Tổng Quan về Triết Học và Việt Triết

13/04/2017
1960

Giáo Sư John B. Trần Văn Đoàn
Đại Học Quốc Gia Đài Loan

1. Lời Dẫn Nhập

Đối với đa số trí thức Việt, Việt Triết là một danh từ xa lạ, có tính chất hoang đường của dã sử. Ngay tới đầu thế kỷ thứ hai mươi, những cựu nho gia như cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim, Phan Khôi, v.v..., vẫn chưa ý thức tới một nền Việt Triết. Với cụ Lệ Thần, Triết học là một môn tri thức nhập cảng từ Âu Tây. Mặc dù cụ nhận thấy triết học của Bác-Sơn (Henri Bergson) gần giống với tư tưởng nho học, cụ vẫn quả quyết là Việt Nam chưa có triết học cá biệt. Theo cụ, Việt Nho chỉ là Hán Nho mà thôi. Trong cuộc tranh luận về Khổng Giáo, hai cụ họ Trần và họ Phan ra sức biện hộ hoặc triết học Tàu (cụ Trần) hoặc Pháp (cụ Phan), song không hề đã động tới lối tư duy của người Việt.

Ngay cho tới những năm gần đây, Việt Triết cũng ít được (hay nói đúng hơn không được) nhắc tới. Triết Đông dạy tại các Đại Học Việt chỉ là Triết Tàu hoặc Triết Ấn Độ. Những tạp chí nghiên cứu như Đông Phương, Tư Tưởng bàn nhiều tới văn hóa Việt song hầu như không thảo luận Việt Triết. Tương tự, những giáo sư Triết Đông đa số dạy Tứ Thư, Ngũ Kinh, Khổng Mạnh, Lão Trương, hay các kinh điển của Phật Giáo như kinh Vệ Đà, v.v... Ngoại trừ vị giáo thụ lão thành Nguyễn Đăng Thục, một trong những vị có công nhất vào thời bắt đầu của Việt Triết, các học giả Việt đa số dịch và chú thích các kinh điển của Trung Hoa (Các cụ Sào Nam Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, Hạo Nhiên Nghiêm Toản, Nhượng Tống, v.v...). Song Đăng Thục tiên sinh là một sử gia hơn là một triết gia. Bộ Lịch Sử triết Học Đông Phương, cũng như những nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ, nói lên cái uyên bác của cụ, song chưa đưa ra được một nền triết học đặc thù của người Việt có thể hấp dẫn thế hệ trẻ. Thế nên khi cụ Lương Kim Định xuất bản bộ Triết Lý An Vi, một nền triết được coi như là những suy tư phát xuất từ Việt Triết, tiên sinh được giới trí thức trẻ cũng như sinh viên nhiệt liệt tán thưởng và thần tượng hóa. Trên thực tế, triết học của Lương tiên sinh vào cuối thập niên 1960 chỉ là một khai quật và giải thích những quan điểm của nho giáo theo một lối nhìn khai phóng và hiện đại. Tác phẩm đại biểu của cụ bàn về Khổng Học thoát khỏi hệ thống quan liêu, phi nhân tính. Sau Cửa Khổng, cụ mới đi sâu hơn vào Việt Triết. Nói cách xác đáng hơn, trong những tác phẩm về Việt Triết, Lương tiên sinh lấy phương pháp của kết cấu luận (structuralism) để đào sâu vào những kết cấu trong các huyền thoại, hay để giải thích lịch sử cũng như lối suy tư biểu tượng. Hoặc, tiên sinh áp dụng môn hệ tộc học (genealogy, người Tàu dịch là Hệ Phả Học) mà hai nhà triết học Đức, Nghịch Tài (Friedrich Nietzche) và Hải Đức Cách (Martin Heidegger) từng phát triển, để đào sâu qua ngữ học vào nguồn gốc dân tộc Việt. Thế nên, triết Lý An Vi tuy hấp dẫn được một số rất đông thức giả (vào đầu thập niên 1970, hàng ngàn sinh viên chen chúc dự thính những bài diễn giảng của tiên sinh, (nền triết lý này vẫn bị hoài nghi mang tính chất Trung Hoa hơn là Việt). Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, khi, ý thức khó khăn trên, Lương quân, để có thể thuyết phục chính mình, cố gắng biện minh cho Việt Nho, coi Việt Nho là nguồn gốc của Nho Học. Cụ gọi Việt Nho là Nguyên Nho để tách biệt khỏi Hán Nho. Lý thuyết của Kim Định rất táo bạo, chính vì vậy mà cụ gặp rất nhiều chống đối. Tuy nhiên, có những điểm liên quan đến Việt Triết đáng được chú trọng.

Dù sao đi nữa, những cố gắng của Kim Định đã đánh động tâm thức của những người ôm ấp hoài bão xây dựng một nền tư tưởng nước nhà. vào thập niên 1970 nhiều học giả Việt tiếp tục con đường trên. Họ du học bên Trung Hoa hay Nhật với một lý tưởng phục hưng tư tưởng đông phương hoặc xây dựng một nền Triết Học Việt Nam. Một trong những nhân sĩ đáng được nhắc tới là Tiến Sĩ Hán Chương Vũ Đình Trác. Hai luận án mà tiên sinh đệ trình tại Đại Học Phụ Nhân, Trung Hoa và Thượng Trí, Đông Kinh, Nhật nghiên cứu về Việt Triết, đặc biệt về Nguyễn Công Trứ, và Nguyễn Du. Đây là hai tác phẩm có tính chất triết học đầu tiên và thuần túy Việt Nam viết bằng ngoại ngữ được đệ trình cho độc giả ngoại quốc. Nhiều nhân sĩ khác, vì tình hình đất nước sau 1975 đã chuyển hướng vào những công việc khác.

Năm 1978, tôi quyết định tiếp tục công việc khai quật Việt Triết và Việt Thần. Từ bỏ công việc dạy học và phục vụ tại Áo, tôi trở lại Trung Hoa theo học Hán Ngữ và Triết Đông tại Đại Học Phụ Nhân. Năm 1979, tôi được Đại Học Phụ Nhân bổ nhiệm vào ghế Phó Giáo (Associate Professor) chuyên nhiệm về Triết Học Hiện Đại và Triết Lý Xã Hội tại Viện Nghiên Cứu Triết Học. Cơ hội thuận lợi này giúp tôi có thể tiếp tục nghiên cứu thêm về triết Trung Hoa. Năm 1982, tôi dò dẫm phát biểu một số suy tư về Việt Thần. Những suy tư trên được Kim Định tiên sinh đáp lời và thách đố. Sự cổ võ của Lương quân khiến tôi có ý định thành lập một nhóm nghiên cứu về Việt Triết. Do đó tôi mời Lương tiên sinh qua Trung Hoa tham dự hội nghị, và phát biểu luận văn. Một già một trẻ bắt đầu chương trình hợp tác lâu dài. Trong khi tiên sinh bận rộn với An Việt và xuất bản tác phẩm phát triển Việt Triết trong những cộng đồng Việt tại hải ngoại, tôi xúc tiến tìm kiếm các tài năng, cũng như đưa Việt Triết vào trong diễn đàn quốc tế. Cái may mắn của tôi là được nhiều học giả nhiệt tâm ủng hộ. Bằng hữu linh mục Vũ Kim Chính không những cổ võ mà còn đích thân tham dự. Như cụ Hán Chương, linh mục Vũ Kim Chính thông thạo cái học đông tây. Vũ linh mục có lẽ là người Việt duy nhất đậu hai bằng tiến sĩ tại Âu và Á. Năm 1985, khi tôi rời Phụ Nhân qua Đại Học Quốc Gia Đài Loan (Quốc Lập Đài Loan Đại Học), Vũ Tiến Sĩ được bổ nhiệm Phụ Giáo, kiêm môn Triết học Đức tại đại học Phụ Nhân. Từ năm 1988, giáo sư Kim Định, Tiến sĩ Vũ Đình Trác, Tiến sĩ Vũ Kim Chính và tôi, chính thức phát biểu những luận văn về Việt Triết trong các hội nghị quốc tế. Năm 1987, chúng tôi phát biểu về Việt Nho tại Thư Viện Quốc Gia trung Hoa. Về đề tài Nho Học tại Việt Nam, năm 1988 tại Hội Nghị Triết Học Thế Giới ở Brighton. Năm 1990, Lương tiên sinh và tôi phát biểu Việt Triết trong Hội Nghị Á Phi tại Toronto. Năm 1993 tôi tổ chức hai buổi hội thảo (Panel) về Việt Triết trong Hội Nghị Triết Học Thế Giới tại Mạc Tư Khoa và Hội Nghị Á Phi tại Hương Cảng.

Bản luận văn sau đây, đáp lại lời mời của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Trúc, tóm lược cũng như hệ thống hóa những suy tư vụn vặt về Việt Triết. Bản văn này cũng tạm thời trả lời những chất vấn về Việt Triết của quý đồng sự như giáo sư L. Van der Meersch (giám đốc Viện Đông Học tại Đại Học Balê), giáo sư Tatsuro Yamamoto, Đại Học Đông Kinh, giáo sư Đỗ Vệ Minh, Đại Học Harvard, v.v... Đồng thời, chúng tôi cũng hy vọng có thể giúp các bạn trẻ từng tha thiết với tư tưởng dân tộc có một cái nhìn tổng quát cũng như xác định về tư tưởng của người Việt.

Luận văn do đó có tính chất giới thiệu, bao gồm những phần chính sau:

1. Những chiều hướng triết học,
2. Việt Triết (bản tính, đặc tính, phương pháp), và
3. Hướng về tương lai hay là Dự phóng của Việt Triết.

2. Những chiều hướng triết học
Triết học là một môn học về tư tưởng thấy trong bất cứ dân tộc nào. Tư tưởng, hay suy tư tự nó chưa phải là triết học. Chỉ có những suy tư có hệ thống, minh bạch xác đáng, có hiệu năng cũng như có tính chất khoa học mới đáng được gọi là triết học. Thế nên từ đông sang tây, tự cổ tới kim, triết học thường được định nghĩa như là nền học về sự khôn ngoan (hay yêu quý sự khôn ngoan, đeo đuổi sự khôn ngoan - philosophia), hoặc như là một khoa học thực hành (practical sciences), hay như một công cụ của chân lý hay của thần học. Tự thời nhà Châu (1111-249 BC), những suy tư về vũ trụ, về Thượng Đế và về định mệnh của con người đã được hệ thống cũng như bàn luận. Mặc dù danh từ triết học chỉ mới được dịch sang tiếng Trung Hoa từ Nhật ngữ vào cuối thế kỷ 19, ý nghĩa của triết học như là một hệ thống về sự khôn ngoan, về tính chất thực hành (đạo đức) đã thấy ngay trước thời Châu (tức thời Hạ và Thượng, quãng 2183-1112 BC). Tương tự, mặc dù triết học mới chỉ xuất hiện một cách chính thức trong các trường học từ thời Pháp thuộc, Việt Triết như là một hệ thống tư tưởng về định mệnh Việt dân, về nếp sống, đạo đức cũng như tổ chức xã hội của dân tộc, đã xuất hiện ngay thời lập quốc, tức thời Hồng Bàng. Điểm mà chúng ta muốn bàn tới không phải chúng ta có một nền Việt Triết hay không, song là Việt Triết có những đặc tính gì, phương pháp chi, hiệu năng ra sao, v.v... Lý do dễ hiểu là, nếu chúng ta theo một chiều hướng triết học của tây phương, thí dụ triết học phân tích (analytics), hay chiều hướng thực chính (positivism), hay thực nghiệm (exprimentalism), hay duy nghiệm (empiricism), chúng ta khó có thể kiếm ra, đừng nói đến hiểu cái gọi là Việt Triết. Song nếu coi triết học như là triết lý thực hành, triết học nhân sinh, hay triết lý về định mệnh, thì chúng ta rất dễ dàng nhận thấy có một nền Việt Triết. Để giúp các bạn trẻ hiểu thêm về những điểm chính yếu của Việt Triết (sẽ được bàn đến trong phần tới), chúng tôi xin mạn phép được mạn đàm về những khuynh hướng chính trong nền triết học từ thời Hy lạp, hay từ thời trước Khổng Tử cho tới hiện đại, và sau đó thử xác định Việt Triết trong những chiều hướng này.
2.1. Triết Học như là môn học về nguyên lý tối hậu,
hay những nguyên nhân chính yếu của con người và vũ trụ

Triết học, được sử sách ghi lại, phát hiện từ khi có lịch sử con người. Vào thời đầu, triết học được hiểu như môn học về những huyền bí, những sự biến đổi của thế giới thiên nhiên. Những hiền triết Hy Lạp quan sát sự kiện thiên biến vạn hóa, và tìm ra một nguyên lý, hay một động lực, hay một yếu tố để giải thích hiện tượng thiên nhiên. Họ hoặc nhận nguyên chất như thủy, hỏa, khí, hay yếu tố như vô định, số tượng, hoặc nguyên tử như là căn nguyên của người Tàu về luật biến hóa của vũ trụ. Đạo, lưỡng cực, tứ tượng, bát quái, v.v... là những yếu tố cũng như biến dạng của vũ trụ. Trong Việt Triết, chúng ta cũng thấy những tư tưởng về vũ trụ (vũ trụ luận) tương tự. Qua những huyền thoại như truyện bà "Nữ Oa đội đá vá trời", hay truyện của ông "Bành Tổ", hay truyện "Lạc Long Quân với bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng", hay truyện "Thần Kim Quy", v.v..., ta thấy tư tưởng chính yếu của Việt Triết vẫn là đi kiếm một nguyên lý tối hậu giải thích vũ trụ, định mệnh con người và dân tộc.
2.2. Triết Học như là công cụ khoa học
giúp con người nhận thức chân lý, cũng như Thượng Đế

Sự thực, như các triết gia nhận ra, là không có một yếu tố chi, cũng không có một nguyên chất nào, càng không có một động lực nào khác có thể giải thích được cái toàn thể, sự biến hóa, cũng như định luật của vũ trụ. Điều này, ngay từ thời Su-Cát (Socrates) từng ngạo cười những nhà ngụy biện (Sophists), triết gia bắt đầu nhận ra sự vô bổ của những kiến thức về vũ trụ. Đối với Su-Cát và ngay cả A-Lý-Đa-Đức (Aristoteles), triết học là triết học về con người! Thế nên, triết học mang một mục đích giúp con người nhận thức được chính con người. Lần đầu tiên chúng ta thấy xuất hiện môn nhân học (Anthropology). Song con người là gì? Câu hỏi hóc búa này, cho đến nay vẫn chưa tìm ra được câu trả lời thỏa mãn. Để giải thích linh ư vạn vật, triết gia bắt buộc phải tìm kiếm những yếu tính khoa học (tức những yếu tính có thể giải thích, phán quyết, tiên đoán cũng như xác quyết sự vật hay hiện tượng. Hai tính chất phổ biến (universal) và tất yếu (necessity) được coi như là yếu tính của khoa học. Theo các triết gia, những yếu tính này hoặc phải là lý tính (reason) với trường phái duy lý (rationalism), hoặc là tinh thần (Spirit) với trường phái duy linh (spiritualism), hoặc là nguyên chất với trường phái duy vật (materialism); chúng có thể giải thích bản chất linh ư vạn vật của con người. Bồ-La-Thư (Platon) gọi cái nguyên lý tối hậu có tính chất phổ biến và tất yếu này là "quan niệm" hay "lý hình", trong khi A-Lý-Đa-Đức cho là nguyên nhân tối hậu. Dù sao đi nữa, triết lý Hy-Lạp vẫn không thỏa mãn được trí thức của con người về vũ trụ. Lịch sử con người cũng như định mệnh của con người không được triết Hy-Lạp giải thích một cách thỏa đáng. Đây là một lý do chính yếu khiến các thần học gia như thánh Âu-Cơ-Tinh (St. Augustine) phải tổng hợp triết lý Hy-Lạp với truyền thống Dothái: đối với ngài chỉ có Thượng Đế mới là nguyên lý, động lực cũng như căn nguyên tối hậu giải thích cũng như quyết định vận mệnh, quy luật của vũ trụ, hạn chế vào công việc tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế mà thôi. Triết học biến thành nữ tì của Thần Học (philosophia theologiae ancilla). Trong triết học Trung Hoa, chúng ta nhận thấy một biến thiên tương tự, tuy thiếu minh bạch và biện luận, từ việc giải thích vũ trụ như là thiên, (thiên đồng nghĩa với thiên nhiên, hay thế giới nằm trên con người) cho tới việc coi Thiên như là chúa tể. Người Tàu tự trước thời Châu tới thời Xuân Thu (thời Khổng Tử) đã coi Thiên như là một nguyên lý, động lực cũng như Thượng Đế để giải thích cũng như quyết đoán số mệnh của vũ trụ và con người. Trong Việt Triết, chúng ta nhận thấy những suy tư tương tự. Con người, trên con đường đi tìm nguyên lý tối hậu, hay một động lực tối thượng thường phát hiện đấng tối cao, tức Thượng Đế. Nếu không tìm ra Ngài, chúng ta tự thần thánh hóa con người, với mục đích nhờ Thượng Đế để giải đáp những khó khăn mà con người không thể tự lực giải quyết. Những khó khăn này thường là những vấn nạn của con người như định mệnh, sinh mệnh vấn đề sống còn, cũng như những vấn nạn liên quan như chủng tộc và quốc gia. Thế nên khi tổ tiên chúng ta tôn thờ thánh Dóng, tôn kính thánh Trần Hưng Đạo, hay bái thờ hai bà Trưng, đây không phải chỉ là những hành vi thiếu ý thức. Ngược lại, chúng mang một ý nghĩa triết học sâu sa về định mệnh của dân tộc. Chính vì thế, chúng ta không được phép khinh thường dã sử. Trong dã sử, thí dụ những truyện về bà Nữ Oa đội đá vá trời, ông Bành Tổ khai thiên lập quốc, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ 100 trứng, v.v..., đều hàm ngụ minh triết của Việt dân. Sự gắn bó với định mệnh cũng như công việc đi tìm kiếm và giải đáp định mệnh của con người nói lên tinh thần tôn giáo của người Việt. Nơi đây có một điểm khác biệt nhỏ giữa Việt Triết và Hán Triết, đó là nếu ở bên Trung Hoa, Nho học được chia ra làm hai nhánh: tư tưởng nho gia và nho giáo, và nếu người Tàu họ trọng dụng Nho học nhưng khinh thường Nho giáo, thì người Việt chúng ta thường chú trọng nhiều hơn tới Nho giáo. Điểm này cũng nói lên, Việt Triết không chỉ bị hạn hẹp trong trí thức, song tiềm tàng trong đời sống của Việt dân.
2.3. Triết Học như là môn học giúp con người
đạt tới tri thức chân thực

Thế nhưng, định mệnh của con người không thể chứng minh một cách khoa học được. Định mệnh, Thượng Đế, khát vọng về cực lạc, tuy chân thật song ta không dễ dàng gì chứng minh được sự hiện hữu cũng như bản chất của Ngài, cũng như khó có thể xác định được những khát vọng con người một cách minh bạch. Thượng Đế chỉ mặc khải cho những người tin yêu Ngài. Thượng Đế chỉ xuất hiện với những người đơn sơ như các trẻ nhỏ. Chính vì vậy, ngay vào thời Trung Cổ, các triết gia đã nhận ra điểm này khi họ xác định tính chất thiết yếu và ưu tiên của đức tin: credo ut intelligam (tin để hiểu), hoặc credo quia absurdum (tin vì phi lý). Ngay cả vào thời hiện đại, những triết gia duy lý như Khang-Đức (Kant) cũng phải chấp nhận một sự kiện, đó là ba nguyên tố (postulata) như Thượng Đế, Tự Do và Linh Hồn bất diệt là những sự thật hiển nhiên, song không thể dùng lý trí để chứng minh.
Sự phát triển của khoa học, nhất là toán học và thiên văn học, khiến con người có ảo tưởng, quả quyết cho bất cứ điều gì chân thực, cũng có thể chứng minh được. Sự thành công của các nhà bác học như linh mục Cơ-Bạch-Ni (N. Copernicus, Kopernig), Kép-Lân (J. Kepler) và Gia-Li-Lê-Âu (G. Galileo), và nhất là Như-Tuần (Isaac Newton) vào những thế kỷ 16 và 17 khiến ảo tưởng này biến thành một tín lý. Với một niềm tin như vậy, họ cổ võ triết học tự lập, thoát khỏi sự trao buộc của thần học. Triết học đầu thai biến thành một công cụ trí thức. Chúng ta không lấy làm lạ gì nếu nền triết học hiện đại (epistemology hay gnoseology). Đối với những triết học như Đệ-Các (René Descartes) hay Ba-Công (Francis Bacon), mục đích của triết học hạn hẹp vào trong công việc chứng minh sự chân thật hay giả dối, đúng hay sai mà thôi. Là một công cụ của trí thức, triết học càng chú trọng tới phương pháp. Một phương pháp đúng sẽ đưa tới một kiến thức xác thực. Thế nên, đối với các triết gia này, để chứng minh đúng hay sai, chúng ta trước hết phải tìm ra một phương pháp có hiệu năng. Nói cách khác, triết học của họ chỉ là một phương pháp luận (methodology) nhiều hơn là tri thức luận. Phương pháp hiệu năng nhất đối với Đệ-Các đó là phương pháp của toán học, nhất là phương pháp phân tích (analytic). Phương pháp này có thể chứng minh bất cứ điều chân thật nào cũng phải tinh tuyền và minh bạch (clara et distincta) mà chúng ta không thể hồ nghi. Đối với Ba-Công, phương pháp hữu nghiệm nhất là phương pháp quy nạp (induction): chỉ những tri thức nào có thể chứng minh được bằng kinh nghiệm (empirical) hay thực nghiệm (experimental) mới đáng được gọi là tri thức. Những triết gia sau, bao gồm Khang -Đức và Lữ-Kha (John Locke) cũng như Huy-Mai (David Hume) phát triển hai phương pháp của Đệ-Các và của Ba-Công tới mức điêu luyện hơn mà thôi.
Nhiều người bị ảnh hưởng của triết Tây Phương, thường nhận định là triết đông nói chung, và Việt Triết nói riêng, thiếu một nền trí thức luận, và nhất là phương pháp luận. Lối phê bình của họ một phần nào đúng, song cũng có phần sai. Trên thực tế, triết đông nói chung và Việt Triết nói riêng, quả thực không có cống hiến được một phương pháp hoàn toàn khoa học chắc chắn. Ngay trong Kinh Dịch, những bản tính toán cũng không được chính xác như toán học của Âu-Kỳ-Đệ (Euclides). Ngay vào thời gọi là duy lý như thời Tống và Minh, những luận lý của Công Tôn-Dương cũng khó có thể đạt được tính chất chặt chẽ thấy trong hệ thống luận lý hình thức của Tây Phương. Song, nếu chúng ta chú ý tới lối tư duy của người Việt, một điểm mà không ai có thể từ chối được, là người Việt áp dụng thực nghiệm với kinh nghiệm để đưa ra một tri thức xác đáng. Thí dụ câu phong dao: "Chết cha ăn cơm với cá, chết mẹ liếm lá đầu đường" nói lên một kiến thức xã hội: người mẹ chăm sóc con kỹ lưỡng hơn người cha. Kiến thức này rút ra từ những kinh nghiệm của đại chúng được thực nghiệm quảng đại. Mức xác đáng của câu phong dao trên có thể đạt tới gần 100%. (Tuy nhiên kiến thức trên không thể bảo đảm là người mẹ yêu con cái hơn người cha).
2.4. Triết Học như là một hệ thống luận lý
xác định lịch sử nhân loại

Nhưng hạn chế triết học vào một nền tri thức luận không những chỉ biến triết học thành một công cụ hay phương pháp, mà còn làm triết học nghèo đói thêm. Những triết gia như Huyền-Cách (Georg F. Hegel) và ngay cả Mã-Sỹ (Karl Marx) nhận định triết học như là một tinh thần của thời đại hay của một dân tộc (Zeitsgeist và Volksgeist). Như là tinh thần, triết học hướng dẫn cả lịch sử nhân loại, cũng như xác định và tiên đoán được cả lịch sử. Mỗi thời kỳ, mỗi biến cố, mỗi nền văn hóa hay nghệ thuật, mỗi tôn giáo, v.v..., chỉ là những lối xuất hiện khác biệt của tinh thần mà thôi. Tuy phản đối Huyền-Cách, Mã-Sỹ vẫn theo lịch sử quan của Huyền-Cách. Họ Mã chỉ lật ngược lại cái luận lý tinh thần của Huyền-Cách mà thôi. Đối với Mã-Sỹ, triết học không những chỉ hướng dẫn lịch sử mà còn phản ảnh tất cả thế giới con người. (Karl Marx, Theses ober Feuerbach, These 11).
Triết đông, nhất là triết của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo, không những phản ảnh được tâm linh con người, mà còn đòi hỏi biến đổi định mệnh hay lịch sử của con người. Những quan niệm cho rằng triết đông thụ động, không liên quan tới lịch sử, thật ra hoàn toàn sai lầm. Việt Triết, một phần bị ảnh hưởng của tam giáo rất sâu, một phần tự bản chất của mình, không những không phải là một suy tư thiếu liên quan tới vận mệnh con người. Việt Triết, như thấy trong huyền thoại, luôn đưa ra một cái nhìn, hay một luận lý về lịch sử của Việt dân. Bản Bình Ngô Đại Cáo không chỉ bàn đến việc đánh bại quân Ngô, bảo vệ đất nước, song còn nói đến tương lai tinh thần dân tộc, nói lên cái cộng cảm (consensus communis), cộng tính siêu việt (transcendence) và những bản chất khác của người Việt. Bình Ngô Đại Cáo không chỉ là một lời hịch; Bình Ngô Đại Cáo là một bản tuyên ngôn (Manifesto). Đây là những điểm mà triết gia người Phổ, ông Phi-Thời (J. Fichte), mãi vào thế kỷ 19 mới nhận ra khi viết bản Đức Quốc Tuyên Cáo Luận (Reden an die deutsche Nation); những điểm mà Mã-Sỹ mới nhận thức được khi soạn thảo bản tuyên ngôn của cộng sản (1848).
2.5. Triết Học như là một suy tư tìm cách biến đổi thế giới
Như từng bàn tới trong điểm trên (2.4), triết học cũng là một triết lý hành động. Khác với những lối triết học được bàn cãi tại các bữa tiệc, hay trong phòng khách; ngược lại với những triết học được coi như đồ trang sức cho các vua chúa hay các bà hoàng, hay như công cụ thuần túy, triết đông nói chung và Việt triết nói riêng, là một nền triết lý hành động. Song không hoàn toàn giống triết học của Mã-Sỹ (như nhiều vị bị ảnh hưởng của Mã-thuyết (Marxism) hay cộng-thuyết (communism) như nhóm triết gia tại Trung Hoa đại lục, hay tại Việt Nam chủ trương, triết hành động của đông phương không nhằm gạt bỏ những điều kiện của thiên nhiên một cách quá khích, song sống theo thiên nhiên (Đạo Lão), hoặc dựa vào luật thiên nhiên để xây dựng xã hội (Khổng giáo). Ngoại trừ Phật giáo, tìm cách thoát ly vòng luân hồi của sinh tử, va coi hư vô như là một lối giải quyết tường tận của những vấn nạn nhân sinh (sinh, lão, bệnh và tử). Triết đông nói chung liên hệ trực tiếp với con người trong xã hội hay trong vũ trụ (thiên nhiên). Như chúng tôi đã nhận định, Việt triết không chỉ thụ hưởng những tư tưởng của tam giáo, mà Việt Triết còn tổng hợp những tư tưởng này với tư tưởng của Việt dân. Thí dụ như cụ Nguyễn Du, tuy bị ảnh hưởng của Phật giáo về định mệnh con người:
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

song cụ không yếm thế, bi quan tìm cách trốn lánh cuộc đời như Phật Giáo, cụ nhận định là tu tâm mới chính là phương thế hữu hiệu đạt thân, hay đi xa hơn, tu tâm là một phương cách biến đổi con người và thế giới:
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Như cụ Nguyễn Du, đa số các triết gia Việt hướng theo triết lý thực hành, tổng hợp lối nhìn của tam giáo với lối tư duy của Việt Triết để cải biến con người và xã hội Việt. Về phương diện này, ảnh hưởng của Nho Học trên tư tưởng Việt Triết rất rõ rệt: quan niệm "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ" (Đại Học, chương I) ảnh hưởng tới thuyết thiện tâm (Mạnh Tử) và tu tâm (Khổng Tử) của Nguyễn Du.
2.6. Triết Học như là môn học
giúp con người sống có giá trị và nhân cách

Tương tự như khuynh hướng trên (2.5), triết học thực hành đòi hỏi một triết học tự thức (self-consciousness). Một triết gia người Đức, Khang-Đức tiên sinh (Kant) từng nhận định một cách rất xác đáng về tự thức. Ông cho tự thức như là tượng trưng của tự do, lý tính và đạo đức. Thiếu tự thức, con người không ý thức được tự do, đạo đức. Nói cách khác, con người thiếu lý tính. Triết học tự thức, có lẽ trừ Trương Tử và các triết gia bị ảnh hưởng của Phật Giáo từng nhấn mạnh tới tự thức, đa số các triết gia đông phương không để tâm nhiều tới cái tự ngã. Như chúng ta biết, từ Đệ-Các qua Khang-Đức tới triết học đương thời như Hốt-Siêu (Edmund Husserl), tự thức là điểm tối yếu của suy tư. Trong Việt Triết, chúng ta không kiếm ra một triết gia nào chú trọng tới vấn đề tự thức. Ngay vào những thời nhà Đinh, Lê, Lý và Trần, khi mà Phật giáo rất hưng thịnh, triết lý nhập thế vẫn lấn át những khái niệm về tự tính và chân tâm hay phật tính. Đây có lẽ là một nguyên do, tại sao trên thực hành, Người Việt có một nền đạo đức cao độ, song trên lý thuyết, chúng ta chưa có một nền đạo đức cá biệt nào. Sự thiếu lý thuyết về đạo đức khiến chúng ta thiếu một nền khoa học đặc biệt về đạo đức của người Việt.
Tương tự, vì thiếu một lý thuyết căn bản, chúng ta thường dựa vào cảm tính hơn là lý tính. Sự kiện này có thể thấy rõ ràng trong việc chúng ta tôn trọng con người, song không có một nền luật pháp bảo vệ giá trị con người. Việt Triết, để có thể phát xuất hiệu năng trong những lãnh vực thực hành như đạo đức, chính trị, bắt buộc phải chú trọng nhiều hơn đến vấn đề tự thức. Lối tự thức này không phải kiểu tự thức của Lão-Trương hay Phật giáo, mà hành động tự thức mà Khang-Đức từng nhấn mạnh. Đó là hành động tự thức về quyền tự lập (autonomy) của con người trong những hành vi lập pháp, lập đức. Đó cũng là hành động tự thức về tự do tính do Thượng Đế phú bẩm cho mọi người.
2.7. Triết Học là một môn học giúp con người
kiếm ra lối giải đáp tối hậu cho những vấn nạn con người

Như trong 2.4 và 2.5 cũng như 2.6 liên hệ tới triết lý thực hành, Việt Triết rất chú trọng tới việc làm sao có thể giải đáp những vấn nạn tối hậu của con người. Thực ra, lối giải đáp mà tổ tiên chúng ta chấp nhận, phần nào ảnh hưởng của Phật giáo, song phần lớn phát xuất tự cõi lòng của dân tộc. Nếu Phật giáo nhận định niết-bàn (nivana) như là lối giải đáp tối hậu (theo đó, con người hoàn toàn thoát ly vận mệnh, đi vào một chân không: không còn sinh, không còn tử, cũng không có chi liên hệ đến thế gian). Nếu Kitô giáo và cả nền văn hóa Âu Mỹ nhận định là, chỉ khi nào con người tự thoát khỏi những dơ bụi trần thế (tội lỗi), và trở lại kết hiệp với Thượng Đế, thì lúc đó chúng ta mới tìm ra được chung cực, thì Việt triết nhận định, giải đáp về những vấn nạn của con người, tuy theo tầm mức khó khăn của mọi vấn nạn, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lối giải quyết khác biệt:
1. Lối giải quyết tối hậu thấy trong Phật giáo và Kitô giáo liên quan tới những vấn nạn hằng hữu về định mệnh của con người, về sự tương quan giữa con người và Thượng Đế và về tương lai của con người và vũ trụ.
2. Lối giải quyết bằng cách biến hóa bản tính của con người nhằm đạt tới một mục đích thiện hữu. Thí dụ quan niệm nhân quả như trồng thiện đạt thiện, gieo gió gặt bão, ác giả ác báo, v.v... Lối giải quyết bằng những cách cải đổi bản chất của con người có thể giải quyết những vấn nạn một cách hiệu quả và tương đối lâu dài. Đây cũng là một lối giải đáp mà chúng ta thường thấy trong Phật giáo và trong một tương quan thường nhật của con người. Trên thực tế, tuy người Việt theo nhân quả, song họ không hoàn toàn theo lý thuyết của Phật giáo. Bởi vì nếu hành thiện chỉ để có thể thoát khỏi vòng luân hồi, theo người Việt, vẫn chưa đủ. Chúng ta hành thiện, mục đích chính là để cải hóa hiện sinh và hậu sinh. Chính nơi đây, chúng ta nhận thấy lối suy tư của người Việt không hoàn toàn theo định luật của nhân quả, theo luận lý của tương quan hiện sinh, một hiện sinh trường cửu nối dài từ đời này đến đời khác; một lối hiện sinh của dòng dõi và của một dân tộc. Chính vì vậy mà chúng ta hành thiện mục đích để nhân lại cho thế hệ sau, giúp người nối dõi có thể đạt được thiện quả. Thế hệ sau, nhất là trưởng nam, được coi như nối dõi tông đường, biểu hiện cho sự hiện sinh của chính chủ thể.
3. Lối giải quyết thứ ba cũng là một lối giải quyết hiện thực, tức cải thiện chế độ hay chính trị và kinh tế. Như chúng ta thấy, các triết gia Việt chia làm ba trường phái, mỗi phái chọn lựa một lối giải quyết khác biệt, nhưng không hoàn toàn tách biệt. Nhiều học giả, thoạt nhìn ba lối giải đáp khác nhau đã vội kết luận là ba phái chính, tức phái Phật giáo, phái Đạo giáo, và phái Khổng giáo, hoàn toàn khác nhau, bởi vì họ chọn lựa ba lối giải đáp khác nhau: diệt thế (Phật), thoát thế (Đạo) và Nhập thế (Khổng). Trên thực tế, đa số Việt dân không phân biệt tam giáo, hoặc đa số nhận định tam giáo được đồng nguyên, nên ba giải đáp trên đều được chấp nhận, và nhất là được tổng hợp một cách siêu việt (điểm này sẽ bàn rộng hơn trong phần bàn về Siêu Việt Biện Chứng phần 3.2.2). Hiểu theo lối này, Việt Triết mang tính chất thực dụng song không duy vật, thực tiễn song lại lãng mạn, vị lý song không duy lý, vị cảm song không duy cảm.
Thoạt nhìn có vẻ mâu thuẫn, nhưng trên thực tế và trên bình diện hiện sinh, Việt triết có thể phát xuất nhiều hiệu năng hơn bất cứ các nền triết học duy tâm, duy lý, duy linh, duy nghiệm, hay duy vật. Những tôn giáo như Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo Cao Đài, đạo Dừa, v.v..., tuy mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 song đã được hàng triệu người Việt tin theo, chứng minh là những tôn giáo này bị ảnh hưởng nặng nề của Việt Triết, hay đúng hơn, lối tư duy của Việt Triết. Những đạo này có thể được gọi một cách không sai lầm là đạo dân gian (Volksreligion), vì chúng đại biểu tinh thần của quần chúng Việt.
2.8. Triết Học là một môn học đại biểu tinh thần dân tộc,
giúp dân tộc nhận ra bản tính đồng nhất,
cũng như giúp con người xã hội giải quyết những vấn nạn xã hội

Phần này, tuy lập lại phần nào mục đích thấy trong các phần trên song càng thực tiển. Nó nói lên phần quan trọng nhất của triết lý thực hành. Như là một triết lý thực hành, triết học phải vạch rõ rệt và cụ thể cái mục đích của mình. Thế nên, triết học phải nhắm tới giải đáp những vấn nạn không phải của cá nhân mà còn của cả dân tộc. Chính vì thế, triết học còn đại biểu cho một ý thức hệ, hay tinh thần của dân tộc cũng như của một thời đại. Nếu chúng ta hiểu ý thức hệ, tôn giáo, hay triết học như tinh hoa, cũng như sự biểu tượng và dự phóng tính của con người thực tế trong một xã hội hiện thực thì điểm mà chúng ta bắt buộc phải thảo luận là triết học có thể đại biểu Việt dân và tinh thần của dân tộc hay không. Như thường thấy, các nền tư tưởng Việt thường biểu lộ lối suy tư của dân tộc trong một thời đại cũng như trong một không gian nào đó. Thí dụ, tư tưởng yếm thế của Trần Tế Xương, hay Tản Đà phản ảnh thời loạn ly, đạo đức suy đồi và tâm lý bất lực của kẻ sĩ. Những cái nhìn bất cần đời của Tú Xương nói lên những vấn nạn của dân tộc vượt khỏi khả năng của kẻ sĩ. Tương tự, tư tưởng của Hồ Biểu Chánh, phần nào bị ảnh hưởng của xã hội thời Pháp thuộc tại miền Nam, phần do địa lý thuận hòa cũng như sự chất phác của nông dân miền Nam vào đầu thế kỷ 20. Chính vì thế mà chúng ta có thể xác quyết là, mỗi thời đại đều có một nền triết học. Triết học, cũng như tôn giáo, giống như tấm gương, phản chiếu lại thời đại và con người trong thời đại này.
Triết học không chỉ phản ảnh thời đại hay tâm lý quần chúng (thấy trong các văn phạm, thí dụ của Tản Đà hay Hồ Biểu Chánh). Triết học tìm cách giải quyết những điều khó khăn mà chính trị, kinh tế hay vũ lực không thể giải quyết. Chỉ ở vào thời đại loạn ly như thời Xuân thu (480-BC) khi mà mạng sống con người hoàn toàn mất giá trị, chúng ta mới thấy được khát vọng hòa bình của người dân. Chỉ vào thời loạn quốc, khi mà vũ lực, uy lực, quyền lực không thể giải quyết được chiến tranh, không thể tạo hòa bình và hạnh phúc, con người mới nỗ lực đi tìm kiếm một giải đáp. Triết học của Khổng Tử không những nói lên khát vọng này mà còn cố gắng đưa ra một biện pháp nhằm giải quyết, cũng như mang hòa bình lại cho đất nước, mang hoan lạc cho quần chúng. Tương tự, tư tưởng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn phản ảnh lối nhìn chung của giới trí thức muốn cải đổi đất nước vào đầu thế kỷ này. Những chứng minh trên khiến chúng tôi đi đến một số điểm mà, triết học bắt buộc phải có như sau:
1. Triết học phải nói lên khát vọng chung của dân tộc trong một thời đại;
2. Triết học phải tìm ra những vấn nạn của con người cũng như của đất nước;
3. Triết học phải cố gắng đi tìm giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết những vấn nạn này.
Nói chung, triết học có thể được coi như là một ý thức hệ, cũng như phản tỉnhtu chính nền ý thức hệ này. Đồng thời, triết học cũng là một nền triết học thực hành, chứng nghiệm, gạt bỏ và bổ túc những ý thức hệ. Triết tây tiến bộ hơn Triết Đông, lý do chính là họ biết phản tỉnh và phê bình những ý thức hệ cũ. Trong khi ở đông phương, những tư tưởng nhất là phần hủ bại của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo không hề được phản tỉnh đừng nói đến phê bình và cải tiến.
2.9. Triết Học như là một lối biểu hiện
tính chất tồn tại của con người

Tuy hướng về quan niệm của một nền triết lý thực hành, chúng ta cũng không được phép gạt bỏ những quan niệm về triết học như một lối biểu tượng của con người cá nhân, hay con người tại thế, hay của con người ý thức về thân thể, cảm giác cũng như định mệnh của mình. Vào đầu thế kỷ 20, khi nhận ra hiện tính của con người, tức bản chất tại thế, hiện sinh, hiện thực, cũng như cảm giác đã từng bị các triết học duy lý, duy linh, duy vật và duy tâm gạt bỏ, những nhà triết gia thuộc trường phái hiện sinh khai quật những tư tưởng của Nghịch-Tài (Friedrich Nietzche) và Kỳ-Cơ-Nhã (Soren Kierkegaard) (hai triết gia vào cuối thế kỷ 19) về hiện thực tính của hữu thể. Những triết gia như Hải-Đức-Cách (Martin Heidegger), Gi-Phi (Karl Jaspers) tại Đức, Mạc-Sen (Gabriel Marcel), Sa-Thời (Jean-Paul-Satre), Ca-Mỹ (Albert Camus), v.v..., tại Pháp phát động phong trào tồn sinh và hiện sinh nhận định ưu tiên tính của hiện tính vuợt khỏi bản thể tính của con người (existence prior to essence).
Suy tư về hiện tính của con người là một phần quan trọng trong triết đông nhất là Việt Triết. Tuy không hoàn toàn đồng ý với nhiều chuyên gia nhận định là triết đông thiếu hữu thể học (ontology) cũng như trí thức luận (epistemology) và siêu hình học (metaphysics), chúng tôi phải chấp nhận là, triết học ở Việt Nam trên thực tế là triết hiện sinh. Hai luận văn của Giáo Sư Vũ Đình Trác về triết học của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Du chứng minh rõ điều này. Tuy thế, chúng ta phải chú ý là, khi nói tới hiện sinh, ý nghĩa chính là hiện tính tức tính chất hiện thể và thực thể của cuộc sống nhân sinh, chứ không phải cái hiện tượng của thân thể như thấy trong các phân tích của Sa-Thời, Ca-Mỹ và nhất là Mặc-Lự Phong-Đệ (Merleau-Ponty).
2.10. Triết Học chỉ là một công cụ phân tích
Đây là một lối nhìn cho triết học chỉ là một công cụ để giúp tư tưởng, hay ngôn ngữ minh bạch, và không hồ đồ. Lối nhìn này, tuy kế tiếp truyền thống duy nghiệm và thực nghiệm của các nhà triết học người Anh, phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ 20 tại Anh và Mỹ. Nhà triết học người Áo, ông Vỹ-Cân-Đan (ludwig Wittgenstein) có thể nói là một trong những triết gia quan trọng nhất của trường phái này. Tuy về cuối đời, triết gia họ Vỹ có đổi lối nhìn, nhận định vai trò của triết học vuợt khỏi vai trò phân tích, và triết học như là một cuộc phản ảnh của thế giới, song các đồ đệ của ông phát triển những kỹ thuật, nhất là môn luận lý [bao gồm tượng trưng (symbol logic), hình thái (modal logic), và hình thức (formal logic) cũng như luận lý thực chính luận (logical positivism)] và ngôn ngữ [nhất là ngôn ngữ nguyên tử (linguistic atom, hay atomic language)] đến một mức độ tinh vi. Chính vì thế, tuy triết học phân tích không đưa ra được những tư tưởng cải đổi thế giới, trường phái này hiện làm mưa làm gió trong các đại học tại Anh và Mỹ. Nên triết học này tương đối xa lạ với triết đông và Việt Triết. Tuy thế, chúng ta không được phép gạt bỏ, song phải siêu việt triết học phân tích, bằng cách áp dụng những kỹ thuật tinh vi của triết học này để tìm ra chân tính (truth) cũng như xác thực tính (exactitude) của Việt triết.
2.11. Triết Học là một môn khoa học xã hội,
nhắm đến một tương thông tư tưởng và nhằm giải quyết những hiểu nhầm

Ngoài những trường phái trên, chúng ta nhận thấy còn có rất nhiều trường phái khác như phái lịch sử, phái Tân-Mã-Sỹ (Neo-Marxism), phái Kết-Cấu (Structuralism), phái Chuyển-Thích hay Thông-Diễn (Hermeneutics) và phái Hậu-Hiện-Đại (Post-modernism). Những phái này tương đối xa lạ với triết đông. Tuy thế ảnh hưởng của chúng càng ngày càng lớn mạnh trong các giảng đường đại học tại Á Châu. Có những đường lối triết học có thể giúp ích cho chúng ta trong việc nghiên cứu Việt triết như lý thuyết chuyển thích, hay những phê bình của một số triết gia thuộc trường phái Tân Mã-Sỹ. Cũng có những luận đề rất đông phương thấy trong Hậu Hiện-Đại thuyết. Trong bài có tính chất nhập môn này, chúng tôi xin được phép tạm gác lại một bên. Chỉ xin được bàn thêm vài lời về triết thuyết câu thông của ông Hà-Bác-Mã (Jorgen Habermas), lý do tôi thấy trong lý thuyết này có một số điểm mà Việt triết đã từng phát hiện. Một lý do khác là lý thuyết của ông Hà-Bác-Mã tổng hợp nhiều lý thuyết của nhóm Tân Mã-Sỹ, triết học chuyển thích và triết học phân tích. Trong phần bàn về bản chất của Việt Triết, chúng tôi sẽ đi sâu hơn vào những chi tiết của triết thuyết này.
Theo Hà-Bác-Mã, vấn nạn chính yếu của con người là sự bất khả trong câu thông (communication) hay tương thông. Cái khó khăn của tương thông phát sinh từ sự việc:
1. hai chủ thể không có những ngôn ngữ tương đồng;
2. do sự khác biệt hay tương khắc về ý-hướng, trí hướng và tư lợi của hai chủ thể;
3. do sự khác biệt của môi trường cũng như điều kiện ảnh hưởng tới sự hình thành của con người sinh vật và con người xã hội, và do đó ảnh hưởng tới lối tư duy của mọi người;
4. sự khác biệt của phương pháp mà mỗi chủ thể áp dụng. Ngay cả phương pháp cũng bị ảnh hưởng của lối sống của con người. Không cần đi sâu vào chi tiết của lý thuyết Hà-Bác-Mã, chúng ta đã nhận ra một điểm, đó là việc họ Hà nhấn mạnh đến tính chất tương quan của tương hộ chủ thể (Inter-Subject), chứ không theo lối nhìn của nhóm duy lý, phân biệt chủ thể và khách thể (subject-object), và nhấn mạnh tới chủ thể, hay lối nhìn nhị nguyên coi khách thể như là một ngoại tại đối lập với chủ thể (objecttum). Đồng thời, ông cũng tổng hợp hai lối nhìn của duy vật và duy linh: đối với ông cái lợi ích (interest) đồng thời cũng là tri hướng (intellectual interest), và là chí hướng (emancipatory interest). Do đó con người là một con người toàn thể chứ không chỉ duy vật hay duy tâm, hay duy linh. Những lối nhìn này rất tương đồng với lối nhìn của Việt Triết về con người và xã hội, con người và Thượng Đế, và con người với con người (Thiên, Địa, Nhân).
Trong phần tới, khi bàn về bản chất của Việt Triết, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề tương quan giữa con người với con người (đạo nhân), con người với vạn vật (đạo vật), và con người với Thượng Đế (Thiên Đạo).
 
Từ khía cạnh ngữ phạm (grammatic), ngôn ngữ Việt không cứng nhắc, song lại có thể biểu tả một cách xác thực hơn. Thí dụ câu nói "anh yêu em". Về hình thức, câu nói này hoàn toàn đúng văn phạm của chủ đề, động từ và đối tượng thấy trong ngôn ngữ tây phương. Song ý nghĩa của câu nói trong ngôn ngữ Việt lại chính xác hơn tây phương. Nếu trong anh ngữ hay pháp ngữ, chúng ta viết: I love you, và ngược lại you love me hay je t'aime, và tu m'aimes. Chúng ta thấy, người yêu và được yêu (you, me, tu, me) không ở cùng một bề thế: một người là chủ, một người là khách (hay đối tượng). Một tình yêu không cân bằng như thế chưa nói lên được tình yêu chân thật. triết gia Sa-Thời từng phàn nàn là không thể có một tình yêu chân thật. Câu phàn nàn này rất có lý nếu xét từ ngôn ngữ của tây phương. Trong câu "anh yêu em" hay ngược lại "em yêu anh", anh hay em không bị phân biệt thành hai hình thái khác nhau của chủ thể và đối tượng.
 
4. Kết Luận
Dự phóng của Việt Triết

Với tính cách giới thiệu nhiều hơn khảo luận, bản văn này không đi vào chi tiết chứng minh những luận điểm mà chúng tôi đã trình bày trong phần bàn về bản chất cũng như phương pháp của Việt Triết. Cũng chính vì vậy mà phần kết luận này chỉ có nghĩa là kết thúc bản văn chứ không phải kết luận luận đề. Để kết thúc, chúng tôi tạm nêu ra một số điểm, hay nói đúng hơn, một số ý kiến, mong rằng có thể đóng góp được phần nào vào công cuộc phát triển Việt Triết.
Thứ nhất, để phát triển Việt Triết, chúng ta bắt buộc phải phát hiện những vấn nạn trực tiếp cũng như những vấn nạn gián tiếp liên quan tới dân tộc Việt. Những vấn nạn này bao gồm:
(1)    Những vấn nạn sống còn với mạng sống của con người, với định mệnh của dân tộc.
(2)    Những vấn nạn liên quan tới công việc bảo vệ cuộc sống của mỗi người, cũng như của dân tộc,
(3)    và những vấn nạn liên quan tới sự phát triển của người Việt và nước Việt.
Từ mỗi vấn nạn căn bản, chúng ta đi tìm những vấn nạn tương quan, bao gồm tri thức, hay hiểu biết, thực hành (bao gồm luân lý, chính trị) và hy vọng. Thí dụ như vấn nạn sinh tồn của người Việt, chúng ta thấy có những vấn nạn về tri thức (làm thể nào để nhận thức ra vấn nạn, mực độ khó khăn của vấn nạn, mực độ phức tạp của vấn nạn, v.v...), cũng như những vấn nạn về thực hành (làm thế nào sinh tồn, dùng phương pháp gì để sinh tồn, dùng điều kiện gì để sinh tồn, phải có những quy luật nào để sinh tồn, v.v...). Tương tự, từ vấn nạn bảo tồn con người và dân tộc, cũng thấy những vấn nạn tương quan về tri thức, và thực hành. Những câu hỏi về nguyên do, nguyên lý cũng như phương pháp để bảo vệ con người là những câu hỏi mà chúng ta bắt buộc phải lưu ý. Trong vấn nạn thứ ba, về những câu hỏi như làm thế nào để phát triển con người, làm thế nào để phát triển quốc gia, và làm thế nào để phát triển dân tộc, chúng ta nhận thấy đây không phải là những câu hỏi vô bổ, song có một mực quan trọng không kém những câu hỏi trực tiếp tới vấn nạn sinh tồn.
Như từng thấy trong lịch sử, hầu hết các nền khoa học, thần học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị và nhất là triết học đều phát xuất hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp từ những vấn nạn trên. Nếu kinh tế liên hệ tới vấn nạn sinh tồn của con người, thì đạo đức cũng không kém phần quan trọng. Nguồn gốc của chiến tranh không chỉ là vấn đề tranh đất, tranh thực phẩm, mà còn là vấn đề khác biệt về đạo đức, tranh chấp về tôn giáo và sự tự tôn của khoa học. Tương tự, nguồn gốc của tranh chấp không chỉ là một vấn đề chính trị, mà còn là vấn nạn thiếu câu thông, thiếu một "ngôn ngữ" chung, và thiếu hiểu biết.
Thứ hai, nhận ra những vấn nạn, những khó khăn hay những phúc tạp của những vấn đề trên, Việt Triết bắt buộc phải tìm kiếm những giải đáp thích hợp, và hiệu quả; nếu không, Việt triết sẽ bị quên lãng. Nếu câu giải đáp thích hợp với người Việt, nếu lối giải pháp có đủ hiệu năng giải quyết những vấn nạn của người Việt; nếu giải đáp có giá trị lâu dài, v.v..., giải đáp này có thể được đưa lên làm nguyên lý. Ngược lại nếu giải đáp không thích hợp, thiếu hiệu năng, hoặc tạm bợ, giải đáp này chỉ là một giải pháp có tính chất kỹ thuật tạm thời. Giải đáp này không thể được coi như là nguyên lý. Việt Triết trong cái cá biệt tính (particularity) của mình bao gồm những nguyên lý trên: nó có thể cống hiến một giải đáp hữu hiệu, phổ biến và trường cửu. Chỉ khi mà Việt Triết hội đủ điều kiện trên, lúc đó chúng ta mới có thể vỗ ngực tự hãnh diện với một nền triết học gọi là Việt Triết.
Tuy thế, Việt Triết vẫn chưa hoàn toàn. Bởi vì nếu Việt Triết chỉ hạn hẹp trong công việc đi tìm giải đáp cho những vấn nạn của Việt dân, thì nền triết lý này chưa hội đủ điều kiện để đáng gọi là Triết của con người. Nói cách khác, triết học của chúng ta chưa thể đại diện hoàn toàn cho Việt Triết, bởi vì trên thực tế, nền triết học này chỉ là một ý thức hệ (ideology). Việt Triết không phải là ý thức hệ. Bởi vì, như chúng tôi đã từng phân tích, một nền Việt Triết không những chỉ bao gồm những cá biệt tính của mình, mà còn viễn việt vươn lên biến thành cái nguyên lý chung của nhân loại. Triết học của Khổng Tử không hạn hẹp trong thời Xuân Thu, và chỉ vạch ra giải pháp cho những vấn đề của thời đó mà thôi. Triết học của Khổng Tử vẫn còn hiệu lực để giải quyết những vấn đề hiện đại và cho toàn thể nhân loại. Tương tự, lý thuyết cứu nhân loại, con đường bác ái của Đức Kitô không chỉ nhằm cứu người Dothái hay cứu con người vào thời đại Dothái bị lệ thuộc La Mã, mà còn cứu độ tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, màu da, sắc tộc, thời đại. Những nền triết học của Bồ-La-Thư và Á-Lý-Đa-Đức, v.v... đều có những cái nhìn tương tự. Chính vì vậy mà, Việt Triết mà bản thể của mình là Việt tính, được biểu hiện bởi bản chất viễn việt, và qua phương pháp tổng hợp biện chứng, không chỉ đi tìm những giải đáp tạm bợ, cá biệt cho dân Việt mà thôi, song còn phải vượt lên bằng cách nỗ lực phát hiện những giải đáp vĩnh cửu cho toàn thể nhân loại. Chỉ khi mà chúng ta có thể đưa ra một nền triết học như vậy, lúc đó Việt Triết mới có thể tự hào gọi mình là Việt Triết (tức triết lý siêu việt bổ túc cho triết lý vĩnh cửu, (philosophia trancendentalis philosophiam perennem transcendet). Việt Triết từ động tính (activity) của mình tiến xa hơn bất cứ nền triết lý nào tự xưng là vĩnh cửu, bởi vì vĩnh cửu được xây dựng trên tĩnh tính (passivity).
Thứ ba, trong khi đi tìm những giải đáp cho những vấn nạn của dân tộc và của nhân loại, Việt Triết bắt buộc phải chú ý tới những vấn nạn căn bản của con người, những vấn nạn đương phát sinh và sẽ phát sinh trong tương lai. Do đó, chúng ta cần những phương pháp cũng như những kiến thức hữu hiệu để khám phá ra những vấn nạn trên. Điều mà chúng tôi muốn nói là, trong khi triết học tây phương phát triển mạnh về phương diện này, triết đông nói chung và Việt Triết nói riêng hình như không chú trọng tới tầm quan trọng của phương pháp. Chính vì lý do này mà triết đông không có phát triển gì trên cả hai ngàn năm lịch sử. Thật là điều đáng tiếc vậy. Tương tự, để giải đáp những vấn nạn trên, chúng ta cũng cần phải có những phương pháp hữu hiệu. Điểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh nơi đây là, phương pháp áp dụng để giải quyết vấn nạn không hoàn toàn đồng nhất với phương pháp áp dụng để phát hiện vấn nạn. Tương tự, những phương pháp giải quyết những vấn nạn tri thức không hoàn toàn đồng nhất với những phương pháp của triết lý thực hành. Ngay cả trong triết lý thực hành, mỗi bộ môn (đạo đức, chính trị, kinh tế, pháp luật...) cũng không hoàn toàn giống nhau. Chính vì vậy mà chúng ta cũng không thể áp dụng cùng một phương pháp để giải quyết mọi vấn đề. Cái yếu của Nho học có thể thấy ở điểm này: khi Khổng Tử áp dụng lối giải quyết của đạo đức vào chính trị cũng như pháp luật, ngài đã thấy trước cái thất bại của ngài (câu truyện người con cỏng người bố phạm pháp đi trốn khỏi pháp luật). Khi mà những nho gia không ý thức được khó khăn trên, nhưng lại áp dụng một cách cực đoan lý thuyết Khổng Tử vào tất cả mọi hoạt động của con người, họ làm cho xã hội thoái bộ thay vì tiến bộ. Đây cũng là điểm mà nhóm tây học như Hồ Thích đã từng phê bình các cựu nho gia Tầu vào đầu thập niên 1920 vậy.
Nhận định này đưa chúng tôi tới điểm thứ tư. Việt Triết, khác biệt với nền triết học tư duy của tây phương. Việt Triết, tự bản tính là triết thực hành. Song thực hành không có nghĩa thiếu tư duy, hay thiếu phản tỉnh. Ngược lại, người Việt chúng ta tư duy, chúng ta suy nghĩ, song suy nghĩ về những vấn nạn thực tiễn chứ không phải những vấn đề trừu tượng. Như là một nền triết học thực hành, triết học bao gồm mọi hành động liên quan tới cuộc sống của con người, như sinh, lão, bệnh, tử (thuyết căn bản của Phật giáo); những vấn nạn phát xuất từ sự tương quan của con người xã hội như bất công, bất nhân, bất hiếu, bất lễ, bất trí, bất tín, v.v... (thuyết của Nho giáo); hoặc những vấn nạn phát xuất từ lòng tham lam, quyền bính, thiếu tự do... (thuyết của Lão giáo); những vấn nạn phát xuất từ sự sống còn của dân tộc (ngoại xâm, nội chiến, thù hận giữa các sắc tộc, các tôn giáo...) và những vấn nạn thấy trong cuộc sống hiện đại (kinh tế, dân chủ, tự do, kiến thức...). Thế nên sứ mạng cũng như nhiệm vụ của Việt Triết có thể được tóm lại một cách rõ ràng như sau:
1. Phát hiện nguyên do, căn bệnh, bệnh trạng cũng như sự biến hóa của căn bệnh của xã hội Việt, của con người Việt, (hay là phát hiện ra những điều kiện làm cho chúng ta suy đồi, những thể chế làm cho chúng ta thoái bộ, v.v...).
2. Nỗ lực đi tìm những giải đáp, và cố gắng tìm những giải đáp tối hậu có thể đưa lên hàng nguyên lý áp dụng cho tất cả mọi xã hội vào mỗi thời đại.
3. Ngay cả khi mà những vấn nạn trên được giải đáp, chúng ta không được phép ngây thơ cho rằng lịch sử của người Việt, lịch sử của nhân loại đã đạt đến viên mãn. Một lối nhìn như vậy rất dễ làm cho Việt Triết ngộp thở, nếu không nói là tự khai tử. Lỗi lầm của Huyền-Cách cho rằng giai đoạn tối hậu của triết học là tinh thần tuyệt đối, cũng như lỗi lầm của Mã-Sỹ cho rằng giai đoạn tối hậu của lịch sử là giới vô sản, không những khiến triết học ngộp thở mà còn bóp nghẹt cả lịch sử nhân loại. Tương tự, nếu con người hoàn toàn thoát ly tứ khổ như Phật giáo nhận định, thì cũng không cần phải có triết lý gì hết. Nếu không sinh ra, làm sao có thể chết, có thể già, có thể mắc bệnh? Song nếu không có sinh, không có tử, thì cũng không có con người, đừng có nói chi tới triết học hay thần học. Việt Triết là một nền triết học vị nhân. Việt Triết chấp nhận hiện tính của con người. Chính vì vậy, đối với Việt Triết, con người, như là con người, luôn luôn có những ước vọng mới, nên luôn luôn có những khó khăn mới. Chính ở điểm này, mà chúng tôi nhấn mạnh đến công việc đi tìm kiếm vấn nạn, cũng như đi tìm giải đáp cho những vấn nạn của con người. Đây là một công việc vĩnh viễn, tất yếu và khẩn cấp, mà chúng ta không thể ngưng. Chính ở điểm này mà chúng ta nhận ra được cái gọi là Việt tính hay viễn việt tính (transcendence) của Việt Triết.
(Viết xong tại Viện Triết Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội, Bắc Kinh, 24.07.1996)