở đường cho tất cả những ai tin vào Ngài cũng được hiệp thông thân mật với Ba Ngôi và với nhau trong Ba Ngôi ấy.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 12)

Loan báo Tin Mừng là ân huệ và ơn gọi đặc biệt của Hội Thánh, là chân tính sâu sa nhất của Hội Thánh, một Hội Thánh phát xuất từ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Ba Ngôi được diễn tả qua việc Chúa Cha sai Chúa Con xuống trần gian để cứu độ trần gian, và việc Chúa Cha cử Thánh Thần đến với Hội Thánh để tiếp tục và hoàn tất sứ mạng Chúa Con. Ba Ngôi là cội nguồn của Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo. Chúa Giêsu đã nhiều lần cho các môn đệ hiểu rằng sứ mạng loan báo Tin mừng của họ đến từ Ngài và sứ mạng của Ngài đến từ Chúa Cha: ”Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian” (Ga 17,18 ; Ga 20,21).
(Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục Vụ 2003)

II. SUỐI TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA CHA

2.1 Tình yêu của Chúa Cha đối với con người :

Ý định này tuôn trào từ “suối tình yêu” cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha, vì chính Ngài là Nguyên lý vô nguyên lý, bởi Ngài Chúa Con được sinh ra, và cũng bởi Ngài và nhờ Chúa Con mà phát  xuất Chúa Thánh Thần. Vì quá nhân từ, Người đã tự ý dựng nên chúng ta, và lại nhưng không mời gọi chúng ta tham dự sự sống và vinh hiển với Ngài ….. Thực vậy Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Ngài, không những chỉ từng cá nhân không liên lạc gì với nhau, mà Ngài còn liên kết họ thành một dân duy nhất, trong đó đoàn tụ mọi con cái tản mác khắp nơi.
     (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội,  2).

2 2 Thể hiện qua việc sai Thiên Chúa Con :

Sau khi phán dạy nhiều lần nhiều cách qua các Tiên tri, “nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con” (Dt 1,1-2). Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa.
 (Công đồng Vatican  II, Hiến chế về Mạc Khải, 4).

Nhưng để củng cố hòa bình hay là mối hiệp thông cùng Thiên Chúa, và để xây dựng một xã hội huynh đệ giữa con người, con người tội lỗi, Ngài đã quyết định đi vào lịch sử loài người một cách mới mẻ và dứt khoát bằng cách sai Chúa Con mặc lấy xác phàm chúng ta, để nhờ Chúa Con, Ngài giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và satan, và để trong Chúa Con Ngài hòa giải trần gian với chính Ngài. Thật vậy, nhờ Chúa Con mà Ngài đã sáng tạo vũ trụ, thì Ngài cũng đặt Chúa Con thừa hưởng vũ trụ, để trong Chúa Con  mọi sự được tái lập.
     (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội, 3).

III. SỨ MỆNH CỦA THIÊN CHÚA CON

3.1  Sứ mệnh Ngôi Con

Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô được sai xuống trần thế làm trung gian đích thực giữa Thiên Chúa và nhân loại … bằng đường lối nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài người thông phần vào bản tính Thiên Chúa; dù giàu sang, Người đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta, để nhờ sự thiếu thốn đó, mà chúng ta được sang giàu.
Chúa Kitô “Đấng được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian” đã nói về chính mình rằng :”Thần linh Chúa ở trên Tôi, nên Ngài đã xức dầu cho Tôi, sai Tôi đi rao giảng Phúc Am cho kẻ nghèo khó, an ủi kẻ khổ tâm, loan báo sự giải thoát cho kẻ tù đầy và đem sự sáng mắt cho kẻ đui mù” (Lc 4,18) ; Người còn nói: ”Con Người đến tìm kiếm và cứu vớt điều gì bị hư đi” (Lc 19,10).

      (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo hội,  3).

Như thế, sứ mạng của Đức Giêsu không phải chỉ là khôi phục lại sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người, mà còn thiết lập một mối hiệp thông mới giữa con người với con người đã vì tội lỗi mà làm cho trở nên xa lạ với nhau .
Được Thiên Chúa của sự hiệp thông sai đến, đồng thời cũng là Chúa thật và là người thật, Đức Giêsu đã thiết lập sự hiệp thông giữa Trời và Đất nơi chính bản thân Người.

Chúng ta có thể tìm thấy sự cứu độ nơi bản thân Con Thiên Chúa đã nhập thể cũng như nơi sứ mạng đã được giao phó cho một mình Ngài với tư  cách là Con, một sứ mạng phục vụ và yêu thương cho tất cả mọi loài được sống.

(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, 13).

3 .2 Chúa Con khai nguyên Nước Trời

Bởi thế, để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Kitô đã khai nguyên Nước Trời nơi trần gian, mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm của Ngài, và thực hiện việc cứu thế bằng sự vâng phục Chúa Cha. Sự khai nguyên và phát triển đó được biểu thị bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu chịu đóng đinh và được tiên báo về cái chết của Người trên thập giá.
(Công đồng Vatican  II, Hiến chế tín lý về Gíáo Hội,  3).

Ngày nay người ta nói nhiều về Nước Thiên Chúa, nhưng lại không luôn luôn phù hợp với tư tưởng của Giáo Hội. Thực vậy, có những khái niệm về ơn cứu độ và về sứ vụ truyền giáo mà người ta có thể gọi là “tập trung vào con người” hiểu theo nghĩa hẹp của từ ngữ, tức là chỉ chú trọng đến những nhu cầu trần thế của con người. Theo cách nhìn này, Nước Thiên Chúa có khuynh hướng trở thành một thực tại hoàn toàn có tính cách nhân loại và bị tục hóa, trong đó những kế hoạch và những cuộc đấu tranh giải phóng về phương diện xã hội, kinh tế, chính trị, cũng như văn hóa mới là đáng kể, nhưng không hướng đến siêu việt. Hiển nhiên trong lãnh vực này cũng có những giá trị cần phải cổ võ. Thế nhưng khái niệm này vẫn còn ở trong những giới hạn một vương quốc của con người, mất đi những chiều kích xác thực và sâu xa và dễ trở thành một trong những ý thức hệ về tiến bộ thuần túy trần thế. Ngược lại, Nước Thiên Chúa “không thuộc về thế gian này …. “Nước đó “không ở trong thế gian này” (Ga 18,36).
Có những quan điểm khác chủ tâm nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa và tự cho mình là tập trung vào Nước Thiên Chúa. Những quan niệm đó muốn giới thiệu hình ảnh một Giáo Hội không nghĩ về mình, nhưng chỉ lo làm chứng về Nước Thiên Chúa và phục vụ Nước Thiên Chúa. Người ta nói đó là một “Giáo Hội cho người khác”. Người ta phân tích trách vụ của Giáo Hội và cho rằng trách vụ đó phải được hoàn thành theo hai hướng: một mặt, phải cổ võ những gì người ta gọi là  “những giá trị của Nước Thiên Chúa”, tức là hòa bình, công lý, tự do, tình huynh đe ; mặt khác, phải cổ võ sự đối thoại giữa các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo, để làm phong phú lẫn nhau các yếu tố này giúp thế giới tự canh tân và luôn tiến về Nước Thiên Chúa.

Không kể những khía cạnh tích cực, những quan niệm này thường hàm chứa những khía cạnh tiêu cực. Trước hết, những quan niệm này không nói gì về Đức Kitô: Nước Thiên Chúa theo những quan niệm đó đặt nền trên chủ thuyết “qui thần”, vì người ta nói, những người không có niềm tin Kitô giáo thì không hiểu được Đức Kitô, trong khi các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo khác nhau có thể gặp gỡ nhau chung quanh một thực tại thần linh duy nhất, dù dưới bất cứ danh hiệu nào. Cũng vì động lực đó, các quan niệm trên đề cao mầu nhiệm tạo dựng vốn được phản ảnh trong những nền văn hóa và tín ngưỡng khác nhau, nhưng lại không nói gì về mầu nhiệm cứu chuộc. Đàng khác, Nước Thiên Chúa theo như những quan niệm đó hiểu, rốt cuộc lại gạt Giáo Hội ra ngoài, hay đánh giá thấp Giáo Hội, bằng cách phản ứng chống lại thuyết “qui Giáo Hội” được coi là thuộc về quá khứ, và vì những quan niệm đó chỉ nhìn Giáo Hội như một dấu chỉ, một dấu chỉ không thiếu hàm hồ.

Như vậy đó không phải là Nước Thiên Chúa như chúng ta biết qua mặc khải, một Nước không thể tách rời khỏi Đức Kitô cũng như Giáo Hội. Như đã nói, Đức Kitô đã không chỉ loan báo Nước Thiên Chúa, nhưng chính trong Người mà Nước Thiên Chúa đã được thể hiện và hoàn tất, và không phải chỉ qua lời nói và hành động của Người:”Trước tiên, Nước Thiên Chúa biểu lộ trong chính con người Đức Kitô, Con Thiên Chúa và là Con Người, Đấng đã đến “để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên hạ” (Mc 10,45). Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm, một học thuyết, một chương trình mà người ta có thể tự do phác họa, nhưng Nước Thiên Chúa trước hết là một Ngôi vị, có một dung mạo và một danh xưng là Giêsu Na-da-rét, một khuôn mặt của Thiên Chúa vô hình. Nếu tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Đức Giêsu, chúng ta sẽ không còn quan tâm đến Nước Thiên Chúa như Người đã mạc khải, và cuối cùng, chúng ta làm phai nhạt ý nghĩa Nước Thiên Chúa, có nguy cơ biến Nước Thiên Chúa thành một đối tượng hoàn toàn có tính cách nhân loại hoặc ý thức hệ, và cũng làm sai lạc căn tính của Đức Kitô, không còn coi người là Chúa, Đấng mà mọi loài phải phục tùng (1 Cr 15,27).

Cũng vậy chúng ta không thể tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Giáo Hội. Chắc chắn, Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình, vì Giáo Hội hướng về Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội là mầm giống, là dấu chỉ và là khí cu. Nhưng mặc dù khác biệt với Đức Kitô và Nước Trời, Giáo Hội vẫn hiệp nhất chặt chẽ với Đức Kitô và Nước Trời. Đức Kitô đã ban tặng ơn ích và phương tiện cứu độ một cách sung mãn cho Giáo Hội là thân mình của Người. Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội, làm cho Giáo Hội sống nhờ các ân huệ và các đặc sủng của Người. Từ đó, nảy sinh một mối tương quan riêng biệt và duy nhất, mối tương quan này mặc dù không loại trừ tác động của Đức Giêsu và của Chúa Thánh Thần ở bên ngoài những giới hạn hữu hình của Giáo Hội, nhưng vẫn đem lại cho Giáo Hội một vai trò đặc biệt và thiết yếu. Cũng từ đó mà có mối dây liện hệ đặc biệt giữa Giáo Hội và Nước Thiên Chúa và Nước của Đức Kitô, Nước mà Giáo Hội có “sứ mạng rao truyền và thiết lập trong mọi dân tộc”.

Phải hiểu thực tại Nước Thiên Chúa trong cái nhìn bao quát đó. Đã hẳn, cần phải cổ võ những thiện hảo của nhân loại và những giá trị có thể gọi được là “có tính Tin Mừng”, vì những điều đó gắn bó mật thiết với Tin Mừng. Nhưng sự cổ võ này – mà Giáo Hội vẫn chủ trương – không được tách rời khỏi những nhiệm vụ cơ bản khác của Giáo Hội, cũng không đối lập với những nhiệm vụ ấy, ví dụ như nhiệm vụ loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Người, nhiệm vụ thiết lập và phát triển những cộng đoàn điễn tả khuôn mặt sống động của Nước Thiên Chúa giữa con người. Chúng ta đừng sợ vì thế mà rơi vào hình thức “qui Giáo Hội”: Đức Phaolô VI, khi khẳng định sự hiện hữu của “một mối dây liên kết sâu xa giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng”, cũng đã nói : Giáo Hội không phải là cùng đích của chính mình, nhưng Giáo Hội mong ước một cách mãnh liệt được hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, ở trong Đức Kitô và vì Đức Kitô Giáo Hội cũng mong ước được hoàn toàn thuộc về con người, ở giữa con người và vì con người”

(ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 17 – 19).

3.3 Đức Kitô vừa là biến cố vừa là Lời của Thiên Chúa

Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể “là người được sai đến với loài người”, “nói tiếng nói của Thiên Chúa” và hoàn thành công trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện. Vì thế, chính Ngài đã đến bổ túc và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết.
(Công đồng Vatican II, Hiến chế về Mạc Khải,  4).

3.4 Noi gương Chúa Giêsu Kitô

Chúa Giêsu là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất. Ngay từ đầu, Ngài đã xác định sứ mạng của Ngài là rao giảng Tin Mừng theo lệnh truyền của Chúa Cha :”Thần Khí Chúa ngự trên tôi, bởi Ngài đã xức dầu cho tôi, Ngài đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó “ (Lc 4,18 ; Is  61,1)
Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mỏi mệt đi đến khắp  mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến.

Xác định rao giảng Tin Mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (Mc 1,38 ; Lc 4,43) nên Ngài hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hy sinh cả mạng sống, chấp nhận  cái chết tủi nhục trên thập giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha.

(Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Mục Vụ  2003).

IV. SỨ MỆNH CỦA CHÚA THÁNH THẦN

4.1 Chúa Kitô sai Thánh Thần

Để hoàn thành việc đó (= công bố và truyền bá cho tới tận cùng trái đất công trình của Đức Kitô), Chúa Kitô đã sai Chúa Thánh Thần từ  Chúa Cha đến để Ngài thực hiện công trình cứu chuộc trong các tâm hồn và thúc đẩy Giáo Hội bành trướng thêm mãi….  Trong ngày lễ Hiện Xuống, Ngài đã ngự xuống trên các tông đồ để ở lại với họ muôn đời : Giáo Hội công khai ra mắt dân chúng. Phúc âm bắt đầu được phổ biến giữa muôn dân nhờ lời giảng dạy, và sau hết tiên báo sự hiệp nhất các dân tộc trong tính cách công giáo của đức tin .
     (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo  của Giáo hội, 4).

4.2 Chúa Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong sứ vụ Truyền giáo

Chúa Thánh Thần là nhân tố chính yếu trong toàn bộ sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội: Người hành động một cách nổi bật trong sứ vụ đến với muôn dân, như chúng ta thấy trong Giáo Hội sơ khai, khi Người làm cho gia đình ông Cô-nê-li-ô trở lại (Cv 10), khi Giáo Hội phải quyết định những vấn đề cấp bách (Cv 15), khi chọn lựa các miền đất và các dân tộc để rao giảng (Cv 16,6-8). Chúa Thánh Thần hoạt động qua các tông đồ và đồng thời Người cũng hoạt động trong các thính giả:”Nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, Tin Mừng đã thấm nhập vào lương tâm và tâm hồn con ngươi, cũng như lan truyền trong lịch sử. Tất cả đều được Chúa Thánh thần ban sức sống”.
 (ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ , 21).

Thượng Hội Đồng đã tập trung chú ý tới hoạt động vừa nhiều vừa đa dạng của Chúa Thánh Thần, Đấng vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết lý của họ (…) Thánh Thần luôn nâng đỡ con người đi tìm sự hiểu biết và đón nhận nhau. Thế nên, Thượng Hội Đồng đã có lý khi coi Thánh Thần Thiên Chúa là tác nhân số một của việc đôi thoại giữa Giáo Hội với mọi dân tộc, mọi nền văn hóa và mọi tôn giáo.
        (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu  Á, 15).

4.3 Thánh Thần và Giáo Hội

Ngài làm cho Giáo Hội có khả năng tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu bằng cách trước hết minh chứng về Đức Giêsu, và như thế, mặc nhiên thực hiện lời Đức Giêsu đã hứa trước khi chết và sống lại, đó là sai Thánh Thần đến với các môn đệ để giúp họ làm chứng về Ngài (Ga 15,26-27). Công việc của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội còn là xác nhận các tín hữu đã được Thiên Chúa nhận làm con để thừa hưởng ơn cứu độ, tức là sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa như đã hứa (Rm 8,15-17). Thánh Thần giúp Giáo Hội càng ngày càng hiệp thông chặt chẽ hơn như một thân thể do nhiều bộ phận khác nhau làm nên (1 Cr 12,4; Ep 4,11-16). Thánh Thần thống nhất mọi hạng người (…..). Thánh Thần uốn nắn Giáo Hội thành một cộng đoàn các chứng nhân dựa vào quyền năng của Ngài để làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế. Nếu hiểu như thế thì Chúa Thánh Thần đúng là tác nhân chính yếu của công cuộc phúc âm hóa.
        (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu  Á, 17).

4.4 Chúa Thánh Thần và sứ mạng của Giáo Hội  tại Châu Á

Chúa Thánh Thần đã từng hoạt động tại Châu Á vào thời các tổ phụ và các ngôn sứ, rồi hoạt động còn mạnh mẽ hơn nữa trong thời Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh sơ khai, nay vẫn đang hoạt động giữa các Kitô hữu Á Châu để củng cố việc làm chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của lục địa. Cũng như cuộc đối thoại tình yêu quan trọng giữa Thiên Chúa và con người đã được chuẩn bị bởi Chúa Thánh Thần và được hoàn tất trên miền đất Á Châu này qua mầu nhiệm Đức Kitô, thì cuộc đối thoại hiện nay giữa Chúa Cứu Thế và các dân tộc của châu lục này vẫn sẽ tiếp tục dựa vào quyền năng của Chúa Thánh Thần  ấy trong Giáo Hội.
Giáo Hội tin chắc rằng ẩn sâu trong các dân tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo của Châu Á này luôn có một sự khao khát “nước hằng sống”, một sự khao khát do chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và chỉ một mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thỏa mãn. Giáo Hội đang trông chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị tâm hồn các dân tộc Á Châu này để họ bước vào cuộc đối thoại với Đấng Cứu Độ nhân loại. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, Giáo Hội có thể tạo điều kiện cho Đức Giêsu và các dân tộc Á Châu gặp gỡ nhau, trong khi các dân tộc ấy tìm kiếm một cuộc sống sung mãn.

Giáo Hội đã hiểu rõ rằng mình chỉ có thể hoàn thành sứ mạng khi vâng theo những sự nhắc nhở của Chúa Thánh Thần. Được trao cho nhiệm vụ trở thành dấu chỉ và khí cụ chính hiệu cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong các thực tế phức tạp của Châu Á này, Giáo Hội phải biết nhận ra trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của lục địa, đâu là tiếng gọi của Chúa Thánh Thần muốn mình làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế một cách mới mẻ và hiệu quả.  Sự thật toàn vẹn về Đức Giêsu cũng như ơn cứu độ mà Ngài đã đạt được, luôn luôn là một  ân huệ, chứ không bao giờ là kết quả của nỗ lực con người….. Bởi đó, Giáo Hội không ngừng kêu lên: ” Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”.

        (ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo Hội tại Châu  Á, 18).

V. ĐƯỢC TRAO PHÓ CHO GIÁO HỘI

5.1 Lệnh truyền của Đấng Sáng lập Giáo Hội  :

“Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến … Đức Giêsu đến gần nói với các ông: ”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “
(Mt 28,16.18-20).

5.2 Vai trò của Giáo Hội trong việc cứu độ :

Ngài đã thiết lập họ thành Giáo Hội để Giáo Hội trở nên bí tích hữu hình của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người. Với bổn phận phải bành trướng khắp thế giới, Giáo Hội đi sâu vào lịch sử nhân loại. (Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý về  Giáo Hội,  9).

Công đồng đã nhấn mạnh nhiều đến vai trò của Giáo Hội trong việc cứu độ nhân loại. Trong khi nhìn nhận Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và muốn mọi người được cứu thoát (1 Tm 2,4), Giáo Hội tuyên xưng rằng Thiên Chúa đã đặt Đức Kitô làm vị trung gian duy nhất, và Giáo Hội được thiết lập như bí tích phổ quát đem lại ơn cứu độ: “Vì thế, mọi người đều được mời gọi vào sự hiệp nhất Công giáo này của dân Thiên Chúa …. Tất cả mọi người không trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lãnh nhận ơn cứu độ”. Theo Công đồng dân thiên sai này “được Chúa Kitô thiết lập để thông dự vào sự sống, bác ái và chân lý, được Người sử dụng như dụng cụ cứu rỗi mọi người, và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất”.
(ĐGH Gioan Phaolô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 9).

5.3 Trung thành với truyền thống của Hội Thánh sơ khai

Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo Tin Mừng (Mc 16,15; Mt 28,19-20). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội Thánh không hiện hữu cho mình nhưng cho con người và với con người. Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô (Mt28,19) đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác về lại một mối.
Vâng lệnh Chúa Giêsu Kitô, dưới tác động của Thánh Thần, Hội Thánh sơ khai hăng hái dấn thân vào việc loan báo Tin Mừng, sẵn sàng hiến mạng sống để làm chứng về hồng ân cứu độ mà Chúa Giêsu đã thực hiện qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục Sinh của Người (Cv 2,37-40 ; 1Cr 9,16).

Ý thức việc loan báo Tin Mừng là chân tính của Hội Thánh lữ hành. Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình tập trung mọi nỗ lực vào việc truyền giáo, đồng thời phải thích ứng để có thể đem Tin Mừng cho nhân loại trong thời đại này (Tông huấn Loan Báo Tin Mừng của Đức Phaolô VI; Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ của Đức Gioan Phaolô II). Mở đầu ngàn năm mới, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II một lần nữa mời gọi mọi thành phần trong Hội Thánh hãy “ra khơi truyền giáo”. Ngài đặc biệt trao nhiệm vụ truyền giáo trong thiên niên kỷ mới cho các Hội Thánh tại Châu Á, trong đó có Hội Thánh Việt Nam.

(Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Mục Vụ  2003).
 
Câu hỏi trao đổi:

1. Truyền giáo là ý định và kế hoạch yêu thương của Chúa Cha, được bộc lộ nơi/qua Chúa Giêsu là Con và được thực hiện bởi Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta phải có thái độ và tâm tình nào đối với Thiên Chúa Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần?

2. Hãy xác định mối tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu Kitô và  Nước Thiên Chúa, giữa Nước Thiên Chúa và Giáo Hội để rút ra được những thực hành cụ thể cho đòi sống đức tin của chúng ta.

3. Trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn giáo xứ và trong công cuộc truyền giáo cho lương dân chúng ta đã quan tâm đủ đến vai trò của Chúa Thánh Thần chưa và phải làm  thế nào để Ngài được tự do hoạt động cho cánh đồng lúa chín vàng ở Việt Nam?

4. Tỷ lệ người công giáo xứ ở Việt Nam là 7 %, nghĩa là cứ 100 người dân Việt Nam thì mới có 7 người công giáo. Như vậy là còn hơn 73 triệu người Việt Nam chưa biết Chúa! Theo bạn thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì để có thêm nhiều người lương dân gia nhập Đạo Chúa?
 

(Nguồn: giaoly.org)