Sứ Vụ Thiên Chúa và Dự Án Giêsu: Người Nghèo và “Người Khác” như Những Người Trung Gian của Nước Trời và Những Người Chủ Đạo của Giáo Hội

31/07/2018
1054
Sứ vụ của Thiên Chúa hay việc sai đi của Thiên Chúa (Missio Dei) là một hạn từ thần học Kitô Giáo. Hạn từ này càng ngày càng nổi tiếng từ hậu bán thế kỷ 20 trở đi. Nhiều người cho là do nhà truyền giáo học người Đức Karl Hartenstein sáng chế. Dù sao, nó được Hội Nghị tại Willingen năm 1954 của Hội Đồng Truyền Giáo Quốc Tế sử dụng và được nhà thần học Georg Vicedom của Giáo Hội Luthêrô khai triển. 

Nhưng người đem lại cho nó một mô tả xúc tích chính là David Bosch thuộc Giáo Hội Cải Cách khi ông này quả quyết: “truyền giáo chủ yếu không phải là một sinh hoạt của giáo hội, nhưng là một thuộc tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một Thiên Chúa sai đi” (Transforming Mission, Maryknoll: Orbis Books, 1991, 389–390). Cùng trong đường hướng này, Jurgen Moltmann viết: “không phải giáo hội có sứ vụ cứu rỗi phải chu toàn trong thế giới; nó là sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua Chúa Cha, một sứ vụ có bao gồm giáo hội” (The Church in the Power of the Spirit: A Contribution to Messianic Ecclesiology, London: SCM Press, 1977, 64).

Từ đó, có một sự thay đổi nhẹ nhàng nhưng cương quyết hướng tới cái hiểu truyền giáo như sứ vụ của Thiên Chúa. Trong các thế kỷ trước đây, truyền giáo được hiểu theo nhiều nghĩa khác thế. Đôi khi được hiểu chủ yếu theo nghĩa cứu chuộc (soteriological) tức cứu chuộc các cá nhân khỏi trầm luân đời đời. Hay theo nghĩa văn hóa: dẫn đưa người ở phương Đông và phương Nam vào các ơn phúc và đặc ân của Kitô Giáo Phương Tây. Khi khác lại theo nghĩa giáo hội: để mở rộng Giáo Hội hay một hệ phái nào đó. Có khi cũng theo nghĩa lịch sử cứu rỗi: hiểu như một diễn trình nhờ đó thế giới, do từ từ biến đổi hay do một biến động lớn, sẽ biến đổi thành Vương Quốc Thiên Chúa. 

Người ta cho rằng với các lối hiểu trên, mối liên hệ nội tai qua lại giữa Kitô học, cứu thế học và học lý Ba Ngôi, rất quan trọng đối với giáo hội sơ khai, đã từ từ nhường chỗ cho một trong các cách giải thích khác nhau về tín lý ơn thánh. 

Từ hậu bán thế kỷ 20, người ta hiểu truyền giáo được dẫn khởi từ chính bản tính Thiên Chúa, và được đặt trong ngữ cảnh học lý Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ không phải giáo hội học hay cứu thế học. Học lý cổ điển về sứ vụ của Thiên Chúa hiểu như Chúa Cha sai Chúa Con, và Chúa Cha cùng Chúa Con sai Chúa Thánh Thần được mở rộng để bao gồm một “chuyển động” khác tức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần sai giáo hội vào thế gian. 

Với cái hiểu trên, sứ vụ truyền giáo của chúng ta tự nó sẽ không có sự sống: chỉ ở trong tay Thiên Chúa sai đi nó mới thực sự được gọi là sứ vụ. Và điều này nữa: sáng kiến truyền giáo phát xuất từ một mình Thiên Chúa. 

Thành thử truyền giáo được nhìn như một chuyển động từ Thiên Chúa tới thế gian; giáo hội được coi như một dụng cụ để thi hành sự sai đi này. Có giáo hội vì có sai đi, chứ không ngược lại. Tham dự vào việc sai đi là tham dự vào chuyển động yêu thương của Thiên Chúa hướng tới dân Người, vì Thiên Chúa là nền tảng của việc sai tình yêu đi.

Như Darell Guder nói nhân danh The Gospel and Our Culture Network, chúng ta bắt đầu thấy ra rằng giáo hội của Chúa Giêsu Kitô không phải là mục đích hay mục tiêu của tin mừng, mà đúng hơn chỉ là một dụng cụ và nhân chứng... Chính sứ vụ của Thiên Chúa đã kêu gọi và sai chúng ta, giáo hội của Chúa Giêsu Kitô, đi để trở thành một giáo hội truyền giáo trong các xã hội của chúng ta, trong các nền văn hóa trong đó chúng ta hiện diện (Missional Church: A Vision for the Sending of the Church in North America, Grand Rapids, MI: Eerdmans Publishing, 1998, 4-5). 

Chính trong ngữ cảnh trên, Paulo Suess, nhà thần học Công Giáo người Đức, nhưng sinh hoạt ở Ba Tây và là nhà sáng lập ra ngành học hậu đại học về truyền giáo tại đây, trong International Review of Mission, Vol. XCII, n. 367, tháng Mười năm 2003 có bài viết tựa là “Missio Dei and the Project of Jesus: The Poor and the “Other” as Mediators of the Kingdom of and Protagonists of the Churches” (Sứ Vụ Thiên Chúa và Dự Án Giêsu: Người Nghèo và “Người Khác” như Những Người Trung Gian của Nước Trời và Những Người Chủ Đạo của Giáo Hội), một bài vốn nguyên ủy viết cho Hội Nghị Willingen.

Trong phần nhập đề, sau khi nói đến cảnh bới rác của dân nghèo ở Asunción, Paraguay mà ông được chứng kiến nhân tham dự hội nghị đại kết Châu Mỹ La Tinh lần thứ tư về “teologia india”, tháng Năm năm 2002, và việc hàng giáo phẩm ở đây giữ một khoảng cách tín lý với đống rác ấy, tác giả tự hỏi: “liệu ý niệm thần học missio Dei, nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian, có được thông truyền một cách có ý nghĩa trong những cảnh tượng bạo lực như thế này không?

Theo ông, Châu Mỹ La Tinh có 500 năm lịch sử giáo hội nhưng lịch sử này chưa bao giờ ăn khớp với lịch sử nhân bản đã có từ 30 hay 40 ngàn năm của lục địa này. Ông cho rằng, đối với thần học Châu Mỹ La Tinh, thực hành luôn đóng vai trò quan trọng hơn là việc đào sâu vào ngôn từ hơn nhằm biện minh hay tái dựng nhưng cuốc xẻng đào xới bị gẫy hết khi gặp nền đất đầy sỏi đá của thực tại. Liệu trong bối cảnh này, ý niệm missio Deicó còn tác dụng gì không? Cụ thể hơn, làm thế nào biến các chủ đề của missio Deithành tin mừng cho người nghèo và “người khác”?

Theo Suess, ý niệm missio Deigiả thiết một lịch sử suy niệm lâu dài về mầu nhiệm Ba Ngôi. Ngay cả bây giờ, điều này cũng vẫn đưa chúng ta vào một mê hồn trận các hạn từ phức tạp về sự sống nội thẳm (processiones, phát sinh) và hoạt động bên ngoài (missiones, sai đi) của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đến mức nào thì các missiones (sai đi) này có thể được dùng như các loại suy cho điều ngày nay ta gọi là truyền giáo hay bản chất truyền giáo của giáo hội? Liệu missio Dei có gì liên quan đến các cơ sở và hoa trái của niềm hy vọng mà chúng ta có thể giải thích (1 Pr. 3:15) không?

Đối với Kitô hữu, mô hình missio Deithoạt đầu nói về sự hiện diện và, cùng một lúc, sự siêu việt của Thiên Chúa. Không tạo vật nào đã được nhìn thấy Thiên Chúa (Ga 5:37; 6:46). Việc sai Chúa Giêsu đi chính là vì việc Người được nhìn thấy, chứng từ có thế giá của Người (Ga 3:11). Sự căng thẳng giữa tính siêu việt của Thiên Chúa một đàng và đàng kia sự hiện diện của Người trong thế giới khiến chúng ta lưu ý đến vấn đề làm trung gian cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Missio Deilà ý niệm thần học giúp ta nói đến cả hai, cả sự hiện diện lẫn tính siêu việt của Thiên Chúa. 

Các vay mượn văn hóa dùng để giải thích missio Deiphát xuất từ xa, đúng thế, nhưng đối với chúng ta, truyền giáo mà không dính líu gì tới missio Deichắc chắn chỉ còn là một sứ vụ giải phóng đạo đức – xã hội ngắn hạn. Ngược lại, một truyền giáo chỉ biết trừng trừng dán mắt vào sự thật trong sứ điệp cứu rỗi của nó mà thôi kết cục sẽ sa vào chủ nghĩa cực đoan.

Các Kitô hữu tìm cơ sở cho việc truyền giáo được họ hiểu như một sứ vụ hy vọng và yêu thương trong đức tin, trong Thiên Chúa, Đấng khôn rò. Vị Thiên Chúa yêu thương này không thể mãi mãi ở một mình và khép kín nhưng phải tự hiến mình trong tương quan. Vị Thiên Chúa khôn rò và siêu việt này để lại các dấu vết hữu hình không những trong tạo thế mà, đối với các Kitô hữu, trên hết, trong việc mạc khải và nhập thể của Ngôi Lời. Chúng ta lần rở lại các dấu vết này của Thiên Chúa khi tìm cơ sở cho việc truyền giáo và việc hợp pháp hóa nó một cách hợp bối cảnh và phổ quát. Chúng ta đi lại nẻo đường mạc khải truyền khẩu và văn bản cả mạc khải bằng các dấu chỉ không lời (non-verbal) nữa cho tới khi vươn tới cơ sở vô hình của nó. Khởi đi từ con đường cứu rỗi chuyên biệt có tính Kitô Giáo, như đã được cung hiến cho nhân loại qua việc nhập thể của Ngôi Lời nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cố gắng công bố lượng nhân từ của Thiên Chúa cho mọi hữu thể nhân bản. Lịch sử cứu rỗi địa phương tạo thành cái khung cho sự cứu rỗi phổ quát. Tính phổ quát này cần phải được chấp nhận vì, nếu không, cứu rỗi sẽ trở thành chuyện của số ít người được ưu đãi và may mắn.

Missio Deidứt khoát cho thấy việc sai đi và hiện diện phổ quát của Thiên Chúa. Nó cho thấy một hình thức hiện diện đặc thù của Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi dưới hình thức pneuma (thần khí) và logos (lời) nhập thể. Nền tảng vô hình của missio Deitrong thần học được mô tả bằng thuật ngữ “ba ngôi nội tại” (immanent trinity). “Ba ngôi nội tại” phối hợp điều thần học gọi là sự phát sinh (processiones) nội tại của thần khí (pneuma) do “sự thở hơi” ("spiration") của Chúa Cha và Chúa Con, và sự phát sinh của lời do việc "sinh ra” ("procreation") bởi Chúa Cha. Những cuộc phát sinh của lời và thần khí này, trong suy tư thần học hiểu là do tình yêu nơi Thiên Chúa giả định đòi hỏi, sau đó đã được mô tả chính xác hơn như là “thông truyền” (communication) và "tương quan" (relationship). Cơ sở vô hình của “Ba Ngôi nội tại” trùng hợp với các hậu quả hữu hình của “Ba Ngôi nhiệm cục (lịch sử cứu rỗi)” (nhập thể, thập giá/phục sinh và sai Chúa Thánh Thần xuống) mà chúng ta gọi là missio Dei. Điều đó giải thích tại sao thần học cổ điển coi missio Deilà đỉnh điểm của các mầu nhiệm quan trọng nhất của đức tin và là việc tiếp tục theo lối loại suy các phát sinh vốn đã bắt đầu “trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24).

Sự hiện diện của Thiên Chúa

Missio Deitrước nhất chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa do việc sai lời và thần khí đi. Việc sai lời đi vào bản tính thực sự nhân loại của Chúa Giêsu thành Nadarét được tiếp nối với sự sai Chúa Thánh Thần xuống thế gian và giáo hội. Việc sai Chúa Thánh Thần đi cũng xẩy ra với mỗi con người cá thể. Việc cư ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi trong các hữu thể nhân bản đã được tha thứ là một trong các mục tiêu của missio Dei(Ga 14:23); việc này, tuy thế, không được hiểu như một việc đặc thù hóa sự hiện diện và hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. “Việc sai đi” và “việc cư ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi” luôn có nghĩa sự hiện diện toàn diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha không ở đâu đó “đàng sau” thần khí được sai đi và ngôi lời nhập thể, do đó, chịu mất căn tính, như chữ ẩn dụ “sai đi” có thể gợi ý, như thể người nhận bài sai và sứ giả khác với người sai. Thiên Chúa được mạc khải qua Chúa Con như người sai lời và thần khí đi và đồng thời như lời và thần khí. Trong cách hiểu thông thường của chúng ta, sứ vụ và sai đi luôn liên hệ tới việc thay đổi nơi chốn. Với missio Dei, câu truyện không như thế. Việc ngôi lời và thần khí đến trong thế gian nhỏ bé của chúng ta, xét theo vũ trụ học, không hề làm cho Thiên Chúa hay “một phần của Thiên Chúa” (lời và thần khí) khiếm diện “ở một nơi khác nào đó” nhưng chỉ có thể hiểu như một biểu hiện đặc biệt của Thiên Chúa duy nhất và hiện diện khắp nơi trong các điều kiện lịch sử và nhân học mà thôi. 

Luôn luôn là Thiên Chúa duy nhất ba ngôi, Đấng đến với chúng ta trong nhiều hình thức khác nhau của cho đi và sự sống thần linh như thần khí và lời, như Chúa Thánh Thần và Chúa Con, và là Thiên Chúa từ muôn đời tới muôn đời, trong khi vẫn là Thiên Chúa xa cách và mầu nhiệm vô cùng. Thiên Chúa không phải chỉ là người sai. Nơi Chúa Con và thần khí, Thiên Chúa đồng thời là người được sai đi. “Bất cứ ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9). Hai vị có một sự đồng nhất trong việc rao giảng (kerygmatic identity): "Chúa Cha, Đấng sai Ta, chính Người đã ban cho Ta lệnh truyền phải nói gì và phải tuyên bố gì” (Ga 12:49).

Vì Thiên Chúa duy nhất cũng là Thiên Chúa ba ngôi, nên sứ vụ của Thiên Chúa, tức missio Dei, cũng chỉ luôn được hiểu nhờ loại suy. Thiên Chúa không sai các phần hay các phái viên của Ba Ngôi đi. Sứ vụ của Thiên Chúa, trong căn bản, chỉ là một dấu hiệu của sự hiện diện toàn diện của Người giữa chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa không đến với những hữu thể nhân bản vô thần thánh qua việc sai đi... Do đó, truyền giáo là truyền bá đức tin chứ không phải truyền bá Thiên Chúa. Truyền giáo chỉ công bố phương cách chuyên biệt của Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện. Nếu ta cũng coi giáo hội có tính “truyền giáo từ trong bản chất” (Ad gentes, 2), và ta hiểu bản chất này đến nỗi trong giáo hội không còn hoạt động hay sự công bố nào mà không có tính truyền giáo, cả ad intra (đối nội) lẫn ad extra (đối ngoại), thì sự phân biệt giữa lịch sử giáo hội và lịch sử truyền giáo sẽ không còn nữa. Thâm hậu hóa đức tin tại “các nước truyền thống theo Kitô Giáo” cũng là một hình thức truyền bá đức tin. Lịch sử giáo hội luôn luôn là lịch sử truyền giáo, và lịch sử truyền giáo là lịch sử giáo hội. Nên không hề có “các xứ truyền giáo” hiểu theo nghĩa ngược với các xứ không truyền giáo...

Truyền giáo của giáo hội là truyền giáo qua việc thành lập các cộng đồng. Các giáo hội và cộng đồng nào hiểu rõ Kitô Giáo là gì đều là những giáo hội và cộng đồng truyền giáo, và việc sai đi các thành viên của họ chỉ là một hình thức đặc biệt của đặc tính truyền giáo. Điều này cũng áp dụng vào đời sống các dòng tu. Theo chân Chúa Giêsu, sống như anh chị em trong cộng đồng và trong sự nghèo khó theo tin mừng là các dấu chỉ tinh thần truyền giáo của mọi hội dòng (Xem John Paul II, Vita consacrata, No. 72, 1996). Trong lịch sử thế giới, lịch sử giáo hội và lịch sử truyền giáo, missio Deichỉ có thể được công bố trong tư cách môn đệ. Nó là sự tiếp nối lịch sử của mặc khải Thiên Chúa ba ngôi, mà sự tự đổ mình ra bằng lời và dấu chỉ luôn diễn ra bên trong và bên ngoài các giáo hội như những định chế: “Như Cha đã sai Con vào thế gian thế nào, con cũng sai chúng vào thế gian như vậy” (Ga 17:18).

Thực hành hàng ngày của Giáo Hội không luôn dành chỗ cho missio Dei. Ngay trong giáo hội, chúng ta cũng phải lưu ý tới sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa. Muốn thế, ta được kêu gọi tạm ngưng mọi lề thói hàng ngày của định chế, cùng với mọi mong ước có được các giải pháp ma thuật và công trình làm ăn nói chung. Các tín hữu cũng luôn luôn phải đương đầu với việc thiếu lòng tin (Mc 9:24). Việc Thiên Chúa tự phát biểu luôn diễn ra dưới hình thức tự đổ mình ra đầy hàm hồ (xem K. Rahner, Grundkurs des glaubens. Einführung in den Begriff des Christentums, 5th ed. Freiburg i. Br., Herder, 1977, p. 222). Việc phúc âm hóa và công bố truyền giáo, do đó, luôn được ngỏ cả với giáo hội chúng ta lẫn những người ở bên ngoài giáo hội này. Giáo hội mà bản tính chủ yếu có tinh thần truyền giáo luôn tự phúc âm hóa mình cùng một lúc (Evangelii nuntiandi, 15). Mọi thầy cô dạy Thánh Kinh cũng đều là học trò của vương quốc Thiên Chúa (Mt 13:52). Và lời kêu gọi thống hối, vốn là một phần của việc công bố rằng nước Thiên Chúa đã gần kề, luôn giả thiết vị giảng thuyết và giáo hội phải thống hối trước. 

Kế hoạch của Thiên Chúa

Nếu missio Dei là sự biểu hiện tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa, thì không cơ sở nào cần thiết đối với missio Dei nữa, ngoại trừ chính tình yêu thần thánh không cần cơ sở và có tính yếu tính này (Ad gentes, 2). Trong thực hành và suy tư truyền giáo, tình yêu tỏa sáng của missio Dei thường chỉ được trình bầy một cách quá dò dẫm. Nó thường bị che khuất bởi những kiểu nói bi quan, coi cứu chuộc như “việc sửa chữa có kế hoạch”, sửa chữa sáng thế của Thiên Chúa, do cuộc Sa Ngã tạo ra. Tuy nhiên, coi điều gọi là “kế hoạch” của Thiên Chúa theo cách vốn bắt nguồn từ missio Dei sẽ khiến ta thay đổi sự nhấn mạnh. Lúc đó, “kế hoạch” này sẽ mặc một hình thức khác: “tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa” được tái cấu hình với việc sai lời, tức Con cứu rỗi của Thiên Chúa, và thần khí, tức người ban và mang thứ lực năng động ta gọi là ơn thánh, đi. Chúa Thánh Thần đập bể mọi cơ cấu nhập thể của sự ác vốn đại biểu cho trận đồ kế hoạch phản loạn. Chúa Con, Đấng trở thành con người trong Chúa Giêsu thành Nadarét, mở ra các viễn ảnh mới cho kế hoạch của Thiên Chúa. Trong sự hợp nhất và liên tục với thần khí, việc nhập thể của lời đem đến một chọn lựa giữa “phản dự án” (antiproject) và “dự án”. 

Suốt trong lịch sử, truyền giáo luôn cố gắng tiến gần tới “kế hoạch thần thiêng” nói trên hơn. Vatican II nói đến việc này trong tương quan với bản chất truyền giáo của giáo hội, “vì, để phù hợp với mệnh lệnh của Thiên Chúa Cha, Giáo Hội đã bắt nguồn từ việc sai Chúa Con và sai Chúa Thánh Thần đi” (Ad gentes, 2). Giáo hội biểu lộ missio Dei trong sinh hoạt truyền giáo của mình, như là “một biểu hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa và việc chu toàn mệnh lệnh này trong thế giới và trong lịch sử thế giới” (Ad gentes, 9).

Về phương diện tài liệu, tất cả những điều trên xem ra có tính kết luận, nếu không có sự kiện này là các ý niệm làm nền đã mất hết tính tươi mát nguyên thủy của chúng do việc thế giới hiện đại đã xa lìa truyền thống, và, thứ hai, các điều kiện thực dân trước thời hiện đại vẫn còn thịnh hành. Sự kiện này dẫn tới hai trận tuyến diễn ra giữa giai cấp ưu tú (élite), những người, theo kiểu hậu hiện đại, có thể lo liệu sống mà không cần bất cứ kế hoạch nào, và khối đại đa số người dân Châu Mỹ La Tinh, những người giải thích “kế hoạch của Thiên Chúa” như là một khẳng định cho rằng bất công là “ý muốn của Thiên Chúa”. Họ nghĩ rằng “kế hoạch của Thiên Chúa” diễn ra trong hai giai đoạn: giai đoạn một là thực dân hóa và “các đau khổ trần gian” được khắc phục bởi giai đoạn hai tức giai đoạn “vinh quang nước trời”. Vị bề trên tỉnh Dòng Tên, Antonio Vieira, do đó, đã có thể gọi nạn nô lệ của người Châu Phi tại Ba Tây là “phép lạ vĩ đại của ơn quan phòng và lòng thương xót từ trời”. Đến thăm một hãng làm đường ở Bahia năm 1633, ngài nói với các nô lệ:

“Ôi, ước chi các người da đen mang từ các sa mạc Êtiôpia và được đưa tới Ba Tây hiểu ra rằng họ mắc nợ Thiên Chúa và mẹ rất thánh của họ xiết bao qua điều bề ngoài xem như đầy ải, tù đầy và bất hạnh nhưng thực ra là một phép lạ, một phép lạ vĩ đại! Hãy cho tôi hay, cha mẹ anh chị em, những người sinh ra, sống và sẽ chết trong cái tăm tối của người ngoại đạo, không một chút ánh sáng đức tin và hiểu biết về Thiên Chúa, họ sẽ đi về đâu khi chết? Họ thẩy đều... xuống hoả ngục và bị thiêu đốt ở đấy ngay lúc này và sẽ bị thiêu đốt ở đó mãi mãi về sau...” (Antonio Vieira, "Sermão décimo quarto (1633)", trong: Sermões. Obras completas do Pe. Antõnio Vieria. Porto, Lello & Irmãos. 1951, vol. 4, Tomo 11, No. 6. p. 301).

Thứ rao giảng trấn an của ngày qua ấy, hiện nay, vẫn chưa chấm dứt. Ở Châu Mỹ La Tinh (và cả ở phần đông Đông Á?), người ta học được từ rất sớm cách chấp nhận sự an ủi từ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, ngay ở nơi họ có thể cố gắng làm việc để thay đổi tình huống. Đây có thể là chiến lược để sống còn. Đấng Cứu Thế chịu đau khổ vẫn là nơi ẩn náu đối với nhiều người. Tuy nhiên, các quyền lực hiện có đã biến Kitô Giáo thành một ý thức hệ trấn lột. Kitô Giáo Thứ Sáu Tuần Thánh thiếu hẳn chiều kích “công lý phục sinh” vốn triệt tiêu các bản án tử hình do các kẻ chiến thắng áp đặt.

Dự án Giêsu

Các kinh nghiệm làm người ta thức tỉnh của thời hiện đại tạo ra nền thần học giải phóng và thực hành mục vụ đi kèm với nó trong việc tái duyệt các quan điểm cực đoan và biện minh ý thức hệ; Kitô giáo duy thực dân trước đây đã đạt được sự tự ý thức về mình lớn lao hơn. Các năng động tính của missio Dei được áp đặt quá nhanh lên một “kế hoạch thần thánh vĩnh cửu” có tính hữu thể học mà bề ngoài xem ra “một cỡ nhưng phù hợp với mọi người” (one-size-fits-all), trong đó, các giấc mơ trong ý muốn của Thiên Chúa biến thành một thời khóa biểu thông thường. Nhưng “kế hoạch thần thánh” này cũng có thể được giải thích là “dự án của Thiên Chúa”, được tiếp nối trong dự án Giêsu thành Nadarét.

Dựa vào tiền đề niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và vào kairos (thời thuận lợi) của những bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau, nhiệm vụ truyền giáo là trì chí công bố sự cứu chuộc có tính giải phóng. Trước tấm phông các vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại, truyền giáo phải cho thấy việc cứu cuộc như một giải pháp, cả cho lịch sử lẫn cho tập thể và cho đời sống bản thân của các cá nhân. 

Tin mừng Luca thách thức ta ngay ở đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu với một chọn lựa quan trọng giữa dự án của thế gian, ở đây tạm gọi là “phản dự án”, và dự án của Thiên Chúa, điều vốn tượng trưng cho sứ điệp chính yếu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Sử dụng kiểu nói “phản dự án” bao trùm được nhiều yếu tố của điều, theo qui ước, ta vẫn gọi là “tội tổ tông” trong thần học, dù có những điểm khác nhau về nền tảng. Nếu ta nói tới nhân tính của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc, thì thực tại cám dỗ của lời nhập thể không thể bị hạ giá chỉ như trò đóng kịch vì các mục đích sư phạm. 

Câu truyện chính Chúa Giêsu bị cám dỗ cho thấy việc có thể có một phản dự án toàn diện, nghĩa là có cả tính xã hội, chính trị lẫn tôn giáo, về nước Thiên Chúa (Lc 4:1-13). Phản dự án này theo dõi Chúa Giêsu không rời chân, không chỉ trong lời nói của các địch thủ của Người mà còn trong cả các câu hỏi của chính các môn đệ của Người về “việc tái lập vương quốc Israel”. Giấc mơ của họ hướng về dĩ vãng. Họ nghĩ tới vương quốc của Đavít như một thay thế cho Đế Quốc Rôma. Thậm chí họ còn thách thức Chúa Kitô phục sinh với khả thể này khi hỏi: “Lạy Thầy, nay có phải là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6).

Phản dự án là dự án của các ông hoàng thế gian. Nó làm người ta hóa mù. Thánh Phaolô viết: “trong trường hợp của họ, thần của thế gian này đã làm mù tâm trí những người không tin” (2 Cr. 4:4). Phản dự án là lãnh vực cứ thế tiếp nối các thỏa hiệp phiến diện dân túy và những trao đổi tiểu qui mô khiến thế giới giữ nguyên trạng. Nó thuộc lãnh vực cung ứng những mẩu dư thừa tiện nghi nhỏ nhoi trong việc duy trì các đặc ân của mình, lãnh vực xã hội tiêu thụ, và lãnh vực quyền lực, danh tiếng và thờ thần tượng. Đối với Chúa Giêsu, các rủi ro khá cao và đây là một thay thế thực sự. Tại sao không thỏa mãn các hoài mong của người dân thường? Tại sao không nắm lấy dòng lịch sử trong bàn tay và, bằng một lời mạnh mẽ, cải thiện thế giới?

Giáo hội thừa hưởng cơn cám dỗ này và suốt trong lịch sử bị nó ám ảnh. Giáo hội tìm ra nhiều lý do để không chia tay với các nhà cai trị, và liên tục bị đánh tả tơi vì các đòi hỏi quyền lực, đặc ân và tăm tiếng. Khi các Kitô hữu Châu Mỹ La Tinh, những người từng liên minh với các quyền lực thực dân và kêu cầu ơn quan phòng của Thiên Chúa, tự dấn thân vào cuộc đấu tranh chống sự ác nhưng cũng chấp nhận các đặc ân từ giai cấp quyền thế và duy trì tăm tiếng ma qủy trên tháp nhọn các tiền đình đền thờ mạ vàng để vinh danh Thiên Chúa, họ quả mù lòa đối với sự ác ngay trong hàng ngũ của họ và từ chối, không dành công lý phục sinh cho Chúa Kitô chịu đóng đinh. 

Chúa Giêsu bêu riếu nền văn hóa đặc ân của thời ngài vì mọi đặc ân đều che đậy một tiếng nói đã bị bịt miệng. Đặc ân là việc đầu tư của kẻ quyền thế; trong một nền kinh tế bóc lột, họ đòi người ta phải phục tùng và giữ im lặng. Trong các tình huống chính trị và được đặc ân về kinh tế và xã hội, người ta thấy thiếu hẳn lòng nhiệt thành thiêng liêng và ơn gọi làm tông đồ. Quyền lực ban ân huệ cho công việc truyền giáo, và cung cấp cho nó tiền bạc, vinh dự và đặc ân, chính là người hủ hóa nó. Cách tốt nhất để làm im tiếng nói tiên tri của các giáo hội không phải là bách hại mà là cung cấp cho họ các đặc ân vật chất và có tính biểu tượng.

Các trói buộc chằng chịt của việc bảo trợ, chẳng hạn, đã làm hại nặng nề việc phúc âm hóa và cả giáo hội nữa. Khi các nhà truyền giáo bắt đầu vứt bỏ đồ dằn (ballast) ý thức hệ, họ trở thành người nguy hiểm đối với hệ thống thực dân. Việc tiếp tục xua đuổi các tu sĩ Dòng Tên khỏi Ba Tây cho thấy sự hiện diện và vai trò làm trung gian văn hóa của họ giữa các nhà cai trị thực dân và xã hội bản địa bỗng trở nên nguy hiểm xiết bao khi việc truyền giảng tin mừng của họ thách thức các tiền đề quan trọng của chính sách thực dân hóa. Xua đuổi, ăn cướp các trạm truyền giáo và việc tử đạo: tất cả đều là các khoảnh khắc của “ký ức nguy hiểm” của lịch sử giúp ta tái suy nghĩ toàn bộ quá khứ, hiện tại và tương lai của truyền giáo. Những dịp như thế thường dẫn ta, tuy chậm, đến trách nhiệm phải có đối với các nạn nhân của chủ nghĩa thực dân mà ngày nay chúng ta quen gọi là “ưu tiên chọn người nghèo và ‘người khác’”.

Nếu giáo hội nghèo và không được nhìn nhận, vì người của mình không được nhìn nhận, thì “những người khác” và người nghèo có cơ cùng đến với nhau trong các cơ sở của mình. Sự gần gũi người nghèo là hòn đá góc để xây lên các bài giảng có ý nghĩa và các tuyên bố mạnh bạo. Nó cũng thử nghiệm cả lời kêu gọi dấn thân cho truyền giáo, lời kêu gọi không sống nhờ các ý hướng tốt mà nhờ một nền công lý và một tình yêu lớn hơn. Ưu tiên chọn người nghèo và “người khác” như là những người chủ đạo trưởng thành đòi một nền đạo đức chuyên nghiệp trong việc truyền giáo biết bác bỏ nền văn hóa đặc ân. Việc bác bỏ này là một thứ praeambula fidei (lời nói đầu đức tin) của bất cứ cuộc công bố đức tin nào, và là một lời nói đầu nhằm thừa nhận người nghèo và “người khác” như những người đã trưởng thành và cũng nhìn nhận vai trò chủ đạo của họ trong thế giới mới và trong một giáo hội sống động. Bánh ăn trên bàn ăn của mọi hữu thể nhân bản và hoa hồng trong các thửa vườn của người hàng xóm họ không phải chỉ là thành quả của những cuộc chiến đấu lâu dài dành công lý mà còn là những cuộc cử hành Thánh Thể và Bữa Tiệc Ly của Chúa cách hữu hình nữa. 

Chúa Giêsu, đầy Chúa Thánh Thần (Lc 4:1-14), đã đưa ra một đề kháng có tính chương trình chống lại cơn cám dỗ thực sự của một trật tự thế giới đặt căn bản trên việc ưu tiên có quyền có bánh ăn, quyền lực và tăm tiếng. Người nhập thể missio Dei vào dự án vương quốc Thiên Chúa, và trong ba bài diễn văn định hướng và ở bất cứ nơi nào tin mừng nói về bánh ăn, đã đánh dấu mốc cho một thứ luận lý học hoàn toàn khác. Trong bài diễn văn ở hội đường Nadarét (Lc 4:14tt), bài giảng trên núi (Lc 6:20-49, Mt 5:3-12) và việc phán xét các dân nước (Mt 25:31-46), Chúa Giêsu đã làm nổi bật những người được ngỏ lời và các người chủ đạo của vương quốc Thiên Chúa; việc nuôi ăn 5 ngàn người cho thấy nguyên tắc cơ cấu hóa của Người. Dự án của Chúa Giêsu dành cho những người nghèo, bị chà đạp, tù đầy, mù lòa, đói ăn, bị ghét bỏ, trông như ngoại nhân, người bệnh và bị loại trừ. Họ vừa là người được ngỏ lời vừa là người cổ vũ dự án này. Thiên Chúa chấp nhận sự đụng chạm nhân bản của người nghèo và thành phần cặn bã của xã hội. Họ là mạc khải và bí tích của Thiên Chúa trong thế giới. Họ là những người trình bầy missio Dei trong lịch sử.

Dĩ nhiên, ở đây, tính thông thường truyền thống đã sụp đổ. Dự án Giêsu tiền giả định một thứ luận lý hoàn toàn khác. Các nhu cầu căn bản của nhân loại không được thỏa mãn nhờ quyền ưu tiên hay các biện pháp kinh tế mà là nhờ luận lý học chia sẻ và phân phối. Bánh ăn không được thu lượm để phân phối, mà trước nhất là một nhóm nhỏ, 5 ổ bánh và 2 con cá được phân phối. Gợi ý của Chúa Giêsu “các con hãy cho họ thứ gì để họ ăn đi” trái ngược với gợi ý của các môn đệ; các ông nghĩ rằng người ta nên “đi vào vùng và làng chung quanh và mua thứ gì đó mà ăn” (Mt 14:15tt; Mc 6:36tt). Khi tất cả đã được phân phối và cho đi, còn dư đến 12 thúng (Mt 14:13-21). Không phải chuyện tích lũy, kinh tế hay đề phòng, tất cả là luận lý học thế gian, đã giải quyết được các vấn đề. Trái lại, các biện pháp này mang lại hậu quả mù quáng và tạo ra sự khốn cùng. Chỉ trong việc phân phối và bẻ bánh, đôi mắt các môn đệ mới mở ra và việc nhìn nhận sau đó mới trở thành một hình thức yêu thương, như thưở khởi nguyên của sáng thế (Lc 24:13-35: St 4:1). 

Vấn đề hiện nay là không biết những người chủ đạo mới của dự án Giêsu có ý loại bỏ mọi người chúng ta trong giáo hội không vì chúng ta không sống nhờ các bãi rác mà là sống trong những căn nhà ấm cúng. Tin mừng trả lời câu hỏi này bằng cách trình bầy với ta 2 con người, những người, có lẽ giống chúng ta, cũng muốn leo vào dự án Giêsu, nghĩa là vương quốc Thiên Chúa. Hai người bắt đầu trễ này là thầy thông luật và chàng thanh niên giầu có. Họ tin mọi điều, tuân giữ truyền thống và các giới răn. Người thì biết hết mọi điều còn người kia thì có mọi thứ. Họ lo lắng về việc liệu có thuộc về vương quốc Thiên Chúa hay không. Cả hai hỏi Chúa Giêsu cùng một câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự sống đời đời?” (Lc 10:25; 18:18). 

Cả hai người đàn ông trên đều muốn bước vào dự án Giêsu qua các ngả xưa cũ có tính vụ luật và duy luân lý. Họ muốn tham dự vào dự án này với các phương thế ưu tiên sử dụng lề luật và các giới răn vốn chỉ dành cho những người có học và giầu có. Có lẽ họ sẵn lòng chấp nhận một ít qui định hay lề luật nữa, lẽ dĩ nhiên không phải để tháo bỏ các bức tường đền thờ trong lòng họ. Nhưng xin thầy đừng lìa xa hệ thống! Đừng thay đổi lối suy nghĩ của tôi! Và xin thầy làm ơn, đừng để mọi người tham gia! Nhưng của cải của thế giới này sẽ không đủ cho mọi người nếu các đặc ân của người giầu không bị bãi bỏ. 

Chúa Giêsu không áp đặt bất cứ qui luật nào thêm lên con người. Thay vì nẻo đường nghĩa địa mà họ đang du hành, Người đề nghị với họ một quĩ đạo mới để đạt tới các tầng trời qua ngả diakonia, nghĩa là phục vụ những ai rơi vào tay trộm cướp hay, ngay lập tức, bán sạch mọi của cải tích lũy được. Đã đến lúc các giáo hội cũng nên quét sạch hết các đồng nát giấy vụn (junk) của họ. Các vấn đề của các giáo hội về sự thật chỉ có thể thông đạt được nhờ một sự hiện diện tích cực của người nghèo trong đời sống giáo hội. Khi giáo hội hiểu rằng không phải là vấn đề sự thật chỉ có thể hiểu bằng loại suy, nhưng người nghèo và người bị loại bỏ thành biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong định chế tan nát của mình, và khi người nghèo không phải chỉ là những người lãnh nhận tin mừng mà là những người được ủy nhiệm làm người mang nó, thì lúc ấy giáo hội mới có khả năng đòi cho mình vinh dự đã đem missio Dei vào lòng và thực sự là một giáo hội truyền giáo.

Sứ vụ Thiên Chúa, một sứ vụ từng xuất hiện nơi Chúa Giêsu thành Nadarét và tiếp tục sống mãi trong Chúa Thánh Thần có thể được tóm tắt đơn giản như sau: việc suy niệm về sự hiện diện của Thiên Chúa dẫn chúng ta tới những người bị đóng đinh của lịch sử. Missio Dei luôn dẫn ta bằng con đường Gôngôtha, con đường đau khổ. Nhưng missio Dei , hiểu như việc sai Thần Khí đi, cũng có nghĩa là cắt đứt với các viễn ảnh nô lệ phũ phàng và khuất phục tàn bạo. Missio Dei không phải là cuộc hành trình bước tới những cánh đồng giết chóc (killing fields). Nó là lễ khai tâm nhằm biến tình yêu lớn hơn kia thành công lý lớn hơn. Nó có nghĩa được dự phần vào thời khắc yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không chỉ ghi sổ người bị thương và người chết, như một máy ảnh, nhưng thổi vào họ Thần Khí của Người để họ có thể sống (Edk 37:14). Ánh mắt nhìn của Thiên Chúa được tháp tùng bằng một bài ca mới ca ngợi nền công lý Phục Sinh: “Chúa Kitô đã chỗi dậy!” Nhờ missio Dei , ngày Phục Sinh trở thành ngày đẩu tuần và chìa khóa của lịch sử.

Vũ Văn An