
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG SÁNG TẠO
Kinh Thánh và Kinh Tin Kính (Credo) bắt đầu bằng việc tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Khác với các mầu nhiệm lớn khác của đức tin chúng ta ( Thiên Chúa Ba Ngôi, Nhập Thể và Cứu Độ), sự sáng tạo là câu trả lời đầu tiên cho những câu hỏi căn bản của con người về nguồn gốc và đích đến của mình, những câu hỏi mà lý trí con người tự đặt ra và phần nào trả lời được, như được thể hiện trong suy tư triết học và các truyền thuyết về nguồn gốc của văn hóa tôn giáo của nhiều dân tộc[1].
Tuy nhiên, đặc thù của khái niệm sáng tạo chỉ được nhận thức rõ ràng với sự mạc khải. Vì thế, sự sáng tạo vừa là một mầu nhiệm đức tin vừa là một chân lý có thể hiểu được bằng lý trí[2]. Vị trí đặc biệt này làm cho sự sáng tạo trở thành một điểm khởi đầu tốt cho công cuộc truyền giáo và đối thoại mà các Kitô hữu, ngay cả trong thời đại chúng ta[3], được mời gọi thực hiện như Thánh Phaolô đã làm tại Aréôpagô ở Athens (Cv 17,16-34).
Thông thường người ta phân biệt giữa hành động sáng tạo của Thiên Chúa (sáng tạo chủ động – creatio activa sumpta) và thực thể được tạo ra là kết quả của hành động thần linh này (sáng tạo bị động – creatio passiva sumpta)[4].
1. Sự sáng tạo là công trình chung của Ba Ngôi Thiên Chúa
Mạc Khải trình bày hành động sáng tạo của Thiên Chúa như là kết quả của quyền năng vô hạn, sự khôn ngoan và tình yêu của Người. Sự sáng tạo thường được quy cho Chúa Cha, sự cứu chuộc cho Chúa Con, và sự thánh hóa cho Chúa Thánh Thần. Đồng thời, các công trình hướng ra ngoại tại (ad extra) của Ba Ngôi (và sáng tạo là công trình đầu tiên trong số đó) là chung cho cả Ba Ngôi; do đó, câu hỏi được đặt ra về vai trò riêng biệt của mỗi Ngôi trong sự sáng tạo, vì “mỗi Ngôi Thiên Chúa thực hiện công trình chung theo đặc tính riêng của mình”[5]. Đây cũng là ý nghĩa của việc truyền thống gán các thuộc tính thiết yếu (Quyền Năng, Khôn Ngoan, Tình yêu) tương ứng cho công trình sáng tạo của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
a. “Đấng tạo thành trời đất”.
“Ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng trời đất” (St 1,1). Có ba điều được khẳng định trong những lời đầu tiên của Kinh Thánh: Thiên Chúa vĩnh cửu đã đặt ra một khởi đầu cho mọi sự tồn tại ngoài chính Ngài. Chỉ có Ngài là Đấng tạo dựng (động từ “tạo dựng” – trong tiếng Do Thái " בריאה là B'reiyah – luôn có chủ ngữ là Thiên Chúa). Toàn bộ mọi sự tồn tại được diễn đạt bằng cụm từ ‘trời và đất’ đều phụ thuộc vào Đấng ban cho nó sự hiện hữu[6]. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể tạo dựng theo đúng nghĩa của từ này, điều này ngụ ý tạo dựng từ hư vô (ex nihilo) chứ không phải từ một cái gì đã có trước đó; điều này đòi hỏi một quyền năng hoạt động vô hạn chỉ thuộc về Thiên Chúa[7]. Vì vậy, việc gán quyền năng sáng tạo toàn năng cho Chúa Cha là thích hợp, vì trong Ba Ngôi Thiên Chúa, theo cách diễn đạt cổ điển, Ngài là Nguồn gốc, nghĩa là Ngôi Vị mà từ đó hai Ngôi khác phát sinh, nguyên lý không có nguyên lý.
Đức tin Kitô giáo khẳng định rằng sự phân biệt căn bản trong thực tại là giữa Thiên Chúa và các thụ tạo của Ngài. Đây là một điều mới mẻ trong những thế kỷ đầu tiên, khi sự đối lập giữa vật chất và tinh thần dẫn đến các quan điểm không thể hòa giải (chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa nhị nguyên và chủ nghĩa nhất nguyên). Kitô giáo đã phá vỡ những khuôn mẫu đó bằng cách khẳng định rằng vật chất (cũng như tinh thần) đều là tạo vật của Thiên Chúa duy nhất và siêu việt.
Sau này, Thánh Tôma Aquinô đã phát triển một siêu hình học về sự sáng tạo, mô tả Thiên Chúa là Chính Thể Tồn Tại Tự Thân. Là nguyên nhân đầu tiên, Ngài hoàn toàn vượt trên thế giới; đồng thời, nhờ sự tham dự của bản thể Ngài trong các thụ tạo, Ngài hiện diện sâu sắc trong chúng, vì chúng hoàn toàn phụ thuộc vào Đấng là nguồn của mọi sự tồn tại. Như Thánh Augustinô đã nhắc lại, Thiên Chúa “cao hơn cả điều cao nhất nơi tôi và đồng thời thân mật hơn cả điều thân mật nhất nơi tôi” (superior summo meo et intimior intimo meo)[8].
b. “Trong Người mà muôn vật đã được tạo thành”
Văn chương khôn ngoan trong Cựu Ước trình bày thế giới như là kết quả của sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thế giới không phải là sản phẩm của một sự tất yếu nào đó, của một định mệnh mù quáng hay của sự ngẫu nhiên, mà nó sở hữu một tính hợp lý mà lý trí con người, tham dự ánh sáng của mạc khải, có thể nắm bắt được, không phải dễ dàng và trong tinh thần khiêm tốn và tôn trọng trước Đấng Tạo Hóa và công trình của Ngài[9]. Sự phát triển này đạt đến biểu hiện trọn vẹn trong Tân Ước: khi đồng nhất Con, Đức Giêsu Kitô, với Ngôi Lời (Logos) ( Ga 1, 1), Người khẳng định rằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa là một Ngôi Vị, Ngôi Lời nhập thể, qua Người mọi sự đã được tạo nên (Ga 1, 3).
Thánh Phaolô diễn đạt mối quan hệ giữa sự sáng tạo và Đức Kitô, xác định rằng mọi vật đã được tạo dựng trong Người, qua Người và vì Người (Cl 1, 16-17).
Do đó, có một lý do sáng tạo đứng đằng sau vũ trụ [10]. Kitô giáo từ lúc mới hình thành đã rất tin tưởng vào khả năng nhận biết của lý trí con người; và có một sự chắc chắn lớn rằng lý trí (khoa học hay triết học) không bao giờ có thể đi đến kết luận trái ngược với đức tin, vì cả hai đều bắt nguồn từ cùng một nguồn gốc.
Không hiếm khi gặp những người đặt ra những tình thế giả tạo, ví dụ như giữa sáng tạo và thuyết tiến hóa. Trên thực tế, một nhận thức luận phù hợp không chỉ phân biệt rõ ràng giữa các lĩnh vực khoa học tự nhiên và đức tin, mà còn công nhận triết học là một yếu tố trung gian cần thiết, vì khoa học, với phương pháp và đối tượng riêng, không bao trùm toàn bộ phạm vi lý trí con người; và đức tin, vốn đề cập đến cùng một thế giới mà khoa học nói tới, cần có các khái niệm triết học để diễn đạt và đối thoại với lý trí con người.
Vì vậy, việc Giáo hội từ đầu đã tìm kiếm sự đối thoại với lý trí là điều hợp lý: một lý trí nhận thức được bản chất được tạo dựng của mình, vì nó không tự ban cho mình sự hiện hữu và không hoàn toàn làm chủ tương lai của mình; một lý trí mở lòng với điều vượt lên trên nó, chính là Lý Trí nguyên thủy. Nghịch lý là, một lý trí đóng kín, tin rằng có thể tìm được câu trả lời cho những câu hỏi sâu sắc nhất của mình ngay trong chính nó, cuối cùng lại khẳng định sự vô nghĩa của cuộc sống, và không nhận ra tính hợp lý của thực tại (chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa phi lý).
c. “Đấng là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống”
Chúng ta tin rằng thế giới phát xuất từ ý muốn tự do của Thiên Chúa, Đấng đã muốn cho các thụ tạo tham dự vào bản thể, sự khôn ngoan và tình thương yêu của Ngài: “Vì chính Ngài là Đấng tạo dựng mọi vật; Ngài muốn chúng tồn tại, và chúng được tạo dựng” (Kh 4, 11). Đặc tính về tình yêu thương và sự trao ban nhưng không này cho phép ta nhận ra trong sự sáng tạo sự hoạt động của Thần Khí, Đấng “bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2) , Ngôi Vị ban tặng trong Ba Ngôi, Tình Yêu tồn tại giữa Chúa Cha và Chúa Con. Hội Thánh tuyên xưng đức tin vào công trình thánh hóa của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống và là nguồn mạch của mọi điều thiện lành[11]. Sự khẳng định của Kitô giáo về tự do sáng tạo của Thiên Chúa giúp ta vượt qua những quan điểm hạn hẹp khác, khi đặt một sự tất yếu trong Thiên Chúa, dẫn đến thuyết định mệnh hay thuyết tất định. Không bên trong cũng không bên ngoài Thiên Chúa, Không có gì buộc Ngài phải sáng tạo.
Vậy mục đích thúc đẩy Ngài là gì? Ngài đã dự định làm gì khi tạo dựng chúng ta?
2. Thế giới được tạo dựng để tôn vinh Thiên Chúa
Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự “không phải để tăng thêm vinh quang của Ngài mà để bày tỏ và chia sẻ vinh quang đó”[12]. Nhấn mạnh giáo huấn này của Thánh Bonaventura, Công đồng Vatican I (1870) tuyên bố rằng “Trong sự tốt lành và nhờ sức mạnh toàn năng của mình, không phải để gia tăng hạnh phúc của Ngài, cũng không phải để đạt đến sự hoàn hảo, mà để tỏ lộ qua những điều tốt lành Ngài ban cho thụ tạo, chính Thiên Chúa chân thật duy nhất này, với ý định tự do nhất, đã tạo nên từ hư vô cả hai loại thụ tạo, cả linh hồn lẫn thân xác”[13].
Do đó, khi khẳng định rằng mục đích của thụ tạo là để tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta không bảo vệ một loại chủ nghĩa vị kỷ thần thánh. Ngược lại, Thiên Chúa, có thể nói, đã bước ra khỏi chính Ngài để giao hòa và ban cho thụ tạo. Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự biểu lộ và truyền đạt tình thương của Ngài, mà vì điều này thế giới đã được tạo dựng, để “biến chúng ta thành con cái được nhận làm con nhờ Đức Giêsu Kitô. Đó là ý muốn tốt lành của Ngài nhằm ca ngợi vinh quang ân sủng của Thiên Chúa” (Ep 1, 5-6): “Vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, và sự sống của con người là nhìn thấy Thiên Chúa”[14].
Xa rời một phép biện chứng của các nguyên lý đối lập (như chủ nghĩa nhị nguyên Maniche hay chủ nghĩa duy tâm nhất nguyên của Hegel), khẳng định rằng vinh quang của Thiên Chúa là mục đích của sự sáng tạo, không phải là phủ nhận con người, mà là tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người. Chủ nghĩa lạc quan Kitô giáo bắt nguồn từ sự tôn vinh đồng thời Thiên Chúa và con người: “Con người chỉ vĩ đại khi Thiên Chúa vĩ đại”[15].
Đó là một chủ nghĩa lạc quan và một logic khẳng định ưu tiên tuyệt đối của điều thiện, nhưng không mù quáng trước sự hiện diện của cái ác trong thế giới và lịch sử. Nhưng trên hết, đó là khẳng định trung tâm của Kitô giáo: Thiên Chúa đã tạo nên mọi sự vì Đức Kitô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, và trong sự vinh quang cao cả của Người, nhân loại được nâng lên đồng thời với sự biểu lộ rực rỡ của thần tính.
3. Bản chất thời gian của sự sáng tạo và tiến hóa
Hiệu quả hành động sáng tạo của Thiên Chúa là toàn bộ thế giới được tạo dựng, “trời và đất” (St 1,1). Công đồng Latran IV (1215) nói rằng: “Thiên Chúa là “Đấng tạo dựng mọi sự hữu hình và vô hình, thuộc linh và vật chất, nhờ quyền năng toàn năng của Ngài, đã cùng một lúc tạo nên từ hư không, ngay từ lúc bắt đầu thời gian, cả hai loại thụ tạo, cả linh hồn lẫn thân xác, tức là các thiên thần và thế giới, rồi đến thụ tạo loài người gồm cả linh hồn và thân xác”[16].
Điều này có nghĩa, một mặt, như ta đã thấy, Kitô giáo vượt qua cả chủ nghĩa nhất nguyên (monisme), vốn cho rằng vật chất và tinh thần hòa làm một, rằng thực tại của Thiên Chúa và thế giới đồng nhất, và chủ nghĩa nhị nguyên (dualisme), theo đó vật chất và tinh thần là những nguyên lý đối lập căn bản.
Mặt khác, giáo huấn này khẳng định hành động sáng tạo thuộc về sự vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhưng kết quả của hành động đó mang tính thời gian. Mặc khải khẳng định thế giới được tạo dựng có một khởi đầu thời gian, tức là nó được tạo dựng cùng với thời gian, phù hợp với ý định thần linh muốn tự bày tỏ trong lịch sử cứu độ. Đây là một chân lý được mặc khải mà lý trí không thể chứng minh, như Thánh Thoma Aquinô đã dạy trong cuộc tranh luận nổi tiếng thời Trung cổ về sự vĩnh cửu của thế giới[17]. Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử bằng sự quan phòng của Ngài.
Sự sáng tạo vì thế có một điểm khởi đầu, nhưng không chỉ giới hạn ở khoảnh khắc ban đầu đó, mà còn được cấu tạo như một sự sáng tạo liên tục vì ảnh hưởng sáng tạo thần linh không hề biến mất. Sự sáng tạo được mặc khải trong Kinh Thánh như một hành động thần linh tiếp tục trong lịch sử cho đến kết thúc cuối cùng trong sự sáng tạo mới.
Chúng ta hiểu rằng không có gì xa rời hơn so với quan niệm Kitô giáo một tư tưởng bất động cho rằng mọi sự đã được định sẵn hoàn hảo ngay từ đầu. Trong một cái nhìn năng động như vậy, một số khía cạnh của thuyết tiến hóa dễ dàng được dung hòa, với điều kiện luôn phải phân biệt các cấp độ xét đến, tôn trọng phạm vi hoạt động và nhân quả thần linh, khác biệt với phạm vi hoạt động và nhân quả của các thụ tạo. Nếu nâng cao quá mức phạm vi thứ nhất mà coi nhẹ phạm vi thứ hai sẽ dẫn đến một chủ nghĩa siêu nhiên không thể chấp nhận được (như thể Thiên Chúa làm mọi việc và các thụ tạo thực chất chỉ là “con rối” trong tay Đấng chủ động duy nhất). Ngược lại, đánh giá quá cao phạm vi thứ hai mà xem nhẹ phạm vi thứ nhất dẫn đến một quan niệm cũng không đủ, cho rằng Thiên Chúa không thể tác động trong thế giới đã có sự tự túc riêng của nó.
4. Sáng tạo và cứu độ
Sáng tạo là bước đầu tiên hướng tới giao ước giữa Thiên Chúa duy nhất với dân Ngài. Trong Kinh Thánh, sáng tạo mở ra cho hành động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử, hành động này đạt đến sự viên mãn trong mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô và sẽ hoàn thành trọn vẹn vào lúc tận cùng của thời gian. Sáng tạo được thực hiện hướng đến ngày Sabbat, ngày thứ bảy mà Chúa đã nghỉ ngơi, ngày mà sự sáng tạo đầu tiên đạt đến đỉnh điểm và mở ra ngày thứ tám, ngày bắt đầu một công trình còn kỳ diệu hơn: sự Cứu chuộc, sự sáng tạo mới trong Đức Kitô (2 Cr 5,7 ).
Điều này cho thấy sự liên tục và sự thống nhất trong kế hoạch thần linh về sáng tạo và cứu chuộc. Mối quan hệ giữa hai sự kiện này có thể được diễn đạt như sau: một mặt, sáng tạo là sự kiện cứu độ đầu tiên; mặt khác, ơn cứu chuộc mang đặc tính của một sự sáng tạo mới. Mối quan hệ này soi sáng những khía cạnh quan trọng của đức tin Kitô giáo, như việc thiên nhiên được hướng về ân sủng hay sự tồn tại của một mục đích siêu nhiên duy nhất cho con người.
5. Sự thật về sáng tạo trong đời sống người Kitô hữu
Bản chất sâu sắc của hành động sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa đòi hỏi một sự đáp trả cũng mang tính toàn diện: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6,5; Lc 10,27). Đồng thời, tính phổ quát của hành động thần linh có nghĩa rộng và sâu sắc: Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc con người toàn diện, và mọi người đều được cứu độ. Đáp lại tiếng gọi yêu mến Ngài bằng toàn bộ con người, gắn liền với việc đem tình yêu ấy đến cho toàn thế giới. Vì thế, khẳng định rằng Kitô hữu là sự tràn đầy của đời sống nội tâm[18] biểu lộ một động lực tương tự của hành động thần linh, tức là cường độ của sự hiện hữu, của sự khôn ngoan và tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn trào ra các thụ tạo.
Việc nhận biết và ngưỡng mộ quyền năng, sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa dẫn con người đến thái độ kính trọng, thờ phượng và khiêm nhường, sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa với tư cách là con cái của Ngài. Ý thức rằng mọi sự được tạo dựng để tôn vinh Thiên Chúa, người Kitô hữu tìm cách sống mọi hành động nhằm mục đích cuối cùng thực sự làm cho đời mình hạnh phúc: tôn vinh Thiên Chúa, chứ không phải tôn vinh sự hư vô của riêng mình. Người ấy cố gắng điều chỉnh ý định trong các hành động để có thể nói rằng đó là mục đích duy nhất của đời mình: Deo omnis gloria! ( mọi vinh quang thuộc về Thiên Chúa!)[19].
Sự vĩ đại và vẻ đẹp của các thụ tạo đánh thức sự ngưỡng mộ nơi con người, làm phát sinh những câu hỏi về nguồn gốc và định mệnh của thế giới và con người, đồng thời mở ra cái nhìn về thực tại của Đấng Sáng Tạo. Người Kitô hữu, trong cuộc đối thoại với người không tin, có thể đặt ra những câu hỏi này để mở rộng tâm trí và trái tim cho ánh sáng của Đấng Sáng Tạo. Tương tự, trong đối thoại với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, người Kitô hữu tìm thấy trong sự sáng tạo một điểm khởi đầu rất tốt, vì đó là một chân lý được phần nào chia sẻ, đồng thời cũng là nền tảng của các giá trị đạo đức căn bản của con người.
Linh mục Giuse Phan Cảnh
ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa
------------------------------
[1] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 285.
[2] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 286.
[3] Pape François, Laudato Si, 2015, số 62-100. Pape François, Fratelli tutti, 2020, số 287.
[4] Thomas d'Aquin, De potentia, q.3, a.3, c.
[5] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 258.
[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 290.
[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 296-298.
[8] Augustin d'Hippone, Confessions, 3, 6, 11. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Số 300.
[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 299.
[10] Benoît XVI, Homélie, 23 avril 2011.
[11] Jean-Paul II, Dominum et vivificantem,1986, số 10.
[12] Bonaventure, Super Sent., lib.2, d.1, q.2, a.2, ad 1.
[13] Công đồng Vaticano I, DS 3002; Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 293.
[14] Irénée de Lyon, Adversus haereses, 4, 20, 7.
[15] Benoît XVI, Homélie, 15-08-2005.
[16] Công đồng Latran IV, Ds 800.
[17] Thomas d'Aquin, De aeternitate mundi ; Contra Gentiles, II, cc. 31-38.
[18] Josémaria Escrivá, Chemin,n° 961.
[19] Josémaria Escrivá, Chemin, n° 780 ; Sillon, n° 647 ; Forge, n° 611, 639, 1051.