Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: Thần học về thân xác – Phần Giới thiệu

21/01/2024
1805

 


WHĐ (21.01.2024) – Tác phẩm “Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh” là một Thần học về Thân xác của Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Ngài đã nói “con người trở thành ‘hình ảnh và họa ảnh’ của Thiên Chúa không chỉ bởi nhân tính của mình nhưng còn nhờ sự hiệp thông các ngôi vị giữa người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu”. Một tiếp cận mới thuyết phục về vấn đề tính dục con người và đạo đức tính dục. Có người đã nói đức Gioan-Phaolô II là nhà cách mạng tính dục lảm đảo lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỉ vừa qua, đổi hướng qui nó về Nguồn và Cùng đích thật của nó.

Xin được gửi đến quý độc giả bản dịch Việt ngữ của Đức Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn về tác phẩm này.

* * *

GIOAN PHAOLÔ II

THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC
TÌNH YÊU PHÀM NHÂN TRONG KẾ HOẠCH THẦN LINH

Sự cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân trong các huấn giáo ngày thứ Tư (1979-1984)

 

PHẦN GIỚI THIỆU:
CÁC NÉT CHÍNH CỦA THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC

Chuyển ngữ: Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn

 

Mục lục

GIỚI THIỆU

DẪN NHẬP

I. CÁC KINH NGHIỆM NHÂN BẢN NGUYÊN THỦY

     1. Sự đơn độc nguyên thủy: khám phá đầu tiên về “ngã vị tính”

     2. Sự hợp nhất nguyên thủy: hiệp thông các ngôi vị

     3. Sự trần truồng nguyên thủy: Chìa khóa để hiểu kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa

II. CÁC PHẨM CHẤT CỦA THÂN XÁC NHÂN VỊ

     1. Thân xác con người có tính «biểu tượng»

     2. Thân xác con người có tính hợp hôn

     3. Thân xác con người thì tự do, nhưng đồng thời cũng trong tình trạng sa ngã

     4. Thân xác con người được cứu chuộc

GIỚI THIỆU

Có thể nói không quá đáng rằng thế kỉ XX đã tự loại trừ nền đạo đức tính dục Kitô giáo. Thế kỉ XXI, nếu muốn xây dựng cuộc sống có văn hóa người ta cần phải nhìn nhận lại nền đạo đức tính dục này. Thế nhưng, cách tiếp cận cũ sẽ không thuyết phục được con người thế kỉ này. Chúng ta cần một lối nhìn thần học mới mẻ hay một suy tư theo cách thế mới, để lí giải đạo đức tính dục của Giáo hội.

Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, trong triều Giáo hoàng của ngài đã có 129 bài nói chuyện giáo lí ngày thứ tư hàng tuần từ 9.1979 đến 11.1984 về tính dục-tình yêu-hôn nhân-gia đình, tất cả đã tổng hợp nên thành một thứ thần học mới về thân xác. Có người đã nói đức Gioan-Phaolô II là nhà cách mạng tính dục làm đảo lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỉ vừa qua, đổi hướng qui nó về Nguồn và Cùng Đích của nó.

Đức Giáo hoàng nói: “Thân xác và chỉ có thân xác mà thôi mới có thể làm cho những gì là vô hình, thiêng liêng và thần linh trở thành hữu hình. Thân xác được tạo dựng nên để chuyển thông vào thực tại hữu hình của thế giới này mầu nhiệm vô hình ẩn giấu nơi Thiên Chúa tự muôn thuở, và như thế nó trở thành một dấu chỉ của thực tại vô hình kia” (20.2.1980). Điều đó có nghĩa là gì? Chúng ta, những kẻ mang xác phàm tội lụy này làm sao có thể thấy được Thiên Chúa vốn thuần linh? Thế nhưng Thiên Chúa đã muốn làm cho Mầu nhiệm của Ngài trở nên thấy được đối với chúng ta, nên Ngài đã ghi dấu nó vào trong thân xác chúng ta bằng cách tạo dựng chúng ta có nam có nữ theo hình ảnh của Ngài (St 1,27). Nhiệm vụ của hình ảnh này là phản chiếu Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là “sự Hiệp Thông thần linh khôn dò của các Ngôi Vị...” (14.11.1979). Bởi thế, Đức Giáo hoàng mới kết luận rằng «con người trở thành “hình ảnh và họa ảnh” của Thiên Chúa không chỉ bởi nhân tính của mình nhưng còn nhờ sự hiệp thông các ngôi vị giữa người nam và người nữ ngay từ thuở ban đầu». Và ngài còn nói thêm: «Ngay từ “thuở ban đầu” Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lành của phong nhiêu gắn liền với sự sinh sản, trên tất cả những điều đó (x. St 1,28)».

Thân xác có “ý nghĩa hợp hôn” bởi lẽ nó mạc khải ơn gọi của người đàn ông và người đàn bà trở nên tặng phẩm cho nhau, một tặng phẩm được thực hiện trọn vẹn trong sự kết hợp nên “một xương một thịt”. Thân xác cũng có ý nghĩa sinh sản bởi có thể cho chào đời một “kẻ thứ ba” nhờ mối thông hiệp ấy. Theo nghĩa đó, hôn nhân là một “bí tích nguyên thủy” hiểu như là một dấu chỉ thông ban thực sự mầu nhiệm sự sống và tình yêu của Ba ngôi Thiên Chúa cho người chồng và người vợ, và qua họ cho con cái, và qua gia đình họ cho thế giới.

Linh đạo của hôn nhân hệ tại ở điều này, đó là tham dự vào đời sống và tình yêu của Thiên Chúa và từ đó chia sẻ cho thế giới. Ơn gọi này thật cao trọng nhưng không ở cao siêu trên chín tầng trời mà phải chạm thấy được. Vì Tình yêu Thiên Chúa là để cho vợ chồng, cho gia đình sống và cảm nhận trong chính cuộc sống hằng ngày bằng cách sống sao cho phù hợp với toàn thể sự thật của thân xác.

Học hỏi thần học về thân xác là điều cốt yếu của linh đạo hôn nhân. Học để sống, không phải để trở nên thiêng liêng hơn cho bằng là để trở nên nhập thể hơn nữa, làm sao để cho Thần Khí Chúa thấm nhập sự sống thần linh vào xác thân chúng ta.

Vì tính quan trọng nền tảng của giáo huấn này của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II được mệnh danh là Đức Giáo hoàng của Gia đình, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu những bài giáo lí của ngài, được chuyển dịch từ tác phẩm bằng tiếng Ý “Uomo e Donna lo crèo – catechesi sull’amore” (NXB. Città nuova Editrice – Libreria Editrice Vaticana - xuất bản lần thứ V năm 2001) và tham khảo quyển “L’Amore Umano nel Piano Divino” (a cura di Gilfredo Marengo, NXB. Libreria Editrice Vaticana, và Pontificio Istituto Giovanni Paolo II per studi su Matrimonio e Famiglia, 2009).

Sau đây, xin giới thiệu tóm tắt các nét chính của Thần học về Thân xác:

THẦN HỌC VỀ THÂN XÁC

DẪN NHẬP

Tính dục là một chiều kích quan trọng và mầu nhiệm của đời sống chúng ta. Xem ra trong cuộc sống xã hội và văn hóa ngày nay, tính dục bị lạm dụng chỉ để phục vụ cho sự tìm kiếm khoái lạc ích kỉ. Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã trả lời cách tuyệt vời cho hoàn cảnh mới đó của ngày hôm nay. Ngài đã đặt tính dục trở lại trong bối cảnh sâu rộng hơn của thần học về thân xác.

Chỉ dưới ánh sáng của các kinh nghiệm nhân bản nguyên thủy và các phẩm chất đích thật của thân xác con người, chúng ta mới hi vọng hiểu được ý nghĩa và giá trị của tính dục, cùng các hành động gắn liền với nó. Nếu bị bứng khỏi bối cảnh đích thực của nó, tức trong tương quan lành mạnh, bền vững và trên cơ sở một sự dấn thân nào đó, tính dục sẽ chỉ còn là một thứ đồ chơi đơn thuần.

I. CÁC KINH NGHIỆM NHÂN BẢN NGUYÊN THỦY

Dựa trên hai chương đầu của sách Sáng thế, đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đưa ra ánh sáng ba kinh nghiệm nguyên thủy của con người trước cả tội nguyên tổ, là: «sự đơn độc nguyên thủy», «sự hợp nhất nguyên thủy», «sự trần truồng nguyên thủy». Nhưng điều quan trọng phải nói ngay là: con người lịch sử chúng ta cũng có thể có được những kinh nghiệm này, chính vì Đức Kitô đã ban cho chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm gắn liền với tội nguyên tổ xem ra quen thuộc với chúng ta hơn, vì chúng ta đã phạm tội và vẫn còn phạm tội và nhiều thiếu sót.

Thế nhưng, qua Thần học về thân xác đức Gioan-Phaolô II giúp ta hiểu rằng chúng ta có thể có được một kinh nghiệm tích cực về sự đơn độc, về sự hợp nhất, về sự trần truồng. Đó là điều Đức Kitô ước muốn cho chúng ta. Người muốn chúng ta trở về lại với cái “thuở ban đầu”, để có thể khám phá ra ý nghĩa đích thật của thân xác và tính dục con người, tức ý nghĩa của sự sống.

1. Sự đơn độc nguyên thủy: khám phá đầu tiên về “ngã vị tính”

Trong trình thuật Sáng thế chương 2, từ câu 4 đến câu 25, từ «Thiên Chúa» được dẫn ra sáu lần như muốn nói rằng con người có khả năng nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa và con người sống trong tương quan thân tình như bằng hữu, trong gia đình. Hơn nữa, con người cũng khác các thọ tạo khác trong vườn Êđen, được giao trách nhiệm đặc biệt: Thiên Chúa dẫn các loài vật đến trước con người để họ đặt tên, nghĩa là con người biết và thống trị muôn loài. Tuy nhiên, con người thấy không có một “ai” trong các loài đó có thân xác khả dĩ giống như hay tương xứng với mình. Con người hiểu rằng mình có một thân xác như mọi loài thọ tạo quanh mình, nhưng thân xác ấy khác với xác thể muôn loài.

Sự đơn độc nguyên thủy của con người mang hai nghĩa.

Thứ nhất, con người cô độc trước Thiên Chúa, hay độc đáo trước mặt Thiên Chúa. Mối tương quan của con người với Chúa là duy nhất. Con người cũng được Thiên Chúa tạo dựng như các loài khác, nhưng chỉ con người mới có thể “nghe” và “nói chuyện” với Ngài. Chúng ta đứng trước nhan Ngài, mỗi người một cách duy nhất hiện diện trước mặt Ngài. Khác với muôn loài, chúng ta có thể quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, đối thoại với Ngài. Nhờ “sinh khí” của Thiên Chúa[1] thổi vào, con người có thể nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, trần thế và chính mình. Một số loài vật cũng có khả năng nhận biết trong chừng mực nào đó, như những con vật cưng như chó nuôi trong nhà chẳng hạn, nhưng rất giới hạn. Còn con người, với tư cách là người, chúng ta biết được rằng mình biết, tức là ta có ý thức rằng mình biết, chúng ta có khả năng suy tư trên các sự kiện và ý nghĩa của chúng. Chính từ đó, con người ý thức mình tự phát triển như những ngã vị (persons). Con người “cô đơn” vì con người là thọ tạo có xác thân duy nhất được tạo dựng theo hình ảnh, họa ảnh của Thiên Chúa.[2] Con người thì “cô đơn” trong thế giới hữu hình này, xét như vì mình là một ngã vị. Khi Ađam (con người) đặt tên cho các loài vật, ông cũng khám phá ra “tên” của mình, khám phá ra căn tính của mình. Ông đã đi tìm một “trợ tá”, nhưng không tìm ra được “ai” cả trong số các loài vật mà ông đặt tên.[3] Con người thì khác với các con vật. Nhưng khác ở chỗ nào? Nói cách vắn tắt, đó chính là tự do. Con người không xác định mình bởi yếu tố bản năng thân xác. Con người được tạo dựng từ “bụi đất” như các loài vật (con người có xác), nhưng họ cũng có “sinh khí” làm cho họ trở nên một sinh vật. Một xác có sinh khí không chỉ là một thân xác nhưng là một “ai đó”. Một người thì có thể chọn lựa tự do làm gì tùy ý đối với thân xác mình. Loài chỉ là bụi đất thì không thể làm được như vậy. Tự do được ban cho con người để biết yêu thương. Tự do ấy có thể dẫn tới hủy diệt và chia rẽ, thế nhưng nó có là để ban trao sự sống và tạo lập tình hiệp nhất. Nó là chọn lựa của chúng ta.

Thứ hai, ý nghĩa của sự đơn độc nguyên thủy của con người còn được hiểu như là cá nhân từng con người là độc đáo nhưng còn có cái gì đó chưa ổn.  “Con người ở một mình thì không tốt”.[4] Chính Thiên Chúa thấy điều đó trước hết. Con người cần một “trợ tá” tương xứng với mình để có thể “biết” mình đầy đủ hơn. Con người không là một vật nhưng là một chủ thể sống tương quan. Là một chủ thể liên vị, nhận thấy rằng mình không giống các loài vật vì mình được mời gọi bước vào một “giao ước tình yêu” với chính Thiên Chúa. Chính mối quan hệ tình yêu với Chúa đó xác định sự “đơn độc” của Ađam hơn bất cứ điều gì khác. Khi nếm vị ngọt tình yêu ấy, Ađam cũng ước mong toàn thể con người mình được cùng sẻ chia giao ước tình yêu này với một ngã vị khác giống như mình vậy. Đó là lý do tại sao “con người ở một mình thì không tốt”. Bởi thế, từ trong nỗi cô đơn của mình, con người đã khám phá ra được ơn gọi hai mặt của mình: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận.[5] Sự đơn độc là khám phá đầu tiên của ngã vị tính mà tương quan là một yếu tố cấu thành của nó. Là tinh thần, nhưng ngã vị lại được “kinh nghiệm” nơi thân xác. Như đức Gioan-Phaolô nói «thân xác diễn tả ngã vị (con người)»[6].

2. Sự hợp nhất nguyên thủy: hiệp thông các ngôi vị

Thấy “con người ở một mình không tốt”, Thiên Chúa ra tay. Ngài cho Ađam đi vào một giấc ngủ mê, và tạo dựng nên Eva, người đàn bà, từ chiếc xương sườn của ông. Tỉnh dậy, Ađam khám phá một “ai đó” mới lạ vừa giống vừa khác bên cạnh mình, và kêu lên thảng thốt: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”,[7] biểu lộ sự kinh ngạc tột cùng và say mê.

Ađam bị mê hoặc bởi xác thân của nàng, bởi lẽ, như đức Giáo hoàng cho thấy, cái “phen này” là một thân xác biểu lộ một con người ngã vị. Mọi con vật ông đã đặt tên là những thân xác, nhưng không phải là nhân vị. Trong tiếng Hípri, “thịt” và “xương” (basar) chỉ toàn thể con người. Bởi thế, việc tạo dựng người nữ từ một trong những chiếc xương của người nam là cách diễn tả bóng bẩy của sự kiện cả hai tham dự cùng một nhân tính. Cả hai đều là những nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Cả hai “đơn độc” trong thế giới theo nghĩa họ khác biệt với các loài vật (sự đơn độc nguyên thủy). Cả hai được kêu gọi để sống trong một giao ước tình yêu. «Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt».[8] Kinh nghiệm kết hợp này giúp con người chiến thắng nỗi cô đơn. Sự kết hợp nên “một xương một thịt” nơi con người thuộc một thế giới khác hẳn với sự giao cấu của các loài vật. Vậy sự khác biệt chủ yếu ở điểm nào? Phải nói là, trông bên ngoài tức chỉ nhìn trên bình diện sinh học, thì hai bên giống nhau, thế nhưng sự kết hợp tình dục nơi con người không chỉ là một thực tại sinh học. Đó còn là một thực tại tâm linh và thần học. Thân xác con người là để mạc khải và thông dự vào huyền nhiệm tình yêu thần linh. «Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần»[9]. Loài vật không có khả năng «hiệp thông tinh thần» này vì chúng không phải loài thuộc linh (spiritual). Phận “cát bụi” hay vật chất của loài vật không được “thần hứng” (in-spired) nghĩa là không có hơi thở Thần Khí. Chúng không được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa.

Kết hợp nên “một xác thịt” không chỉ muốn nói đến sự giao cấu của hai thân xác (như các loài vật) nhưng là «một biểu lộ ‘bí tích’ của sự hiệp thông các ngôi vị»[10]. Thân xác con người là bí tích. Thân xác con người khiến mầu nhiệm Thiên Chúa vô hình, Đấng là chính sự Hiệp Thông các Ngôi Vị (Cha, Con, và Thánh Thần) và bản thể Ngài là Tình Yêu, trở nên hữu hình. Thiên Chúa không thể ban cho ái tình một mục đích và một phẩm giá nào cao cả hơn thế. Sự kết hợp vợ chồng nhằm một cách nào đó trở thành biểu tượng của đời sống nội tại Ba Ngôi Thiên Chúa! Nếu chúng ta mà hiểu được chân lí độc đáo này và suy tư về điều ấy, chúng ta sẽ không bao giờ nhìn tính dục con người theo cùng một cung cách như trước. Xin hãy nhớ rằng: Thiên Chúa không bị phân giới tính. Hình bóng ở thế gian thì mờ nhạt so với những thực tại trên trời. Thế nhưng, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta lại có giới tính và kêu gọi ta đi vào hiệp thông để nên như là một mạc khải đệ nhất, theo nghĩa nguyên thủy và căn bản, cho mầu nhiệm riêng Người, ở trong thế giới tạo thành này. Đây chính là điều mà đức Giáo hoàng muốn nói khi ngài mô tả hôn nhân  như là «bí tích đệ nhất». Toàn thể thực tại đời sống hôn nhân dĩ nhiên là một bí tích. Nhưng “mầu nhiệm cao cả” này không nơi nào thể hiện rõ ràng hơn khi hai người vợ và chồng nên một “xác thịt”.

3. Sự trần truồng nguyên thủy: Chìa khóa để hiểu kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa

Sau khi mô tả sự kết hợp của đôi vợ chồng đầu tiên, ta đọc thấy bản văn sáng thế nói, «con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau».[11] Đức Giáo hoàng nói trong số tất cả các đoạn văn về các câu chuyện tạo dựng đây «chính là chiếc chìa khóa» để hiểu kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về cuộc sống con người. Quả là một lời khẳng định bạo dạn. Nói cách vắn tắt, nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của câu St 2,25, chúng ta sẽ không hiểu việc chúng ta được tạo dựng nên như là người nam và người nữ có ý nghĩa như thế nào. Chúng ta sẽ không hiểu chính bản thân mình cũng như không hiểu ý nghĩa của cuộc sống.

Một người phụ nữ cảm thấy không cần phải che thân thể mình khi tắm rửa một mình trong phòng tắm. Nhưng nếu có một người đàn ông lạ đột nhiên đi vào nhà tắm, cô ta sẽ thấy xấu hổ. Tại sao vậy? “Xấu hổ” theo nghĩa này, như đức Giáo hoàng giải thích, là hình thức tự bảo vệ không để mình bị biến thành một đồ vật thỏa mãn khoái cảm dục tính cho ai khác. Trường hợp của người phụ nữ này chẳng hạn, cô ấy biết rằng mình không bao giờ muốn để bị đối xử như một “đồ vật” ai muốn đá tưng đi đâu thì đá. Kinh nghiệm dạy cho nàng biết rằng những người đàn ông (do lòng thèm muốn bởi tội nguyên tổ mà ra) thường có xu hướng đối xử với thân xác người phụ nữ như một đồ vật. Bởi thế, người phụ nữ che thân thể mình lại không phải vì nó “xấu” hay “đáng xấu hổ”. Nàng che mình lại để bảo vệ phẩm giá của mình không bị xúc phạm bởi một “ánh mắt đầy dục vọng” của kẻ xa lạ - một ánh nhìn thiếu tôn trọng phẩm giá ngôi vị do Thiên Chúa ban. Ngược lại, trong tình trạng vô tội nguyên thủy Ađam và Evà có kinh nghiệm về sự trần truồng mà không biết xấu hổ. Khi ấy dục vọng (sự thèm muốn dục tình tự tìm kiếm thỏa mãn) chưa lẻn vào tâm hồn con người. Bởi thế, hai ông bà tổ tông của chúng ta dẫu trần truồng cũng cảm thấy không có cái phản vệ khi đứng trước mặt người khác, bởi lẽ cái nhìn của người kia hoàn toàn không chút đe dọa đến phẩm giá của mình. Đức Giáo hoàng diễn tả cách thơ mộng, họ «nhìn nhau và thấu hiểu nhau… với ánh mắt tâm hồn tràn đầy bình an»[12]. “Ánh mắt tâm hồn” này không chỉ là cái nhìn của một thân xác thuần túy nhưng là cái nhìn của một xác thân con người biểu lộ ra một tâm hồn mầu nhiệm. Họ nhìn thấy ý định yêu thương của Thiên Chúa khắc ghi trong xác thân trần truồng của họ và đó chính là điều mà họ khát vọng – đó là yêu thương như Thiên Chúa yêu thương trong và qua thân xác của họ. Và như thế trong tình yêu không hề có sự sợ hãi (xấu hổ). «Tình yêu hoàn hảo loại trừ mọi sợ hãi».[13] Đó là lý do ta hiểu tại sao «trần truồng mà không xấu hổ» là chiếc chìa khóa để hiểu kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc sống của chúng ta. Vì nó mạc khải chân lý nguyên thủy của tình yêu. Hiểu thấu đáo hơn nữa điều này, ta thấy rằng “thuở ban đầu” Thiên Chúa đã tạo dựng khát vọng tính dục như là chính sức mạnh để yêu thương như Ngài yêu thương, bằng cách trao ban chính mình trong sự tự do, chân thành và toàn vẹn. Đó là điều mà đôi vợ chồng đã kinh nghiệm như được mô tả trong sách Sáng thế. Khát vọng tính dục khi ấy không được sống như một xung năng hay bản năng nhằm tìm sự thỏa mãn ích kỉ của con người.

Vì người đàn ông và người đàn bà đầu tiên “hoàn toàn được phủ đầy” bởi tình yêu Thiên Chúa, nên họ hoàn toàn tự do và trở thành tặng phẩm cho nhau. Họ «tự do bởi chính cái tự do của tặng phẩm trao hiến» như đức Giáo hoàng đã nói[14]. Chỉ có người tự do không bị nô lệ cho những xung năng của dục vọng mới có thể trở nên một “tặng phẩm” thực sự cho người khác. «Tự do của tặng phẩm» bấy giờ trở thành tự do để chúc lành, là tự do không bị khống chế của xung năng (hay sự thúc bách) của tham lam chiếm hữu. Chính sự tự do này giúp đôi vợ chồng đầu tiên «trần truồng mà không thấy xấu hổ». Họ như được tham dự vào cái nhìn đó của Thiên Chúa. Họ biết sự thiện hảo của họ. Họ biết kế hoạch yêu thương tuyệt vời của Thiên Chúa. Họ thấy kế hoạch đó được ghi tạc trong thân xác của họ và họ kinh nghiệm nó nơi khát vọng của họ hướng về nhau.

Chúng ta đã đánh mất cái nhìn tuyệt vời này khi tội lỗi xuất hiện. Nhưng ta đừng quên «Đức Giêsu đã đến trả lại cho thụ tạo tình trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng»[15]. Điều này sẽ chưa nên trọn cho tới khi Nước Trời đến, tuy nhiên qua ơn cứu chuộc, chúng ta có thể bắt đầu phục hồi điều đã mất ngay từ đời này.

II. CÁC PHẨM CHẤT CỦA THÂN XÁC NHÂN VỊ

Khi chúng ta để mình bước vào các kinh nghiệm nguyên thủy đó, chúng ta bắt đầu hiểu sâu hơn ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa của thân xác và ý nghĩa của các mối tương quan nhân vị. Nếu chấp nhận sống cách nào đó sự đơn độc, sự hợp nhất và sự trần truồng nguyên thủy, ta có thể hiểu thân xác con người vốn có tính biểu tượng, có tính hôn phối và tự do như thế nào.

1. Thân xác con người có tính «biểu tượng»

Từ kinh nghiệm đơn độc nguyên thủy, con người nhận thấy mình vừa là thành phần của thế giới tạo thành này vừa vượt lên trên thế giới. Như muôn loài, con người có một thân xác, con người là “xác đất vật hèn”. Nhưng thân xác chúng ta thì khác, vì còn có cái gì đó trong ta còn hơn thân xác vật hèn này. Chúng ta có khả năng tư duy khác các loài vật. Chúng ta có thể hướng về Thiên Chúa và thông giao với Ngài, còn các loài vật thì không thể. Chúng ta có thể nhận biết và yêu thương, đi vào quan hệ thân tình với Thiên Chúa. Hơn nữa, con người có thể thiết lập quan hệ thân mật với nhau. Như thế, chúng ta là một hữu thể hợp nhất, kết hợp cái hữu hình và cái vô hình. Chính bởi đó chúng ta đã lãnh nhận sứ mạng đặc biệt đặt tên cho các loài. Hai mặt này, hữu hình và vô hình, không tách biệt nhau nơi chúng ta. Có thể nói, chúng được “ráp lại với nhau” nơi chúng ta. Đó là ý nghĩa của chữ «biểu tượng» (symbol) trong nguyên gốc tiếng Hi lạp. Hai chiều kích thấy được và không thấy được này tồn tại và tạo nên một nhân vị. Như vậy, khi nói thân xác con người có tính chất biểu tượng, là ta muốn nói thân xác ấy còn là gì hơn nữa, không chỉ là vật chất thấp hèn. Thân xác con người là vật mang hay người vác cái vô hình. Đó chính là vai trò của một biểu tượng, nghĩa là: làm cho cái vô hình hiện diện, trở nên hữu hình. Biểu tượng là một thực tại hữu hình, nhưng nó hướng ngay sự chú ý của ta đến một sự vô hình nhưng rất thực (thực tại vô hình). Biểu tượng kết hợp thế giới hữu hình và thế giới vô hình lại thành một thực thể duy nhất. Như thế biểu tượng thì hoàn toàn tự nhiên chứ không nhân tạo.

Nói thân xác con người có tính biểu tượng tức là nói nó có đặc tính đưa trả về thế giới bên kia thân xác. Thân xác thì hữu hình và khía cạnh thể lí và vật chất của nó có một ý nghĩa và một nội dung chắc chắn nào đó. Thân xác vật lí hữu hình của con người hướng đến bờ bến thiêng liêng và vô hình bên kia của nhân vị. Khi ta nghĩ đến một người bạn, ta không chỉ nghĩ đến thân xác người bạn ấy, mà nghĩ đến chính người ấy, đến cá tính người ấy, đến khả năng trí tuệ tinh thần của người ấy, .... Nói cách khác, ta nghĩ đến thực tại thiêng liêng và vô hình của người ấy. Linh hồn là chiều kích sâu xa nhất của con người, là cái nguyên lí thiêng liêng của con người. Nó là cội nguồn của sự thống nhất hữu thể nơi ta. Nói thân xác con người có tính biểu tượng, có nghĩa là nói có một nguyên lí sự sống trong ngã vị của ta không thấy được. Chúng ta khác các con vật ở chỗ đó. Chúng ta sống trong thế giới biểu tượng, còn con vật chỉ sống trong thế giới thực chứ không sống trong thế giới biểu tượng. Con vật có xác nhưng chúng không một có linh hồn thiêng liêng như ta. Con người vừa hữu hình vừa vô hình, và chúng ta kết hợp hai chiều kích này trong cách ta tư duy, trong hành động và trong lời nói của ta, nói tắt là, trong toàn thể đời sống của ta. Con người là một «ngã-vị-với-xác-thân» (body-person). Thân xác thì ở trong thời gian và không gian, linh hồn thì ở trong vĩnh cửu. Chúng ta sống trong cả hai thế giới này. Đó là nét đặc thù của riêng chúng ta xét như là con người.

Chúng ta hằng ngày sống trong thế giới biểu tượng nhưng ít khi ý thức và suy nghĩ về điều đó. Thử xét việc sống thường xuyên nhờ các giác quan, tất cả chúng đều mang một ý nghĩa thể lí lẫn thiêng liêng hay tinh thần. Xúc giác, chẳng hạn, rất quan trọng để hoàn thành các nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày. Không có nó ta không thể lái xe được. Nhưng cũng nhờ nó chúng ta mới có thể trao đổi tình cảm yêu thương. Những người yêu âu yếm nhau, người mẹ vuốt ve nựng con thơ đều nhờ xúc giác. Sờ chạm vuốt ve của xúc giác biểu thị tình yêu: khi một người xúc chạm một ai khác truyền cảm xúc của tình yêu, thì xảy ra một cái gì đó vô hình nhưng rất thực. Tình cảm được chuyển tải qua xúc giác. Nhờ thính giác, tai ta nghe những thanh âm ý nghĩa bởi trong thâm tâm ta quan tâm và chú ý những gì “người kia” muốn nói với ta. Đó cũng là một biểu tượng của tình yêu. Tính biểu tượng của cõi nhân gian lộ rõ hơn nữa bởi mặt kia của sự cô đơn nguyên thủy. Ađam không thấy có ai trong vô số loài trong tạo thành của Chúa mà thân xác giống như của mình. Ông không thể tạo lập được giao tiếp xã hội với chúng, mà chỉ có Eva. Cái khác biệt này là một cách khác nữa cho Ađam kinh nghiệm bản tính biểu tượng của xác thân con người. Thân xác các loài vật cũng là thân xác, nhưng chúng không thể là biểu tượng như thân xác của con người vốn làm hiện diện toàn thể ngã vị, cả phần hữu hình lẫn vô hình.

2. Thân xác con người có tính hợp hôn

Ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông hiểu có cái gì khác biệt ở đây. Một thân xác con người khác đang có đó sẵn sàng thiết lập cùng ông một mối quan hệ thân mật. Nàng là một bổ túc cho ông. Điều đó có nghĩa là họ có thể trở nên «một».

Thân xác đàn ông và thân xác đàn bà khác biệt nhau. Đàn ông thì cường tráng, có sức vóc mạnh mẽ hơn. Cơ thể phụ nữ thì mỏng manh, mềm yếu hơn. Họ cũng khác biệt về tính dục. Cơ quan sinh dục của đàn ông thì ở ngoài, trong khi của phụ nữ thì ở trong. Chúng được tạo dựng để dành cho nhau. Đàn ông đi vào trong cơ thể của đàn bà, đàn bà thì tiếp nhận ông. Họ nên «một xương một thịt». Khi nói thân xác con người có tính hợp hôn, đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô muốn nói rằng chúng được tạo dựng nên cho tình yêu, để sống tương giao. Đó là một hệ luận của bản tính biểu tượng của thân xác con người. Đàn ông và đàn bà hấp dẫn lẫn nhau. Có hấp dẫn thể xác bên ngoài mà cũng có hấp dẫn tinh thần từ bên trong. Họ kết hôn và hợp hoan nên một. Hành động ấy vừa thuộc thể xác vừa thuộc tinh thần, bởi thân xác con người có tính biểu tượng. Như vậy, khi vợ chồng giao hoan, họ làm thế trong tư thế của thụ tạo mang tính biểu tượng. Họ âu yếm trên da thịt, trao đổi với nhau những lời yêu thương, bằng cách ấy họ thông truyền tình yêu  cho nhau. Như thế, giao hoan là một hành động vừa tuyệt diệu vừa mầu nhiệm. Đó không phải là một thứ “thể thao ngẫu hứng trong nhà”. Vì xác thân con người có tính biểu tượng và hôn phối, cho nên khi một người đàn ông và một người đàn bà diễn tả tình yêu của họ trong quan hệ tình dục, đó là họ thông giao, tức là trao đổi với nhau. Nói cách khác, thân xác con người có một ngôn ngữ, quả thật, đó là ngôn ngữ của tính dục. Như đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô nói, tính dục là một dạng ngôn ngữ hoàn toàn độc đáo. Tính dục là ngôn ngữ của thân xác.

Trong tình trạng trần truồng của mình, người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên đã khám phá ra điều mà Đức Giáo hoàng gọi là «ý nghĩa hợp hôn của thân xác». Tình yêu hôn nhân là tình yêu hiến thân trọn vẹn.  Bởi thế, ý nghĩa hôn phối của thân xác là «khả năng diễn tả tình yêu: là chính tình yêu mà trong đó ngã vị trở thành một tặng phẩm và – nhờ tặng phẩm ấy – con người thực hiện trọn vẹn chính ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của mình»[16]. Sự khác biệt giới tính tỏ lộ một kế hoạch không thể lầm lẫn của Thiên Chúa trong đó thân xác của người nam và người nữ có ý nghĩa là tặng phẩm dành cho nhau. Nhưng không chỉ có thế, việc họ dâng hiến cho nhau, theo tiến trình bình thường tự nhiên, sẽ dẫn đến một “kẻ thứ ba”. Như đức Gioan-Phaolô II đã diễn tả, hành động «biết» dẫn đến sinh sản: «Ađam biết vợ mình và sau đó bà đã mang thai».[17] Việc làm cha và làm mẹ là chóp đỉnh và đồng thời mạc khải trọn vẹn mầu nhiệm của tính dục. Chỉ thị đầu tiên của Thiên Chúa trong Sáng thế là «Hãy sinh sôi nảy nở».[18] Đó không chỉ là một mệnh lệnh truyền sinh, nhưng còn là tiếng gọi hãy yêu thương theo hình ảnh của Thiên Chúa và như thế «làm cho chính ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của chúng ta nên trọn vẹn».

3. Thân xác con người thì tự do, nhưng đồng thời cũng trong tình trạng sa ngã

Trước khi phạm tội, thân xác con người hay nhân vị vốn tự do, nghĩa là không bị nô lệ cho tội lỗi cùng những dục vọng của nó. Tự do ấy của thân xác là sự tự do của tặng phẩm dành trao hiến cho nhau, như đã nói trên đây, và là nền tảng cần thiết để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Không có tự do, người nam và người nữ không thể trao ban cũng không thể đón nhận tình yêu.

Thế nhưng, thân xác của con người đã bị tội lỗi làm ảnh hưởng. Thân xác không là nguyên nhân của tội. Nhưng vì chúng ta là hữu thể thống nhất của hồn và xác, và tội lỗi xuất phát từ sự lạm dụng tự do vốn thuộc lãnh vực tâm linh, nên thân xác bị ảnh hưởng.

Hậu quả đầu tiên của tội nguyên tổ là cái chết. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để chết. Sự chết không có ý nghĩa gì cả. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Ngài muốn chúng ta được sống, và sống viên mãn. Như sách Khôn Ngoan đã viết: «Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Vì Người đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu».[19] Một hậu quả khác của tội nguyên tổ là dục tình dâm loạn. Một người đàn ông có thể đem lòng thèm muốn một người đàn bà. Người ấy có thể chỉ xem người đàn bà như một món đồ chơi để thỏa khoái lạc dục vọng trong chốc lát, rồi bỏ. Có thể người ấy nhìn một người phụ nữ chỉ ở vẻ đẹp thể chất với ánh mắt nhục cảm, mà không chạm tới ngã vị vốn vô hình của một chủ thể. Nói cách khác, tội lỗi ngăn trở chúng ta hiểu thân xác con người thuộc phạm trù biểu tượng. Ta có thể thấy rất nhiều thí dụ minh họa cho cái nhìn phiếm diện nô lệ đó trong thế giới ngày nay. Truyền hình, báo chí, các trang mạng toàn cầu rao rảo phơi bày bao nhiêu hình ảnh – nhất là của phụ nữ – tôn vinh chỉ duy chiều kích thể lí của xác thân con người. Chúng phản bội sự thật của nhân vị.

4. Thân xác con người được cứu chuộc

Nhưng tất cả không bị đánh mất. Đức Kitô, nhờ cái chết và sự phục sinh của Người, khôi phục lại cho chúng ta ý nghĩa của cuộc sống và thân xác con người. Thân xác Người đã bị đóng đinh. Bởi cái chết thể lí của Người, thân xác chúng ta được «phục hồi». Thân mình Người bị ngọn giáo đâm thấu tim, từ đó máu và nước tuôn trào thành «nguồn mạch cho đời sống bí tích trong Hội thánh». Sau phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và cho họ chạm đến thân thể Người. Các Tông đồ gặp gỡ Đấng Phục sinh, còn Thánh Thomas thì được chạm ngón tay vào cạnh sườn Người. Kinh nghiệm thể lí đó đưa ngài đến đức tin.

Thật ra, sau cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, cuộc sống của chúng ta trở nên còn tốt hơn cả lúc nguyên tổ chưa phạm tội. Từ nay, Thiên Chúa đã bước vào lịch sử. Chúa Cha đã sai Con mình đến trần gian. Thiên Chúa siêu việt và vô hình đã trở nên hữu hình. Hơn nữa, vì Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể, giờ đây ta có thể sờ chạm, nếm hưởng, cảm nghe được tiếng Ngài. Thật tuyệt diệu đến không thể tin được! Tội lỗi của chúng ta  được tẩy sạch, cuộc sống của chúng ta được khôi phục lại và chúng ta được nâng lên sống một đời sống mới với Đức Kitô.

Tóm lại, khởi đi từ các kinh nghiệm nguyên thủy và kinh nghiệm tội nguyên tổ, chúng ta có thể hiểu được rằng thân xác con người vốn có tính biểu tượng và hôn phối, thân xác ấy vốn tự do nhưng là một thân xác đã ở trong tình trạng sa ngã nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc. Thân xác làm cho toàn thể ngã vị được hiện diện. Chúng ta là những tạo vật «mang tính biểu tượng». Và từ đó ta biết, thân xác chúng ta và chính chúng ta được tạo dựng để yêu thương, chứ không để phục lụy dục vọng thấp hèn. Như thế, chúng ta khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm rằng thân xác là để tương giao hơn là để cho khoái lạc tính dục. Tính dục chỉ quan trọng trong mức độ khi nó phục vụ cho sự tương giao. Vả lại, thân xác chúng ta tự do nhưng đã bị thương tổn. Cuối cùng, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô mà chúng ta ý thức sâu sắc rằng thân xác chúng ta, con người chúng ta được cứu chuộc. Biết và yêu mến Đức Kitô, cụ thể, sẽ giúp ta bước vào các kinh nghiệm nguyên thủy, từ đó có thể biết bản thân mình sâu hơn và biết cuộc sống mình sẽ như thế nào.


(Còn tiếp)

 

 

 

[1] X. St 2,7.

[2] X. St 1,26.

[3] X. ibid. 2,20.

[4] X. ibid. 2,18.

[5] Mc 12,29-31.

[6] Tiếp kiến chung  ngày 31/10/1979.

[7]  St 2,23.

[8] St 2,24.

[9]  GLHTCG, 2360.

[10] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung  ngày 25/06/1980. Ở đây đức Giáo hoàng trình bày một bước phát triển trong tư tưởng thần học Công giáo. Theo truyền thống, các nhà thần học thường nói chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa hệ tại ở nơi chúng ta, xét như là những cá vị, là hồn có lý trí. Điều này đúng thôi. Nhưng đức Gioan-Phaolô II tiến thêm một bước nữa, ngài nói: «Con người trở nên là hình ảnh của Thiên Chúa không hẳn ở nơi yếu tố đơn độc cho bằng là ở nơi yếu tố hiệp thông». Nói cách khác, con người là hình ảnh của Thiên Chúa «không chỉ hệ tại ở nơi nhân tính của mình, nhưng còn bởi sự hiệp thông các ngôi vị mà người nam và người nữ tạo lập ngay từ đầu».

[11] St 2,25.

[12] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung  ngày 02/01/1980.

[13] 1Ga 4,18.

[14] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung  ngày 16/01/1980.

[15]  GLHTCG, 2336.

[16] Gioan-Phaolô II, Tiếp kiến chung  ngày 16/01/1980.

[17] St 4,1.

[18] St 1,28.

[19] Kn 1,13-14.

 

Nguồn: WHĐ (21.01.2024)