
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ - ĐƯỜNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA
WHĐ (11/6/2025) - Chủ đề của bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô: Đường Nhận Biết Thiên Chúa’ sẽ được trình bày theo bốn đề mục chính sau đây: (1) Nhận Biết - Từ Cảm Quan Tới Đức Tin; (2) Nhận Biết Thiên Chúa Trong Cựu Ước; (3) Nhận Biết Thiên Chúa Trong Tân Ước và (4) Theo Đường Nhận Biết Thiên Chúa.
Dẫn Nhập
Một trong những đặc tính căn bản nhất để phân biệt con người với muôn loài trong vũ trụ là con người có khả năng nhận biết bản thân cũng như những gì quanh mình, đồng thời định dạng đời sống theo những gì mình nhận biết. Sự nhận biết nơi mỗi người không ngừng được tích lũy và dần trở thành gia sản chung của mọi người. Kho tàng nhận biết của gia đình nhân loại không ngừng gia tăng theo dòng thời gian. Nhờ đó, các thế hệ sau có thể thừa hưởng hoa trái của các thế hệ trước, đồng thời đóng góp phần mình cho gia sản chung này. Con người luôn khao khát được nhận biết thế giới chung quanh cách sâu sắc và đầy đủ hơn. Sự nhận biết ấy không chỉ dừng lại ở những thực tại hữu hình mà còn hướng đến những thực tại vô hình, siêu nghiệm, những thực tại có thể dẫn con người đến sự bình an nội tâm và hạnh phúc viên mãn. Đặc biệt, từ sâu thẳm tâm hồn, con người luôn khao khát nhận biết và đạt đến Nguồn Gốc cũng như Cùng Đích của đời sống mình.
Nhận biết là tiến trình năng động giúp con người tiếp cận, tìm hiểu, khám phá, phân định về sự vật, hiện tượng hay biến cố nào đó. Nhận biết chính là hành động của trí tuệ con người - chủ thể nhận biết - hướng tới đối tượng được nhận biết. Nhờ đó chủ thể có khả năng thiết lập tương quan với đối tượng, đồng thời, phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng. Qua đó, chủ thể không chỉ tiếp nhận thông tin về đối tượng mà còn đi vào mối tương quan thân mật, sống động và ý nghĩa với đối tượng ấy. Nghĩa là, những khái niệm, hình ảnh hay biểu tượng về đối tượng có thể ‘trở thành thành phần’ của chủ thể. Bởi sự tương tác với đối tượng, căn tính, đời sống và sứ vụ của chủ thể dần được chuyển hóa và ngày càng phát triển toàn diện hơn.
Nội dung đức tin Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận biết rằng, vì tình thương, Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho con người mà cao điểm là Biến Cố Đức Giê-su (Jesus-Event), Con Thiên Chúa, hiện diện và hoạt động giữa gia đình nhân loại. Người là "Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14), là "hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Cl 1,15), là "Đường, Sự Thật và Sự Sống" (Ga 14,6). Chủ đề của bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô: Đường Nhận Biết Thiên Chúa’ sẽ được trình bày theo bốn đề mục chính sau đây: (1) Nhận Biết - Từ Cảm Quan Tới Đức Tin; (2) Nhận Biết Thiên Chúa Trong Cựu Ước; (3) Nhận Biết Thiên Chúa Trong Tân Ước và (4) Theo Đường Nhận Biết Thiên Chúa.
1. NHẬN BIẾT – TỪ CẢM QUAN TỚI ĐỨC TIN
Nhận biết là bước khởi đầu thiết yếu trong hành trình con người đạt tới tri thức mong muốn. Tùy theo hình thức nhận biết mà con người đạt được những loại tri thức tương ứng. Các hình thức tri thức tuy đều hướng đến chân lý nhưng khác nhau về nguồn gốc, phương pháp và mức độ xác tín mà mỗi hình thức tri thức mang lại. Ở đây, chúng ta đề cập năm hình thức tri thức căn bản: (1) Tri thức khả giác (sensible knowledge): Tri thức có được nhờ tương tác của con người với thế giới bên ngoài qua các giác quan, chẳng hạn như nghe, nhìn, ngửi, đụng chạm. Đây là hình thức tri thức sống động, mang tính chủ quan; (2) Tri thức kinh nghiệm (experiential knowledge): Tri thức kinh nghiệm hay còn gọi là tri thức thường nghiệm, không theo quy trình chặt chẽ; tri thức có được từ trải nghiệm thực tế, thông qua quá trình tiếp xúc và quan sát sự vật, hiện tượng trong một khoảng thời gian đủ dài. Tri thức kinh nghiệm gắn bó với tri thức khả giác; hình thức tri thức này thường đến cách tự nhiên mà không cần nhiều khả năng vận động lý trí hay hệ thống hóa; (3) Tri thức khoa học (scientific knowledge): Tri thức có được nhờ quá trình quan sát, lượng định, kiểm chứng, hệ thống hóa. Đây là hình thức tri thức tiến hành với phương pháp rõ ràng, dễ kiểm chứng và có thể lặp lại trong cùng điều kiện hoặc hoàn cảnh tương đương; (4) Tri thức triết học (philosophical knowledge): Tri thức có được từ kết quả của khả năng suy luận lô-gích, trừu tượng, khái quát hóa nhận thức về yếu tính của thực tại cũng như về các tương quan giữa các thực tại. Hình thức tri thức này bao gồm việc hình thành các khái niệm có tính toàn diện và phổ quát; (5) Tri thức thần học (theological knowledge): Tri thức khởi đi từ đức tin, nghĩa là hoạt động của trí tuệ và ưng thuận của con người trước mặc khải của Thiên Chúa. Trong ánh sáng đức tin, con người tìm hiểu, lượng định, giải thích và hệ thống hóa các chân lý được Thiên Chúa mặc khải.
Ngoài năm hình thức tri thức căn bản vừa nêu, nội dung đức tin Ki-tô Giáo còn cho chúng ta biết một số hình thức tri thức đặc biệt khác nữa, chẳng hạn như: (1) Tri thức huyền nhiệm (mystical knowledge): Tri thức phát sinh từ kinh nghiệm nội tâm ngoại thường của một số vị thánh được Thiên Chúa ban tặng như thánh An-tôn Cả, thánh Bê-nê-đích-tô, thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, thánh Tê-rê-xa A-vi-la, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su. Theo đó, các ngài có được những hiểu biết vượt trên lý trí nhờ suy niệm, chiêm niệm và kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa trong đời sống trần thế của mình. Đây là hoa trái của ơn chiêm niệm, hành trình siêu nhiên được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần, chứ không thể đạt được do nỗ lực con người; (2) tri thức hưởng kiến (beatific knowledge): Tri thức không phát sinh từ lý trí, tưởng tượng hay lòng tin nhưng từ sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa cách trực tiếp (visio beatifica). Theo thánh Tô-ma A-qui-nô: “Không ai có thể chiêm ngắm yếu tính Thiên Chúa khi còn sống trong thân xác trần thế này” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.12, a.11). Cũng theo thánh nhân, những người được chúc phúc thì chiêm ngắm Thiên Chúa ‘diện đối diện’ (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.12, a.11). Trong Tông Hiến ‘Chúc Tụng Thiên Chúa’ (Benedictus Deus, 1336), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XII tuyên bố rằng các thiên thần của Thiên Chúa, các thánh, các trẻ nhỏ đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội nhưng qua đời trước tuổi biết suy nghĩ và phân định cũng như các tín hữu đã qua quá trình thanh luyện thì được hưởng kiến Thiên Chúa cách trực tiếp. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Đức tin cho ta được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn phúc nhìn thấy Thiên Chúa [beatific vision], mục đích của cuộc lữ hành dưới thế này của chúng ta” (GLGHCG 163).
Kinh nghiệm các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội, chẳng hạn như thánh Au-gút-ti-nô, thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na và thánh Gio-an Thánh Giá cho chúng ta nhận thức rằng con người càng tìm kiếm Thiên Chúa, càng hiểu biết Thiên Chúa, càng kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa thì càng muốn tìm kiếm, muốn hiểu biết, muốn kết hiệp sâu xa với Người hơn nữa. Điều này cho thấy con người không bao giờ thỏa mãn với việc nhận biết Thiên Chúa trong hành trình trần thế này. Bởi vì, những gì con người nhận biết Thiên Chúa, kinh nghiệm về Thiên Chúa, cảm nhận về Thiên Chúa không bao giờ kết thúc. Khi con người càng no thỏa Thiên Chúa bao nhiêu thì càng khao khát Người bấy nhiêu. Khi con người càng thông hiểu quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì con người lại càng nhận ra quyền năng và tình yêu ấy là vô biên, vô tận. Khi con người càng chìm đắm trong chương trình Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện cũng là khi con người nhận ra rằng mình cần phải gắn bó với Người để nhờ Người mà được kết hiệp sâu xa với Chúa Cha. Khi con người càng nhận ra vẻ đẹp cao sang, nhiệm mầu của Thiên Chúa cũng là khi con người có thể can đảm đương đầu với muôn hình thức đau khổ của bản thân giữa thế giới thụ tạo.
Con người không chỉ được mời gọi để ‘nhận biết về Thiên Chúa’ (knowing about God) mà còn được mời gọi ‘nhận biết Thiên Chúa’ (knowing God). Chúng ta có thể phân biệt giữa ‘nhận biết về Thiên Chúa’ và ‘nhận biết Thiên Chúa’ qua hình ảnh người nghiên cứu tôn giáo và thần học gia. Người nghiên cứu tôn giáo không cần đức tin cũng không cần thực hành đức tin trong việc tìm hiểu Thiên Chúa. Trong khi đó, thần học gia cần có đức tin và sống theo đức tin của mình. Người nghiên cứu tôn giáo chỉ tiếp cận các thông tin về Thiên Chúa; trong khi đó, thần học gia thiết lập mối tương quan liên vị, tương quan giao ước với Người. Sự phân biệt này rất quan trọng trong đời sống thiêng liêng bởi vì chỉ khi nhận biết Thiên Chúa cách cá vị, con người mới có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa. Các Ki-tô hữu ‘nhận biết về Thiên Chúa’ nhờ việc học hỏi nội dung đức tin Ki-tô Giáo được đúc kết trong Kinh Thánh, Truyền Thống và Giáo Huấn của Giáo Hội. Tuy nhiên, việc ‘nhận biết về Thiên Chúa’ cần được dẫn đến việc ‘nhận biết Thiên Chúa’; nếu không, sự nhận biết ấy sẽ không mang lại hoa trái thiêng liêng. Vì lẽ đó, thánh Phao-lô đã cảnh báo: “Tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo” (Rm 1,21). Để ‘nhận biết Thiên Chúa’, con người không chỉ có tri thức về Người mà còn bước vào mối tương quan thân mật với Người nhờ ân sủng, đức tin, cầu nguyện, suy niệm, chiêm niệm, gặp gỡ, tôn thờ, vâng phục và thực thi thánh ý Người. Các Ki-tô hữu không chỉ được mời gọi vun đắp tri thức về Thiên Chúa mà còn được mời gọi vun đắp tri thức sống động trong tương quan với Người. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su nhiều lần thẳng thắn phê bình những người chỉ ‘biết về Thiên Chúa’ mà không thật sự ‘biết Thiên Chúa’.
Ngay từ buổi sơ khai của Ki-tô Giáo, các môn đệ Đức Giê-su mời gọi mọi người đặt niềm tin tưởng vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa. Đặc biệt, các Giáo Phụ đều nhấn mạnh sự cần thiết của đức tin trong việc tìm hiểu nội dung mặc khải Ki-tô Giáo. Thánh An-sen-mô (1033-1109) định nghĩa thần học như là ‘đức tin tìm kiếm sự hiểu biết’ (fides quaerens intellectum/ faith seeking understanding). Đối với thánh nhân, con người cần phải tin tưởng để hiểu biết Thiên Chúa. Ngài quả quyết: "Tôi không tìm cách hiểu để tin nhưng tôi tin để có thể hiểu. Tôi cũng tin rằng nếu tôi không tin, tôi sẽ không hiểu biết" [Neque enim quaero intelligere ut credam, sed credo ut intelligam. Nam et hoc credo, quia, nisi credidero, non intelligam] (St. Anselm, Proslogium, Chapter I). Những hiểu biết và diễn tả nội dung đức tin Ki-tô Giáo của ngài đến từ đời sống suy tư trong cầu nguyện, phản tỉnh và thực hành. Ngài là thần học gia đắm chìm tư tưởng trong sự kết hợp liên lỷ với Thiên Chúa hơn là chỉ chú tâm vào suy luận lô-gích. Nơi ngài, lý trí được soi sáng bởi đức tin; suy tư thần học không tách rời khỏi đời sống nội tâm và chuyên cần cầu nguyện. Như vậy, nhận biết Thiên Chúa không chỉ là thủ đắc những thông tin về Người nhằm thỏa mãn lý trí mà còn là đi vào mối tương quan thân mật với Người.
Theo Platon, con người khát khao, tìm kiếm, ước mơ về thế giới ý niệm, thế giới siêu việt, thế giới cho phép con người được bình an, hạnh phúc. ‘Đối tượng’ mà con người khao khát không thuộc thế giới trần tục này mà là thế giới ‘không vướng bụi trần’. Quả thực, kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận biết rằng con người không thỏa mãn với những thuộc tính tương đối, chẳng hạn như con người không bao giờ thỏa mãn với quyền năng, sự thánh thiện và tình yêu nhỏ hơn quyền năng, sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa. Sự khác biệt chính yếu giữa con người và vạn vật là con người biết hướng về chân lý, hướng về tuyệt đối, hướng về những gì trọn hảo. Con người được Thiên Chúa phú ban những ưu phẩm để nhận biết, khám phá, đồng thời, lưu truyền những kinh nghiệm mình đạt được cho hậu thế. Con người được Thiên Chúa sáng tạo, do đó, con người luôn khao khát trở về Cội Nguồn của mình. ‘Nỗi khát khao Thiên Chúa’ luôn hiện diện nơi thẳm sâu nhất của con người. Trong đoạn mở đầu của tác phẩm ‘Tự Thuật’, thánh Au-gút-ti-nô viết: “Ngài đã dựng nên chúng con cho chính Ngài và tâm hồn chúng con mãi xao xuyến cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài” (St. Augustine, The Confessions, Book I, 1.1). Thánh Tô-ma A-qui-nô cho rằng: “Nhận biết Chúa hiện hữu theo cảm thức sơ khởi và chưa rõ ràng là điều đã được khắc ghi trong bản tính tự nhiên của con người bởi vì Thiên Chúa chính là hạnh phúc tối hậu mà con người khao khát. Thật vậy, con người tự nhiên ước ao hạnh phúc và điều gì được con người ước ao một cách tự nhiên thì cũng phải được nhận biết cách tự nhiên” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.2, a.1).
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, do đó, con người không bao giờ thỏa mãn với những gì mình biết trong thế giới thụ tạo mà còn mong mỏi được biết về những thực tại siêu việt, về Đấng Tuyệt Đối vượt trên thế giới hữu hình, Đấng có thể lấp đầy khoảng trống của tâm hồn mình. Con người luôn muốn tiếp cận và ở lại với chân (truth), thiện (goodness), mỹ (beauty) tuyệt đối. Tuy nhiên, chân, thiện, mỹ tuyệt đối không thuộc thế gian này. Đó là lý do tại sao con người không ngừng tìm kiếm. Là hữu thể hữu hạn nhưng tâm hồn con người luôn mở ra, luôn hướng về những gì vô hạn. Nhờ ân sủng của Thiên Chúa không ngừng tác động, con người sống trong hy vọng gặp gỡ Thiên Chúa vĩnh cửu. Theo thánh I-rê-nê (130-202): "Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống; còn sự sống của con người là được chiêm ngắm Thiên Chúa" [Gloria enim Dei vivens homo; vita autem hominis visio Dei] (Irenaeus of Lyons, Adversus Haereses IV, 20, 7). Thánh Tô-ma A-qui-nô khẳng định cách mạnh mẽ hơn: "Hạnh phúc sau cùng và trọn hảo không thể hệ tại nơi điều gì khác ngoài thị kiến yếu tính Thiên Chúa" (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-II, q.3, a.8).
Dưới nhãn quan của thánh Tô-ma A-qui-nô, với lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa qua ‘năm con đường’ (ngũ đạo, the five ways): (1) Chuyển động (Motion): Mọi hữu thể chuyển động đều cần hữu thể khác tác động; mà chuỗi các hữu thể tác động ấy không thể kéo dài vô hạn. Thiên Chúa chính là Động Cơ Đầu Tiên (Unmoved Mover); (2) Nguyên nhân (Cause): Không hữu thể nào là nguyên nhân của chính mình và chuỗi các nguyên nhân trung gian không thể kéo dài vô tận mà phải có nguyên nhân đầu tiên. Thiên Chúa chính là Nguyên Nhân Đầu Tiên; (3) Bất tất (Contingency): Vạn vật trong vũ trụ đều có thể hiện hữu hoặc không hiện hữu; nếu có những hữu thể bất tất thì phải có hữu thể tất yếu. Sự hiện hữu của Thiên Chúa chính là Hữu Thể Tất Yếu; (4) Thiện Hảo (Perfection): Các hữu thể trong vũ trụ khác nhau về mức độ thiện hảo; các mức độ thiện hảo chỉ có thể so sánh với mức độ thiện hảo tuyệt đối. Thiên Chúa chính là Thiện Hảo Tuyệt Đối của mọi sự thiện hảo; (5) Cứu cánh (Final Cause/ Purpose): Các hữu thể hiện diện và luôn hoạt động theo mục đích, chứ không phải ngẫu nhiên hay tình cờ; hữu thể không có trí tuệ không thể tự mình nhắm đến mục đích, trừ khi được một trí tuệ điều khiển. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, Thiên Chúa chính là Đấng An Bài và là Cứu Cánh Tối Hậu của vạn vật (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.2, a.3). Cũng theo thánh nhân: “Khi sự hiện hữu của nguyên nhân được chứng minh từ hiệu quả thì chính hiệu quả đảm nhận vai trò của định nghĩa về nguyên nhân trong việc chứng minh sự hiện hữu của nguyên nhân” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.2, a.2).
Trong Thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,20). Người ta thường nói ‘xem quả biết cây’, ‘cây lành sinh quả ngọt’ hay ‘nghe nhạc dạo, biết chương trình’. Qua thế giới thụ tạo, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách đích thực và hữu ích cho dù sự nhận biết đó chỉ là khởi đầu, còn nhiều giới hạn và mờ nhạt. Sự nhận biết này giúp con người ‘tiếp cận Thiên Chúa’. Tác giả Thánh Vịnh 19 viết: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19,2). Còn tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5). Như vậy, thế giới thụ tạo đóng vai trò như ‘trung gian’ giữa Thiên Chúa và con người, đồng thời, giúp con người cảm nghiệm được sự tốt lành của Thiên Chúa khi sáng tạo vạn vật. Thực ra, trong Thiên Chúa, ‘con người và trời xanh’ nên một với nhau bởi vì con người được gọi là ‘tiểu vũ trụ’ của muôn vật muôn loài.
Con người không chỉ có tri thức tự nhiên (natural knowledge) mà còn có tri thức siêu nhiên (supernatural knowledge). Trong đó, tri thức tự nhiên gắn liền với bản tính con người - thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Người; còn tri thức siêu nhiên là tri thức đức tin gắn liền với mặc khải của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là, nếu Thiên Chúa không mặc khải thì con người không thể đạt tới tri thức ấy. Nhờ Thiên Chúa mặc khải, con người có thể nhận biết rõ hơn về căn tính, đời sống và hoạt động của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa thật và con người thật, giữa gia đình nhân loại. Như vậy, ‘đối tượng’ của tri thức siêu nhiên bao gồm những gì vượt quá khả năng tự nhiên vốn có của con người. Nói cách khác, tri thức siêu nhiên phát xuất từ mặc khải của Thiên Chúa và được con người đón nhận trong đức tin nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Trong ‘Hiến Chế Tín Lý Về Đức Tin Công Giáo’ (Dei Filius) của Công Đồng Vatican I (1870) có đoạn: “Giáo Hội Công Giáo đã tin và vẫn tuyên xưng rằng có một trật tự nhận thức hai chiều, phân biệt không chỉ theo nguyên lý mà còn theo đối tượng: (1) Theo nguyên lý, vì chúng ta nhận biết theo một cách nhờ lý trí tự nhiên, và theo một cách khác nhờ đức tin thần linh; (2) theo đối tượng, vì ngoài những điều mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới, còn có những mầu nhiệm ẩn giấu trong Thiên Chúa được trình bày cho chúng ta để tin, mà nếu không được Thiên Chúa mặc khải thì con người không thể nào nhận biết được” (Dei Filius 4, DS 3015). Điều đáng để chúng ta ghi nhận là: Cả tri thức tự nhiên vốn khởi xuất từ lý trí và tri thức siêu nhiên vốn hệ tại ở đức tin đều phát xuất từ cùng một nguồn là ân sủng và mặc khải của Thiên Chúa.
2. NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA TRONG CỰU ƯỚC
Trong Cựu Ước, động từ יָדַע (yada) có các nghĩa chính: Biết, hiểu, nhận biết (to know, to understand, to recognize), trong đó nghĩa ‘biết’ (to know) được sử dụng phổ biến nhất. Động từ này được sử dụng rất đa dạng, chẳng hạn như ‘biết khách quan’: “Tôi quá rõ: Chúa thật là cao cả, Chúa chúng ta vượt trên hết chư thần” (Tv 135,5); ‘biết về tương quan liên vị’: “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr 1,5); ‘biết về tương quan giao ước’: “Giữa mọi thị tộc trên mặt đất, Ta đã chỉ biết các ngươi thôi” (Am 3,2). Danh từ của động từ יָדַע (yada) là דַּעַת (da‘at), nghĩa là kiến thức, tri thức, thông hiểu, hiểu biết, nhận biết. Danh từ דַּעַת (da‘at) thường đi kèm với danh từ חָכְמָה (ḥokmâh/ sự khôn ngoan) và tạo nên cặp từ song hành trong Cựu Ước: ‘Sự khôn ngoan và sự hiểu biết’ (Cn 2,6; Cn 3,19-20; Is 11,2). Thiên Chúa hằng bày tỏ thánh ý Người cho dân Do-thái và mời gọi họ nhận biết bao kỳ công vĩ đại Người đã thực thi vì họ trong dòng lịch sử. Chẳng hạn, Thiên Chúa phán dạy dân Do-thái qua trung gian Mô-sê như sau: “Các ngươi sẽ biết [וִידַעְתֶּם] rằng Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi, Đấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập” (Xh 6,7).
Động từ ‘biết’ còn được sử dụng với nhiều nghĩa khác nữa, chẳng hạn như ‘ăn ở vợ chồng’ (to have intercourse): “Con người ăn ở với E-và, vợ mình [וְהָאָדָם יָדַע אֶת־חַוָּה אִשְׁתּוֹ]. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in” (St 4,1). Động từ ‘biết’ được dịch ra tiếng Việt là ‘ăn ở’; bản dịch tiếng Anh (NRSV/ New Revised Standard Version) của câu này như sau: “The man knew his wife, and she conceived and bore Cain” (Gen 4,1). Tương tự như vậy: “Ông Ca-in ăn ở với vợ [וַיֵּדַע קַיִן אֶת־אִשְׁתּוֹ]. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc” (St 4,17); bản dịch tiếng Anh (NRSV/ New Revised Standard Version) của câu này như sau: “Cain knew his wife, and she conceived and bore Enoch” (Gen 4,17). Một số trích đoạn khác, động từ ‘biết’ cũng được hiểu tương tự, chẳng hạn như: St 19,25; Tl 19,22; 1 Sm 1,19. Trong Tân Ước bằng tiếng Hy-lạp, động từ ‘biết’ vẫn được sử dụng theo nghĩa tương tự, chẳng hạn: “Ông không ăn ở với bà [οὐκ ἐγίνωσκεν αὐτήν], cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (Mt 1,25); Bản dịch tiếng Anh KJV (King James Version): “[He] knew her not till she had brought forth her firstborn son and he called his name Jesus” (Mt 1,25). Trong tiếng Anh cũng như một số ngôn ngữ khác ‘biết nhau’ hay ‘không biết nhau’ (không ăn ở với nhau) là cách viết tế nhị diễn tả tương quan vợ chồng thân mật hay không thân mật với nhau. Như thế, Kinh Thánh sử dụng động từ ‘biết’ không chỉ để diễn tả sự hiểu biết trí tuệ, mà còn là biểu hiện của tương quan sâu xa, sống động và mang tính giao ước giữa Thiên Chúa và con người.
Trình thuật sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng con người được Thiên Chúa sáng tạo với khả năng lý trí, ý chí, tự do, luân lý cũng như tâm linh để làm lành lánh dữ phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Tương quan giữa Thiên Chúa và A-đam không theo nghĩa ‘thông thường’ mà là ‘tương quan giao ước’ (covenantal relationship). Thiên Chúa ban lệnh truyền trực tiếp cho A-đam ‘được ăn trái ở những cây nào’ cũng như ‘không được ăn trái ở cây nào’ và A-đam biết điều đó. Sách Sáng Thế không cho chúng ta ‘thông tin’ về việc Thiên Chúa có ban lệnh truyền cho E-và hay không. Tuy nhiên, E-và biết lệnh truyền của Thiên Chúa bởi vì chính E-và nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết” (St 3,2-3). Có lẽ E-và biết lệnh truyền của Thiên Chúa qua A-đam hay qua tiếng nói lương tâm của mình, lương tâm được Thiên Chúa phú ban theo bản tính. Tội của A-đam và E-và không phải là tội ‘thiếu hiểu biết’ mà là tội sử dụng lý trí, ý chí và tự do cách cố ý nghịch lại huấn lệnh của Thiên Chúa, nghiêng chiều về sự dữ. Dưới nhãn quan Cựu Ước, khi con người bất tuân huấn lệnh của Thiên Chúa cũng là khi nhận thức của con người trở nên u tối; đặc biệt, con người dễ dàng sa chước cám dỗ và rơi vào vòng nô lệ của tội lỗi. Tự thân, con người không thể giải thoát mình khỏi tình trạng bi đát.
Thiên Chúa mặc khải chính mình cho dân Do-thái và mời gọi họ ghi nhớ, sống và truyền lại cho hậu thế những gì Người mặc khải, chẳng hạn, Thiên Chúa phán: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4-7) hay: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20,2-3). Đức Chúa cho dân Do-thái biết rằng Người là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra không còn thần nào nữa. Lời Người trong sách ngôn sứ I-sai-a cũng khẳng định điều đó: “Ngoài Ta ra, không có thần nào nữa, chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại trừ Ta” (Is 45,21). Một mặt, dân Do-thái nhận biết rằng Thiên Chúa của họ cũng là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Mặt khác, dân Do-thái có vai trò đặc biệt là được Thiên Chúa tuyển chọn và thiết lập tương quan giao ước để qua đó mọi người trong gia đình nhân loại được kết nối. Buổi đầu, khi gọi Áp-ra-ham, Thiên Chúa nói với ông: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Như vậy, dân Do-thái không ‘sở hữu’ Thiên Chúa’ nhưng có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ phổ quát của Người đối với con người và muôn vật muôn loài. Nói cách khác, việc họ được tuyển chọn không chỉ là đặc quyền mà còn là sứ mệnh.
Qua Mô-sê, Thiên Chúa cho dân Do-thái nhận biết các giới răn của Người để họ có thể trung tín với giao ước đã ký kết (Đnl 30,1-20). Chẳng hạn, Thiên Chúa nói: “Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu” (Đnl 30,16). Để có thể nhận biết Thiên Chúa và có thể đi sâu vào mối tương quan liên vị với Người, dân Do-thái được mời gọi tuân giữ lề luật của Người. Hai câu đầu tiên trong Thánh Vịnh khởi đầu là: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1,1-2). Lời này không chỉ dành cho dân Do-thái mà còn cho mọi người thuộc mọi sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống hay bất cứ hình thức phân loại nào trong xã hội loài người vì lề luật của Thiên Chúa không chỉ là quy tắc luân lý mà còn là con đường dẫn tới sự sống và kết hiệp với Người.
Là người được giao phó trọng trách dẫn đưa dân Do-thái ra khỏi ách nô lệ Ai-cập, Mô-sê không ngừng chạy đến cùng Thiên Chúa để nhờ Người nâng đỡ phù trì. Ông muốn nhận biết đường lối của Thiên Chúa cũng như tôn nhan Người: “Nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài” (Xh 33,13). Niềm tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa trong bối cảnh Cựu Ước thường đi đôi với niềm ước mong ‘nhìn thấy tôn nhan Người’. Chẳng hạn, Mô-sê xin Đức Chúa: “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài” (Xh 33,18). Đức Chúa phán: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi và sẽ xưng danh Ta là Đức Chúa trước mặt ngươi… ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống" (Xh 33,19-20). Tác giả Thánh Vịnh 27 bày tỏ lòng mong mỏi tìm kiếm tôn nhan Thiên Chúa: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt” (Tv 27,7-9). Nhìn chung, dưới nhãn quan Cựu Ước, mong ước được nhìn thấy ‘tôn nhan Thiên Chúa’ hay ‘mặt Thiên Chúa’ nhiều khi mang tính biểu tượng nhằm diễn tả việc con người được hiệp thông với Người, ý thức về sự hiện diện, tình yêu và phúc lành của Người, chẳng hạn như, tác giả Thánh Vịnh 13 bày tỏ cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ?” (Tv 13,2).
Trong Cựu Ước, một số nhân vật được ‘thấy Thiên Chúa’, thậm chí là ‘diện đối diện’ với Thiên Chúa, chẳng hạn như Gia-cóp nói: “Tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng” (St 32,31) hay: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11) hay ông Gióp nói: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng kiến” (G 42,5). Ở đây, ‘thấy’ hay ‘mặt giáp mặt’ là những kinh nghiệm mang tính biểu tượng, sống động, thân mật, diễn tả mối tương quan sâu xa giữa con người với Thiên Chúa. Còn chính yếu tính Thiên Chúa thì không một phàm nhân nào, khi còn sống trong thân xác hữu hạn, lại có thể chiêm ngưỡng trực tiếp. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô: “Khi ông Gia-cóp nói ‘tôi đã thấy Thiên Chúa mặt đối mặt’ thì không phải là thấy yếu tính Thiên Chúa mà là một hình ảnh nào đó biểu hiện Người. Điều này thuộc về một hình thức cao cả của ơn ngôn sứ, đến độ Thiên Chúa có vẻ như đang nói qua một thị kiến tưởng tượng” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.12, a.11).
Dưới nhãn quan Cựu Ước, Thiên Chúa là Đấng toàn tri (Omniscient). Nghĩa là, từ đời đời, Người biết mọi sự, cả quá khứ, hiện tại, tương lai và cả những khả thể (futurabilia) có thể xảy ra (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.14, a.13). Tác giả Thánh Vịnh 139 viết về ‘tri thức’ của Thiên Chúa: “Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!” (Tv 139,6) hay: “Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể! Đếm sao nổi, vì nhiều hơn cát; dù có đếm xong, con vẫn ở với Ngài” (Tv 139,17-18). Thiên Chúa phán trong sách ngôn sứ I-sai-a: ”Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9); “Sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,9). Nói cách khác, tri thức Thiên Chúa siêu việt mọi hình thức nhận biết hay diễn tả của con người.
Các trình thuật Cựu Ước cho chúng ta biết rằng tri thức đức tin của con người là ‘thượng xuất’ (de superno), chứ không phải ‘hạ khởi’ (de inferiori). Điều này có nghĩa là đức tin không bắt đầu từ nỗ lực của con người tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng khởi đi từ chính Thiên Chúa, Đấng chủ động mặc khải và ban ơn. Đức tin, vì thế, là ân huệ từ trên cao, chứ không phải là thành quả tự thân của lý trí hay khát vọng của con người. Chẳng hạn, đức tin của Áp-ra-ham đến sau lời hứa của Thiên Chúa: “Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Điều này có nghĩa rằng tri thức đức tin đến từ việc Thiên Chúa ‘đi bước trước’ và con người thành tâm đón nhận nhờ lý trí và lòng muốn: Thiên Chúa biết con người trước khi con người nhận biết Thiên Chúa; Thiên Chúa yêu thương con người trước khi con người yêu thương Thiên Chúa; Thiên Chúa mời gọi con người trước khi con người thành tâm đáp lời Thiên Chúa. Chẳng hạn, lời của Thiên Chúa xác nhận về việc Người tuyển chọn và trao ban sứ vụ cho Áp-ra-ham: “Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Đức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực” (St 18,19). Trong Tông Huấn ‘Ánh Sáng Đức Tin’ (Lumen Fidei, 2013), Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô viết: “Đối với Áp-ra-ham, đức tin vào Thiên Chúa soi sáng chiều sâu hiện hữu của ông; đức tin giúp ông nhận ra suối nguồn của sự thiện hảo nơi khởi điểm của mọi loài và hiểu rằng cuộc đời mình không phải là sản phẩm của hư vô hay ngẫu nhiên nhưng là hoa trái của lời mời gọi và tình yêu cá vị” (Lumen Fidei 11).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thực hiện bao việc lạ lùng, chẳng hạn như Giu-se, người bị các anh mình bán sang Ai-cập, trở thành người giải cứu gia đình Gia-cóp khỏi cảnh chết đói. Trong hành trình về Đất Hứa, họ được Thiên Chúa nuôi sống bằng man-na. Tuy nhiên, trong khi họ nhận ra ‘công việc’ của Thiên Chúa thì họ lại không nhận ra ‘đường lối’ của Người. Tác giả Thánh Vịnh 103 viết rằng Thiên Chúa cho Mô-sê biết đường lối của Người. Mô-sê nói với dân Do-thái nhưng dân này vẫn luôn cứng lòng. Tác giả Thánh Vịnh 95 viết: “Suốt bốn mươi năm, dòng giống này làm Ta chán ngán, Ta đã nói: Đây là dân tâm hồn lầm lạc, chúng nào biết đến đường lối của Ta, nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Ta” (Tv 95,10-11). Biết ‘đường lối’ của Thiên Chúa luôn là điều cần thiết đối với dân Do-thái cũng như mọi người trong gia đình nhân loại. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã mặc khải ‘đường lối’ của Người cách sung mãn nhất qua Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Người.
3. NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA TRONG TÂN ƯỚC
3.1 Đức Giê-su Mặc Khải Chính Mình
Trong Lời Tựa Tin Mừng, thánh Gio-an Tông Đồ (người môn đệ được Đức Giê-su thương mến) cho mọi người biết rằng nhờ Đức Giê-su, con người ‘nhìn thấy’ hay ‘nhận biết’ Thiên Chúa, Đấng mà con người không ngừng mong mỏi đợi trông: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Với Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại, Thiên Chúa hiện diện cách hữu hình và hành động cách cụ thể, phù hợp với ‘tầm hiểu biết’ của con người. Đấng vô hình, vô thủy, vô chung lại được sinh ra trong không gian, thời gian và chịu chi phối bởi các giới hạn của trần thế. Là Con Thiên Chúa, Đấng siêu việt mọi chiều kích của thế giới thụ tạo, Đức Giê-su lại trở nên gần gũi với con người để họ có thể cảm nhận và thiết lập mối tương quan bền vững với Người. Đặc biệt, Đức Giê-su dạy cho mọi người nhận biết ý muốn của Thiên Chúa và cách thức thực hiện ý muốn của Người.
Cũng trong Lời Tựa Tin Mừng, thánh Gio-an viết như sau: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Những lời này của thánh Gio-an trở thành hiện thực trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ, dân Do-thái nói: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả” (Ga 7,27). Có lẽ những người Do-thái tại Đền Thờ dựa vào lời trong sách ngôn sứ Ma-la-khi để nói về Đức Giê-su: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người” (Ml 3,1). Điều này có nghĩa rằng không ai biết nguồn gốc của Đấng Mê-si-a vì Người đến lúc không ai ngờ tới. Quả thực, họ biết ‘nguồn gốc nhân loại’ của Đức Giê-su là thuộc gia đình Na-da-rét nhưng họ không đọc được những dấu chỉ Đức Giê-su thực hiện để nhận biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến. Đó là lý do tại sao Đức Giê-su nói với họ: “Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi” (Ga 7,28-29). Trước khi là thành phần trong gia đình Na-da-rét hay thành phần trong gia đình nhân loại, Đức Giê-su là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, được sinh ra từ trước muôn đời.
Để nhận biết Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Người cũng như phản chiếu hình ảnh của Người, con người cần phải có tâm hồn trong sạch. Trong bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Với Đức Giê-su, ‘tâm hồn trong sạch’ không chỉ mang nghĩa luân lý là tâm hồn không vướng bợn nhơ tội lỗi hay hướng chiều về sự dữ mà còn là tâm hồn hướng chiều về Thiên Chúa với ý chí, lý trí và ước muốn ngay lành. Những người như thể luôn quan tâm ‘những gì thuộc thượng giới’, quan tâm đời sống mai sau của mình. Tâm hồn trong sạch chính là tâm hồn luôn dành chỗ cần thiết cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, tâm hồn tràn ngập niềm tin, tình yêu và hy vọng vào chương trình của Thiên Chúa đối với bản thân và anh chị em đồng loại. ‘Người nhìn thấy Thiên Chúa’ cũng là người nhìn thấy tha nhân, nhất là những người đau khổ, mọn hèn, yếu đuối và sẵn sàng nâng đỡ họ theo thánh ý Thiên Chúa. Với tâm hồn trong sạch, con người có thể phản ánh hình ảnh Thiên Chúa nơi bản thân mình cách trung thực hơn. Ngược lại, tâm hồn không trong sạch thì không thể tiếp nhận và phản chiếu tình yêu Thiên Chúa cho anh chị em mình cũng như vạn vật cách xứng hợp.
Khi loan báo Tin Mừng, có người thanh niên giàu sang hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" (Mt 19,16). Đối với văn hóa Do-thái cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, phú túc giàu sang là ‘ân huệ trời ban’. Người thanh niên ấy có nhiều của cải và nhận biết nhiều điều nhưng vẫn không thể biết được điều gì có thể dẫn mình đến sự sống đời đời. Sau khi Đức Giê-su hỏi anh về việc giữ các giới luật và anh cho biết rằng mình đã tuân giữ đầy đủ, Đức Giê-su bảo anh hãy bán tài sản và phân phát cho người nghèo rồi theo Người. Nghe vậy, người thanh niên buồn rầu bỏ đi (Mt 19,21). Câu trả lời của Đức Giê-su cho thấy rằng người giàu phải biết chia sẻ những gì mình có với anh chị em đồng loại. Với Đức Giê-su, những ai thực sự theo Người không chỉ từ bỏ của cải vật chất mà còn sẵn sàng từ bỏ bất cứ điều gì cản trở mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, với anh chị em và với toàn thể thế giới thụ tạo.
Nhiều người đến với Đức Giê-su với những ‘động cơ’ không phù hợp với đường lối của Người. Điều họ tìm kiếm không phải là những nhu cầu thuộc về tâm hồn mà là những nhu cầu thuộc về thể xác; không phải là các giá trị siêu việt mà là những lợi ích hữu hạn; không phải là kho tàng trường cửu mà là những gì tạm bợ chóng qua. Chẳng hạn, sau khi Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn, Người lặng lẽ lên núi cầu nguyện một mình. Ngay đêm hôm ấy, khi các môn đệ đang vật lộn giữa sóng to gió lớn trên Biển Hồ Ga-li-lê, Đức Giê-su đã đến với họ, bước đi trên mặt nước và cứu giúp họ. Hôm sau, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um, dân chúng liền lũ lượt kéo đến tìm Người. Đức Giê-su bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Người còn nói với họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6,35). Đức Giê-su cho họ biết rằng Mô-sê cầu xin Thiên Chúa cho tổ tiên họ ăn man-na, còn Người lại trao ban chính mình làm Của Ăn đem lại sự sống đời đời. Quả thực, Đức Giê-su của Giao Ước Mới cao trọng hơn Mô-sê của giao ước cũ bội phần.
Với Đức Giê-su, con người không thể nhận biết Người trong Bí Tích Thánh Thể bằng kiến thức thông thường mà là ‘kiến thức đức tin’ dựa trên mặc khải của Người như lời Người nói với dân Do-thái: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40). Đức Giê-su cho người Do-thái cũng như mọi người trong gia đình nhân loại biết rằng Người là ‘Đấng nhân danh Chúa mà đến’ và ai ‘ăn Người’ thì được sống muôn đời: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Công Đồng Tren-ti-nô (1545-1563) khẳng định: “Trong Bí Tích rất cao cả là Bí Tích Thánh Thể, sau khi bánh và rượu được truyền phép, Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa thật và người thật, hiện diện cách đích thực, thực sự và theo bản thể dưới hình dạng các yếu tố hữu hình đó” (DS 1651). Do đó, ai ăn cơm bánh hằng ngày, ăn man-na hay ăn bánh được Đức Giê-su hóa nhiều rồi cũng phải chết. Còn ai ăn Bánh Hằng Sống, ăn Đức Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể thì ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga 6,54-56).
Đức Giê-su cho mọi người biết rằng ai nhận biết Người thì được cùng Người chung hưởng sự sống đời đời: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời, và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Nhận biết của Đức Giê-su không phải là chọn lựa giữa muôn vàn chọn lựa của con người trong hành trình trần thế mà là chọn lựa duy nhất làm cho cuộc sống trần gian có ý nghĩa và bảo đảm cho tương lai tươi sáng trong trời mới đất mới nơi Đức Giê-su ngự trị (Kh 22,3–5). Trong Thư thứ nhất, thánh Gioan Tông Đồ khẳng định: “Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống. Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời” (1 Ga 5,12-13). Như vậy, nhận biết Đức Giê-su hay nhận biết Con Thiên Chúa là câu trả lời cho những ai quan tâm về sự sống đời đời của bản thân cũng như của mọi người trong gia đình nhân loại.
Dù là Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Đức Giê-su luôn sống trong tâm tình vâng phục Chúa Cha và quy hướng mọi sự về Chúa Cha. Điều này giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự tự hạ và khiêm nhường của Người, đồng thời mời gọi chúng ta sống tinh thần vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Trước những người Do-thái cứng lòng không chịu tin, Đức Giê-su nói với họ: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì” (Ga 12,49). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Tinh thần khiêm nhường, tự hạ, vâng phục của Đức Giê-su không chỉ là bài học cho các tín hữu mà còn cho mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi.
Đức Giê-su không bao giờ nói nguyên văn rằng: “Tôi là Thiên Chúa” (ἐγώ εἰμι ὁ Θεός). Tuy nhiên, lời nói của Người giúp những ai lắng nghe nhận ra Người là Thiên Chúa, chẳng hạn, Người nói với những người Do-thái rằng Người là ‘Đấng Hằng Hữu’ (Ga 8,24; Ga 8,58). Theo Kinh Thánh, chỉ một mình Thiên Chúa là ‘Đấng Hằng Hữu’, Đấng hiện hữu tự thân, là Khởi Nguyên và Cùng Đích của con người và vạn vật. Để con người có thể nhận biết căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người cách dễ dàng hơn, Đức Giê-su dùng nhiều hình ảnh khác nữa, chẳng hạn như Người là Ánh Sáng, Cửa Chuồng Chiên, Mục Tử Nhân Lành, Sự Sống, Cây Nho. Những phép lạ hay dấu chỉ Đức Giê-su thực hiện giúp mọi người nhận biết rằng Người là Thiên Chúa, chẳng hạn như Người chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, tha tội, hồi sinh kẻ chết. Trong dịp Lễ Cung Hiến Đền Thờ, Đức Giê-su cho mọi người đang quy tụ ở Giê-ru-sa-lem biết rằng Người và Chúa Cha là một (Ga 10,30). Đặc biệt, Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, phục sinh và lên trời để cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Trước khi về trời, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Như vậy, quyền năng của Thiên Chúa chính là quyền năng đã được Đức Giê-su thể hiện vì con người và cho con người. Sau khi hoàn tất hành trình trần thế, Đức Giê-su đã ủy thác cho các môn đệ tiếp tục sứ mệnh của Người đối với muôn dân nước.
3.2 Nhận Biết Chúa Cha Và Chúa Thánh Thần Nhờ Đức Giê-su
Hành trình trần thế của Đức Giê-su là ‘hành trình được định hướng’, hướng về Chúa Cha. Quả thực, ‘là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha’ nhưng Đức Giê-su luôn mời gọi mọi người hướng lòng về Chúa Cha. Chẳng hạn, “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7,16); “Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8,28); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,46). Trong mọi hành động và lời nói, Đức Giê-su đều nhằm mặc khải Chúa Cha, làm vinh danh Người, thi hành công trình cứu độ của Người và dẫn nhân loại vào hiệp thông với Người.
Đức Giê-su hằng chu toàn thánh ý Chúa Cha: “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc” (Ga 5,19-20). Đức Giê-su luôn quy hướng mọi sự về Chúa Cha: “Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). Nói cách khác, những công việc của Đức Giê-su cũng chính là những công việc của Chúa Cha và ngược lại. Ai chứng kiến những công việc của Đức Giê-su thì đặt niềm tin vào Người: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó” (Ga 10,37-38). Quả thực, chính những hành động của Đức Giê-su đã nói lên tất cả bởi vì những hành động đó mặc khải căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người.
Đức Giê-su biết rõ Chúa Cha và Chúa Cha biết rõ Đức Giê-su, nhờ đó Người mặc khải Chúa Cha cho mọi người: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Mt 11,27). Trong ‘Diễn Từ Bánh Hằng Sống’, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6,46-47). Như thế, ‘tri thức’ của Đức Giê-su về Chúa Cha là tri thức trọn vẹn. Trong thân phận con người, Đức Giê-su đã chia sẻ tri thức đó cho con người để họ ngày càng nhận biết rõ hơn về đời sống nội tại của Người với Chúa Cha. Đồng thời, nhờ Đức Giê-su, con người mới có thể nhận biết rằng Chúa Cha và Người luôn hiệp nhất nên một với nhau trong chương trình sáng tạo, cứu độ và thánh hóa.
Đức Giê-su cũng mặc khải cho mọi người nhận biết rằng sở dĩ con người đến được với Người là nhờ Chúa Cha soi dẫn và thúc đẩy trong tâm hồn: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44); chứng kiến một số môn đệ vẫn không tin vào lời của Người, Đức Giê-su nói với họ: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Trong lời cầu nguyện trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su thân thưa cùng Chúa Cha: “Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha” (Ga 17,6). Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi vào mối thông hiệp trọn vẹn giữa Đức Giê-su và Chúa Cha. Chẳng hạn, Người nói với các môn đệ sau khi họ trở về từ việc loan báo Tin Mừng đạt nhiều thành quả tốt đẹp: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” (Lc 10,22). Việc nhận biết Đức Giê-su và Chúa Cha nên một với nhau cho phép con người hành động xứng hợp với phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Không chỉ Đức Giê-su biện hộ cho chính Người mà Chúa Cha cũng làm chứng cho Đức Giê-su. Trong ‘Diễn Từ Về Công Việc Của Chúa Con’, trước những người Do-thái cứng lòng, Đức Giê-su nói: “Phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: Đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi” (Ga 5,36-37). Khi ‘tranh luận về lời chứng của Đức Giê-su liên quan đến bản thân Người’, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi” (Ga 8,17-18). Khi Đức Giê-su loan báo rằng nhờ cái chết của Người, Người sẽ được tôn vinh, Người thân thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12,28). Ngay lúc đó, có tiếng từ trời phán xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12,28).
Khi các môn đệ xin Đức Giê-su dạy họ cách thức cầu nguyện, Người bảo họ thân thưa với Chúa Cha như sau: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10). Để củng cố đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đức Giê-su nói với những ai theo Người: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12,32). Trong Lời Tựa Tin Mừng, thánh Gio-an viết rằng những ai tin vào Người thì Người ban cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12). Thánh nhân cũng trình thuật lời Đức Giê-su phục sinh nói với Ma-ri-a Mác-đa-la rằng: “Hãy đi gặp anh em Thầy và nói với họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Như vậy, nhờ Đức Giê-su, phẩm giá con người trở nên cao trọng hơn bởi vì con người không chỉ được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa mà còn được trở nên con cái Thiên Chúa trong hành trình trần thế và trong Quê Hương vĩnh cửu.
Mở đầu Thư thứ nhất, thánh Gio-an Tông Đồ viết rằng điều mà ngài cũng như các môn đệ đã nghe, đã thấy tận mắt, đã chiêm ngưỡng và tay đã chạm đến là Đức Giê-su, Lời sự sống, sự sống đời đời, sự sống hằng hướng về Chúa Cha thì ngài và các môn đệ loan báo cho mọi người. Nhờ đó, mọi người được hiệp thông với các ngài, với Đức Giê-su và với Chúa Cha (1 Ga 1,1-4). Trong ‘Diễn Từ Bánh Hằng Sống’ tại Ca-phác-na-um, Đức Giê-su nói với những người Do-thái: ”Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,37-38). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn Đức Giê-su nói với các môn đệ thân tín của Người: ”Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha” (Ga 16,28). Như vậy, Quê Hương của Đức Giê-su cũng là Quê Hương của các môn đệ Người qua muôn thế hệ. Điều này có nghĩa rằng những ai tin tưởng, yêu mến và thực thi thánh ý Người thì được cùng Người đến với Chúa Cha.
Nhờ Đức Giê-su mặc khải, con người mới nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất, đồng thời, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hiệp nhất nên một với nhau trong đời sống nội tại cũng như trong chương trình cứu độ nhân loại. Đặc biệt, qua ‘Diễn Từ Ly Biệt’, Đức Giê-su cho các môn đệ biết về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn, Đức Giê-su nói: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16); “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26); “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26). Đặc biệt, Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa các môn đệ đến chân lý trọn vẹn (Ga 16,13). Sau này, khi suy tư về Chúa Thánh Thần, thánh Tô-ma A-qui-nô viết: “Mọi chân lý, bởi bất kỳ ai nói ra, đều đến từ Chúa Thánh Thần [omne verum a quocumque dicatur a Spiritu Sancto est], vì chính Người ban ánh sáng tự nhiên và thúc đẩy chúng ta hiểu biết cũng như nói ra sự thật” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-II, q.109, a.1).
3.3 Các Môn Đệ Nhận Biết Và Hiệp Thông Với Đức Giê-su
Trình thuật Tin Mừng cho chúng ta nhận biết rằng các môn đệ được đồng hành cùng Đức Giê-su trong khoảng ba năm. Tuy nhiên, sự nhận biết của các ngài về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su vẫn rất hạn chế. Một trong những nguyên nhân chính yếu là vì các ngài quá bận tâm những điều ‘thuộc về thế gian’ hơn là những điều ‘thuộc về Thiên Chúa’. Không chỉ Giu-đa hay Phê-rô, các môn đệ khác cũng chưa đủ xác tín cần thiết trong hành trình theo Người. Điều này được thể hiện cách rõ nét trong cuộc thương khó của Đức Giê-su: Giu-đa nộp Đức Giê-su, Phê-rô chối Đức Giê-su; ngoại trừ thánh Gio-an Tông Đồ, tất cả các môn đệ còn lại đều bỏ trốn. Chính nhờ Đức Giê-su phục sinh hiện ra để an ủi và hướng dẫn, cùng với sự nâng đỡ và đồng hành của Chúa Thánh Thần, các ngài mới có thể can đảm thi hành thánh ý Thiên Chúa cách xứng hợp.
Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta biết rằng Tô-ma đã không ở cùng các môn đệ khác của Đức Giê-su khi Người hiện ra lần đầu tiên sau khi Người phục sinh. Các môn đệ kể lại cho Tô-ma nhưng ông không tin. Ông nói với họ: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Khi Đức Giê-su phục sinh xuất hiện thì Tô-ma không thực thi các bước như ‘xỏ ngón tay vào lỗ đinh’ hay ‘đặt bàn tay vào cạnh sườn Đức Giê-su’ nhưng đã tuyên xưng đức tin cách xứng hợp nhất: Đức Giê-su không chỉ là Chúa mà còn là Thiên Chúa. Quả thực, các môn đệ Đức Giê-su đều tuyên xưng Người là Chúa (Κύριός/ Lord, Sir, Master) hay Đấng từ Thiên Chúa mà đến (Ga 16,30); Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,16). Trong khi đó, Tô-ma là môn đệ duy nhất nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa (Θεός/ God). Như vậy, ‘môn đệ chậm tin nhất’ lại trở thành người môn đệ đầu tiên tuyên xưng cách trực tiếp và rõ ràng rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa. Tô-ma không hề đụng chạm vào thân thể Đức Giê-su phục sinh. Sự hiện diện của Đức Giê-su và lời của Người đủ để Tô-ma vững tin vào Người. Tâm hồn Tô-ma đã hoán cải, đã mở ra với lòng thương xót của Chúa. Quả thực, diện kiến Đức Giê-su phục sinh vượt quá sự đòi hỏi của giác quan. Điều mà Tô-ma từng thấy cần thiết hay có giá trị bậc nhất trong quá khứ thì nay không còn cần thiết nữa. Tô-ma không chạm đến Đức Giê-su ‘bằng tay’ của mình nhưng đã chạm đến Người ‘bằng tâm hồn’ và tâm hồn Tô-ma đã biến đổi. Tô-ma đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Đức Giê-su liền nói với Tô-ma cũng như các môn đệ: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Tô-ma nghi ngờ, sau đó được thấy và tin vào Người. Đức tin của các Ki-tô hữu qua mọi thời cũng chính là đức tin của Tô-ma khi gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh. Lời của Đức Giê-su ‘phúc thay những người không thấy mà tin!’ trở thành động lực cho những ai tín thác vào Người qua muôn thế hệ.
Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau là một trong những trình thuật điển hình của việc nhận biết Đức Giê-su và ‘biến đổi cuộc đời mình’. Quả thực, trong tâm trạng thất vọng, hai môn đệ trở về cố hương của mình là Em-mau, thuộc hướng Tây của Giê-ru-sa-lem, hướng mặt trời lặn, hướng đêm tối. Đức Giê-su phục sinh đã xuất hiện và giảng giải Kinh Thánh cho họ, nhờ đó, họ hiểu biết hơn về Người. Đặc biệt, qua việc mời Đức Giê-su ở lại dùng bữa tối và chứng kiến việc Người bẻ bánh, họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất. Họ bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,32). ‘Lòng bừng cháy, chân bước đi’, họ đã quay lại Giê-ru-sa-lem, hướng Đông, hướng mặt trời mọc, hướng về Đức Giê-su, Mặt Trời Công Chính, để cùng với các môn đệ khác loan báo Tin Mừng phục sinh. Như vậy, hai môn đệ Em-mau vừa nhận biết Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của họ trong hành trình loan báo Tin Mừng mà cao điểm là cái chết trên thập giá, vừa nhận biết Đức Giê-su phục sinh luôn đồng hành với họ. Nhờ đó, họ có được kinh nghiệm sâu xa về Người và trở nên những chứng nhân đích thực của Người cũng như Tin Mừng của Người giữa gia đình nhân loại.
Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ trình bày nhiều nhân vật điển hình trong hành trình nhận biết Đức Giê-su và biến đổi đời mình. Một trong số đó là Sao-lô. Người thanh niên có tên là Sao-lô (sau này được gọi là Phao-lô) lần đầu tiên được nhắc đến trong biến cố thánh Tê-pha-nô bị ném đá (Cv 7,58). Chính Sao-lô đã tán thành việc Tê-pha-nô bị ném đá (Cv 8,1). Với sự ủy quyền của giới lãnh đạo Do-thái Giáo, nhất là Thượng Hội Đồng (Sanhedrin) và các thượng tế ở Giê-ru-sa-lem, Sao-lô là một trong những người ‘nhiệt thành bắt bớ các Ki-tô hữu’. Tuy nhiên, Sao-lô đã gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh và hoán cải từ người bắt bớ các Ki-tô hữu trở thành Ki-tô hữu trung tín nhất. Biến cố hoán cải của ngài được trình thuật cách cụ thể trong sách Tông Đồ Công Vụ (Cv 9,1-19). Lần đầu tiên, cái tên ‘Phao-lô’ được đề cập trong câu chuyện ngài đối diện với thầy phù thủy tên là Ê-ly-ma (Cv 13,4-12). Từ đó, tên ‘Sao-lô’ không còn được dùng trong sách Tông Đồ Công Vụ mà là ‘Phao-lô’. Nhờ cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su phục sinh, sự nhận biết của Phao-lô về chính Đức Giê-su và các Ki-tô hữu đã hoàn toàn biến đổi. Thay vì bắt bớ các Ki-tô hữu, thánh nhân đã đi khắp các dân tộc vùng Địa Trung Hải loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người. Nhận thức của thánh nhân về Đức Giê-su và chương trình của Người được thánh nhân diễn tả cách phong phú và cụ thể trong các Thư của ngài.
Trong hành trình loan báo Tin Mừng, không phải tất cả những người Pha-ri-sêu đều phê bình hay chỉ trích Đức Giê-su về lời nói cũng như việc làm của Người. Trong Giáo Hội sơ khai cũng vậy, một số người Pha-ri-sêu tôn trọng các môn đệ Đức Giê-su cũng như sứ điệp mà các ngài loan báo. Chẳng hạn, trong khi nhiều thành viên khác của Thượng Hội Đồng Do-thái muốn bắt và kết án các môn đệ Đức Giê-su, có một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên đã bênh vực các ngài. Đặc biệt, ông thể hiện lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi cho rằng những người như Thêu-đa đứng lên kêu gọi được khoảng 400 người theo ông nhưng cuối cùng Thêu-đa bị giết và những người theo ông phải tản mác; hay Giu-đa người Ga-li-lê cũng nổi lên lôi cuốn dân chúng nhưng cũng đã bị giết và những người theo ông cũng bỏ chạy. Đặc biệt, ông thành thực tuyên bố: “Tôi xin nói với quý vị: Hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá hủy được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa” (Cv 5,38-39). Khi nghe Ga-ma-li-ên trình bày như vậy, những người trong Thượng Hội Đồng tán thành cách nhìn nhận của ông và không ra tay làm hại các môn đệ Đức Giê-su trong khi các ngài tiếp tục sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
Đối với thánh Phao-lô, nhận biết Đức Giê-su quan trọng hơn bội phần so với những kinh nghiệm mà ngài từng nếm trải trong tư cách là ‘một Pha-ri-sêu nhiệt thành nhất’ (Cv 23,6; 26,5; Pl 3,5-6). Nhận biết Đức Giê-su đi đôi với việc biến đổi tầm nhìn, quan điểm sống và bậc thang giá trị mà ngài toàn tâm theo đuổi trong quá khứ. Thánh nhân bày tỏ: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (Pl 3,7-8). Vấn đề cốt lõi của thánh nhân là nhận biết và dõi theo Đức Giê-su trên con đường mới: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Đối với thánh nhân, nhận biết Đức Giê-su cách chân thành mang lại ơn ích sâu xa cho chính bản thân ngài hơn những gì thế gian có thể ban tặng. Đặc biệt, nhận biết Đức Giê-su cũng đồng nghĩa với nhận biết tình yêu và quyền năng cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua Người.
Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại liên quan trực tiếp đến ba thực thể đáng được chúng ta quan tâm nhất là: Tôn giáo (Do-thái Giáo), văn hóa (Hy-lạp) và xã hội (La-tinh). Người Do-thái luôn nhớ đến những kỳ công vĩ đại Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử dân tộc họ; người Hy-lạp đề cao khôn ngoan như con đường để tiếp cận và lý giải các thực tại siêu nghiệm, tối cao; người La-tinh đặt trọng tâm nơi luật pháp và trật tự xã hội. Trong khi đó, thánh Phao-lô lại loan báo Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá và khẳng định rằng thập giá là tột đỉnh của khôn ngoan (Crux est summitas sapientiae). Nói cách khác, ‘tri thức’ mà thánh nhân loan báo là ‘tri thức của Thiên Chúa’ được thể hiện trong hành trình trần thế của Đức Giê-su mà tột đỉnh là Biến Cố Thập Giá. Đây là hình thức tri thức hoàn toàn mới mẻ không những cho dân Do-thái, Hy-lạp, Rô-ma mà còn cho mọi dân tộc trong đại gia đình nhân loại. Thánh nhân viết: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,22-23). Đối với thánh Phao-lô, sự vĩ đại của Đức Giê-su không được biểu lộ qua những điều bắt mắt, hào nhoáng hay kỳ diệu theo tiêu chuẩn trần thế nhưng qua tình yêu tự hiến trên thập giá. Đây là hình thức tình yêu vừa gần gũi, vừa sâu đậm nhất vì gắn liền với thân phận đau khổ của con người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế.
Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, các môn đệ ngày càng nhận biết Đức Giê-su và chương trình trần thế của Người cách trọn vẹn hơn. Chẳng hạn, thánh Phao-lô viết: “Chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5,7) hay: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Còn tác giả Thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có” (Dt 11,3). Tương tự như vậy, khi con người đặt niềm hy vọng (đức cậy) vào Đức Giê-su cũng là khi con người nhận biết Đức Giê-su và chương trình cứu độ của Người cách phù hợp và sâu xa nhất. Chẳng hạn, thánh Phao-lô viết: “Ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng” (Rm 5,4-5) hay: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh” (Ep 1,17-18). Ai đặt niềm tin và hy vọng xứng hợp vào Đức Giê-su thì sẽ được Chúa Thánh Thần soi sáng hầu có thể nhận diện cách sâu xa hơn Giới Răn Mới (yêu như Đức Giê-su yêu) trong Giao Ước Mới mà chính Đức Giê-su đã thiết lập. Chẳng hạn, thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1 Ga 4,12) hay: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8). Dưới nhãn quan của thánh Gio-an, tình yêu đích thực phát xuất từ Thiên Chúa và được Đức Giê-su thể hiện trong hành trình trần thế mà tột đỉnh là Biến Cố Thập Giá. Đây là tình yêu vô điều kiện, tình yêu hy sinh, tình yêu quên mình, tình yêu trao ban trọn vẹn (ἀγάπη/ agápē). Đây chính là tình yêu của người thực sự hiệp thông với Thiên Chúa và nhận biết Người cách tỏ tường nhất.
4. THEO ĐƯỜNG NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA
4.1 Đời Sống Theo Đường Nhận Biết Thiên Chúa
Trong Bữa Tiệc Ly (the Last Supper) của Đức Giê-su và các môn đệ, ông Tô-ma hỏi Người: Nếu chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao có thể biết được đường? Đức Giê-su trả lời rằng chính Người là Đường (Ga 14,5-6). Những trình bày trên đây cho phép chúng ta khẳng định rằng Đức Giê-su là ‘Đường Nhận Biết Thiên Chúa’. Người nhận biết Đức Giê-su cũng là người ý thức cách thấu đáo về sự cần thiết phải hoán cải và điều chỉnh cuộc sống của mình theo giáo huấn của Người, nhờ sự đồng hành và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (Ga 14,26). Sự nhận biết Đức Giê-su giúp mọi người thiết lập tương quan mật thiết với Người, với anh chị em và với thế giới thụ tạo. Quả thực, nhận biết Đức Giê-su đi đôi với việc thay đổi lối sống của bản thân sao cho ngày càng phù hợp hơn với thánh ý Người hầu có thể cộng tác với Người không chỉ trong việc biến đổi bản thân mà còn trong việc biến đổi các hình thức cộng đoàn nơi bản thân hiện diện và hoạt động. Hơn nữa, việc nhận biết Đức Giê-su cho phép con người có tầm nhìn sâu rộng hơn về chương trình cứu độ được Người thực hiện không chỉ cho toàn thể nhân loại mà còn cho vạn vật trong thế giới thụ tạo.
Đối với thánh Phao-lô, ai thực sự nhận biết Đức Giê-su thì sẽ rập khuôn đời sống của mình theo thánh ý của Người và nên đồng hình đồng dạng với Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20) hay: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Ai sống đời thân mật với Đức Giê-su thì nên một tinh thần với Người (1 Cr 6,17). Ai đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su thì trở nên thụ tạo mới (2 Cr 5,17). Đặc biệt, ai nên một với Đức Giê-su nhờ Bí Tích Thánh Tẩy nghĩa là được dìm trong cái chết của Người, thì cũng được nên một với Người trong sự phục sinh vinh hiển của Người (Rm 6,1-5). Dĩ nhiên, ai nên một với Đức Giê-su, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, thì cũng nên một với Chúa Cha, với anh chị em và với muôn vật muôn loài.
Ai nhận biết Đức Giê-su thì cũng nhận biết tình trạng tâm hồn mình để cộng tác với Người trong việc biến đổi bản thân hầu ngày càng xứng đáng hơn với tình thương của Thiên Chúa bởi vì Người là: “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103,8) hay: “Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, … Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (Hs 11,9). Khi diễn tả tình yêu cao cả nhất, tình yêu hy sinh tính mạng vì bạn hữu, Đức Giê-su nói rằng Người không gọi các môn đệ mình là tôi tớ mà là bạn hữu vì những gì Người biết nơi Chúa Cha thì Người đã mặc khải cho họ (Ga 15,15). Khi con người biết ăn năn hối cải và quay trở về với Thiên Chúa cũng là khi con người càng trở nên thánh thiện hơn. Do đó, đời sống thánh thiện chính là đời sống cho phép con người ngày càng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa. Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, hoán cải không phải là biến cố ‘một lần cho tất cả’ (once-and-for-all-event) mà là tiến trình liên tục của những ai nhận biết, yêu mến, tin tưởng và dõi theo Đức Giê-su.
Như đề cập ở trên, con người không ngừng tìm kiếm ý nghĩa của đời mình cũng như tương quan giữa bản thân với Thiên Chúa. Dưới nhãn quan của thánh Au-gút-ti-nô, khi con người càng nhận biết bản thân, con người càng nhận biết Thiên Chúa và ngược lại. Trong cuốn ‘Tự Vấn/ Độc Thoại’ (Soliloquies), thánh nhân viết: “Lạy Thiên Chúa luôn luôn bất biến, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa” [Deus semper idem: Noverim me, noverim te] (Augustine, Soliloquies [Tự Vấn], Book II, 1). Thực ra, việc nhận biết chính mình không hề dễ dàng. Chính thánh Phao-lô cũng có kinh nghiệm này khi viết: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15) hay: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Nhiều người nhận biết Đức Giê-su và trở nên Ki-tô hữu nhờ Bí Tích Thánh Tẩy. Tuy nhiên, họ trở thành ‘những người hữu danh vô thực’ bởi vì họ không màng quan tâm những điều Đức Giê-su truyền dạy. Khi triển khai bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Trong Thư gửi Ti-tô, thánh Phao-lô viết về những thầy dạy giả mạo và những người sống vô luân trong cộng đoàn Ki-tô hữu ở đảo Cơ-rê-ta: “Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời, và không có khả năng làm việc gì tốt” (Tt 1,16). Như đề cập ở trên, trong bối cảnh Kinh Thánh, ‘biết’ hay ‘nhận biết’ đi đôi với việc trung thành, gắn bó và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ai thực sự nhận biết Đức Giê-su thì được thông hiệp với ánh nhìn của Người hướng về Chúa Cha: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) hay: "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Người nhận biết Đức Giê-su thì thực hiện lời Người truyền dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15,13-14). Trong Thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: Là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2,3-4). Giới răn căn bản của Đức Giê-su là Giới Răn Mới, giới răn yêu thương theo cách thức Đức Giê-su đã yêu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Tình yêu Đức Giê-su dành cho các môn đệ cũng chính là tình yêu từ Chúa Cha như lời Người nói với họ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9). Quả thực, muôn vàn hình thức yêu thương được diễn tả trong gia đình nhân loại nhưng yêu thương như Đức Giê-su là Giới Răn Mới bởi vì đây là hình thức yêu thương vừa gần gũi, vừa siêu việt mọi hình thức yêu thương mà con người có kinh nghiệm trong cuộc sống mình. Các Ki-tô hữu được mời gọi yêu anh chị em mình theo cách thức Đức Giê-su yêu: Tình yêu luôn đi ra, luôn lan tỏa và vượt xa mọi khả năng cảm nhận của con người. Trong Tông Huấn ‘Niềm Vui Tin Mừng’ (Evangelii Gaudium, 2013), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Mỗi khi đôi mắt chúng ta được mở ra để nhận biết tha nhân, chúng ta được lớn lên trong ánh sáng của đức tin và sự hiểu biết về Thiên Chúa” (Evangelii Gaudium 272).
Một trong những hình thức khủng hoảng dai dẳng nhất của gia đình nhân loại qua muôn thế hệ là ‘khủng hoảng chân lý’. Nhiều người thường dồn năng lực của mình vào những gì chóng qua, mau tàn hơn là những gì bền vững, chắc chắn. Chẳng hạn, nhiều người chủ trương sống nhanh, sống gấp mà không màng quan tâm tình trạng mình đang sống. Họ quan tâm những gì có thể ‘cân đong đo đếm’, những gì có thể ‘quy thóc’ hơn là những gì làm cho phẩm giá mình được tôn trọng, triển nở và thăng tiến dưới ánh sáng chân lý. Tâm hồn họ bị xâm chiếm bởi những gì ‘thuộc về đám đông’ hơn là những gì chân thật nhưng được ít người quan tâm, để ý. ‘Hiệu ứng đám đông’ nhiều khi làm cho họ sai lạc và bị lôi cuốn vào những điều mà bản thân không biết dừng lại để tìm hiểu, đánh giá, phân định cách chu đáo. Quả thực, ‘chân lý không lệ thuộc vào đám đông’; tiếng tung hô của đám đông nhiều khi đi ngược lại với chân lý. Những gì xảy ra trong hành trình trần thế của Đức Giê-su, đặc biệt, trong Biến Cố Thập Giá là minh chứng cụ thể nhất cho những ai thành tâm tìm kiếm chân lý, sống theo chân lý và loan truyền chân lý cho anh chị em đồng loại. Đức Giê-su là Chân lý! Là Ki-tô hữu, chúng ta thâm tín rằng những ai nhận biết Đức Giê-su và trung tín theo Người thì không bao giờ đơn độc dù phải đi một mình hay phải đối diện với muôn hình thức thử thách trong cuộc đời.
Ai lắng nghe Đức Giê-su thì gặp gỡ Người, ai gặp gỡ Người thì cũng biết phân định phải trái, tốt xấu; ai biết phân định thì cũng biết quyết định và định hướng tư tưởng, lời nói và việc làm của mình theo thánh ý Thiên Chúa. Phân định luân lý, phân định tốt xấu, phải trái, đúng sai là điều cần thiết cho mọi người trong gia đình nhân loại. Phân định luân lý đặt nền tảng trên giáo huấn của Đức Giê-su, giáo huấn luôn bền vững trước những bấp bênh, đổi thay, hỗn loạn của xã hội loài người. Việc gặp gỡ, lắng nghe, phân định không phải một lần cho tất cả mà là công việc gắn liền với con người trong mọi nơi mọi lúc. Để có thể gặp gỡ, lắng nghe, phân định cách phù hợp, tự thân, con người không thể làm được mà phải cậy trông vào ‘ân sủng của Đức Giê-su, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần’ (2 Cr 13,13).
Tân Ước cho phép chúng ta nhận biết căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su. Chúng ta cần ý thức rằng ‘nhận biết Đức Giê-su là ai’ rất quan trọng nhưng nhận biết Người là ai đối với bản thân mình, đối với mọi người trong gia đình nhân loại và đối với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo còn quan trọng hơn. Bởi vì, Người đã xuống thế làm người, chịu đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người luôn hiện diện với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế như lời trăng trối cuối cùng của Người cho các môn đệ trước khi về trời (Mt 28,20). Ai nhận biết và gắn bó mật thiết với Đức Giê-su thì cũng ý thức rằng Người cầu nguyện cho mình, cầu nguyện với mình và lắng nghe mình cầu nguyện. Khi chú giải Thánh Vịnh 86, thánh Au-gút-ti-nô viết về Đức Giê-su: “Đấng vừa cầu nguyện cho chúng ta, vừa cầu nguyện trong chúng ta và cũng là Đấng chúng ta cầu khẩn. Người cầu nguyện cho chúng ta như là Thượng Tế của chúng ta; Người cầu nguyện trong chúng ta như là Đầu của chúng ta; và Người được chúng ta cầu khẩn như là Thiên Chúa của chúng ta” (Augustine, Exposition on Psalm 86, 1). Đức Giê-su luôn là Thiên Chúa thật và con người thật trong Nước Thiên Chúa cũng như giữa gia đình nhân loại. Đồng thời, sứ mệnh của Người cho gia đình nhân loại, với gia đình nhân loại và vì gia đình nhân loại vẫn tiếp tục. Điều quan trọng là con người cần ý thức sự hiện diện và hoạt động của Người trong đời sống mình.
4.2 Loan Báo Tin Mừng Đường Nhận Biết Thiên Chúa
Những ai nhận biết Đức Giê-su và thiết lập mối tương quan mật thiết với Người đều được mời gọi loan báo Đường Nhận Biết Thiên Chúa cho anh chị em đồng loại. Nói đến việc loan báo Tin Mừng, chúng ta thường quan tâm Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại và việc các môn đệ tiếp tục chương trình của Người giữa muôn dân muôn nước qua các thế hệ. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng việc loan báo Tin Mừng đã được đề cập trong Cựu Ước. Chẳng hạn, ngay từ buổi đầu kêu gọi Áp-ra-ham, Đức Chúa là Thiên Chúa nói với Áp-ra-ham rằng nhờ ông và qua ông, Thiên Chúa thiết lập gia đình của Người giữa gia đình nhân loại bởi vì nhờ ông và qua ông mà mọi gia tộc trên mặt đất được chúc phúc. Qua dòng thời gian, Thiên Chúa mặc khải chương trình của Người đối với gia đình nhân loại. Đặc biệt, vào khoảng thế kỷ thứ VIII trước Biến Cố Đức Giê-su, sứ điệp ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’ được tuyên bố cách cụ thể và rõ nét hơn (Is 7,14).
Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết rằng, trong hành trình trần thế của Đức Giê-su, nhiều người với những hoàn cảnh khác nhau đều cộng tác với Người trong việc loan báo Tin Mừng: Đám đông dân chúng, những người phụ nữ, người già, người trẻ, dân ngoại. Chẳng hạn, sau khi được Đức Giê-su trừ quỷ, người bị quỷ ám ở vùng Ghê-ra-sa xin theo Đức Giê-su nhưng Người nói: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào” (Mc 5,19). Anh đã vâng lời Đức Giê-su và loan truyền khắp miền Thập Tỉnh những điều kỳ diệu Người đã làm cho anh (Mc 5,20). Sau khi gặp gỡ và nhận biết những điều đặc biệt nơi Đức Giê-su, người phụ nữ Sa-ma-ri đã trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng cho bà con thân thuộc: “Đến mà xem: Có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Ma-ri-a Mác-đa-la là người đầu tiên được gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh và đã trở thành người loan báo Tin Mừng phục sinh cho các môn đệ (Ga 20,17-18). Như vậy, ai nhận biết Đức Giê-su và sống trung tín với giáo huấn của Người đều trở thành môn đệ của Người. Họ có thể là những người trực tiếp loan báo Tin Mừng cho bà con thân thuộc hoặc trở thành những chứng nhân sống động qua đời sống dõi theo những giá trị Tin Mừng được Đức Giê-su khởi xướng và kiên trì thể hiện những giá trị ấy trong đời sống hằng ngày: Yêu thương tha nhân, khiêm nhường, tha thứ, dấn thân phục vụ và đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Chính đời sống chứng tá ấy là hình thức loan báo Tin Mừng sống động và âm thầm, góp phần mở đường cho nhiều người khác nhận biết và tin vào Đức Giê-su cũng như sứ mệnh hoàn vũ của Người.
Hai câu cuối cùng của Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Mác-cô là: “Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,19-20). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã dùng các dấu lạ để minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến và thi hành công việc của Thiên Chúa. Sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết rằng, ngay thuở ban đầu trong Giáo Hội sơ khai, nhân danh Đức Giê-su, các môn đệ đã thực thi các phép lạ hay dấu lạ (Cv 9,36-43; Cv 28,7-8). Mục đích chính yếu của các ngài khi thực thi các phép lạ hay dấu lạ là mời gọi mọi người hoán cải và theo Đức Giê-su, Đường Nhận Biết Thiên Chúa. Qua đó, những người chứng kiến hay có kinh nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa nhận được bình an của Người, bình an mà thế gian không thể ban tặng giữa những gian nan trong hành trình trần thế.
Ngay từ buổi sơ khai, các môn đệ Đức Giê-su ý thức được sự cần thiết phải loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho anh chị em đồng loại. Tuy nhiên, việc loan báo của các ngài luôn phải đối diện với muôn vàn thử thách. Chẳng hạn, các thủ lãnh Do-thái đã cấm các ngài nói về Đức Giê-su nhưng các ngài khẳng định rằng họ vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm. Đặc biệt, các ngài khẳng định: “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Trong Thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su” (2 Cr 4,5). Câu hỏi đặt ra là tại sao các ngài lại loan Tin Mừng Đức Giê-su? Thưa rằng vì Tin Mừng của Người mời gọi mọi người hoán cải để lãnh ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9).
Đức Giê-su cho các môn đệ nhận biết rằng Người hiện diện giữa trần gian là vì con người và cho con người. Thiên Chúa của mọi người trong gia đình nhân loại là Thiên Chúa luôn gần gũi (Tv 121,4-8). Đặc biệt, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta là ý nghĩa của danh xưng Em-ma-nu-en, danh xưng Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa giữa gia đình nhân loại. Người cũng là ‘Tôi Trung’ của Thiên Chúa đã được tiên báo trong Cựu Ước: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6). Trong sách Tông Đồ Công Vụ, Phao-lô và Ba-na-ba đã nói với những người Do-thái không đón nhận sứ điệp Tin Mừng về sứ mệnh phổ quát của Đức Giê-su: “Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,47). Quả thực, khi khai triển bài giảng Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Trên núi Ta-bo, ba môn đệ của Đức Giê-su đã chứng kiến vinh quang của Người và được củng cố đức tin nhờ biến cố này. Trong Thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô” (2 Cr 4,6).
Để các môn đệ tiếp tục chương trình của Người, Đức Giê-su đã thực hiện ba điều quan trọng: (1) Nâng tầm các ngài từ tình trạng môn đệ hay tôi tớ lên tình trạng bạn hữu; (2) căn dặn các ngài tuân giữ Giới Răn Mới, giới răn yêu thương và (3) ủy thác cho các ngài sứ mệnh loan báo Tin Mừng (Ga 15,12-17). Các môn đệ ý thức rằng Đức Giê-su luôn đi bước trước trong việc mời gọi con người hoán cải, trở về và thiết lập tương quan mật thiết với Người. Không chỉ đi bước trước, Đức Giê-su luôn đồng hành và hướng dẫn các môn đệ để các ngài biết cộng tác với Người và với nhau hầu loan báo Tin Mừng cho anh chị em đồng loại. Trong Bữa Tiệc Ly trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15,16).
Các môn đệ Đức Giê-su luôn ý thức rằng loan báo Tin Mừng không phải là loan báo một điều, một triết lý hay một giáo lý trừu tượng nào đó mà là loan báo lời của Thiên Chúa trong dòng lịch sử nhân loại, nhất là lịch sử dân Do-thái, được kiện toàn bởi Đức Giê-su là Lời duy nhất của Thiên Chúa, Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (Ga 1,14). Thánh Gio-an viết rằng ai đón nhận Đức Giê-su và tin vào danh Người thì được trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1,12). Đặc biệt, như đề cập ở trên, theo thánh Phao-lô, đức tin phát sinh từ việc lắng nghe lời rao giảng về Đức Giê-su (Rm 10,17). Thánh nhân trích dẫn Cựu Ước và chỉ ra rằng những lời trong Cựu Ước được nên trọn trong Tân Ước nhờ Đức Giê-su: “Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin” (Rm 10,8; Đnl 30,14). Để có thể tuyên xưng Đức Giê-su, trước hết, người tuyên xưng cần nhận biết Đức Giê-su, thiết lập mối tương quan mật thiết với Người và thấm nhuần giáo huấn của Người.
Dưới nhãn quan của thánh Gio-an Tông Đồ, ai nhận biết Đức Giê-su thì ở lại trong Người và ai ở lại trong Người thì sẽ càng nhận biết Người sâu xa hơn. Môn đệ đích thực của Đức Giê-su là người vừa nhận biết, vừa ở lại với Người trong mối tương quan sống động của đức tin. Từ đó, điều ngược lại cũng đúng: Ai không nhận biết Đức Giê-su thì không thể tin Người và ai không tin Người thì cũng không thực sự nhận biết Người. Nói cách khác, nhận biết và tin Đức Giê-su là hai chiều kích không thể tách rời trong đời sống của người môn đệ Đức Giê-su. Đặc biệt, người nhận biết cũng như tin vào Đức Giê-su và ở lại trong Người chính là người luôn sẵn sàng loan báo Tin Mừng cứu độ của Người cho anh chị em đồng loại. Chúng ta có thể tóm lược như sau: Không biết thì không tin; không tin thì không cậy; không cậy thì không mến; không mến thì không theo. Như vậy, nhận biết Đức Giê-su là bước khởi đầu thiết yếu trong hành trình của những ai theo Người và loan báo Tin Mừng của Người vì sự sống đời đời của bản thân và anh chị em đồng loại.
Trong bối cảnh bùng nổ thông tin hôm nay, hằng ngày, con người tiếp nhận vô số lời. Điều cần thiết là mọi người phải lắng nghe và phân định giữa những lời ấy. Câu hỏi được đặt ra cho các môn đệ Đức Giê-su: Mình đang quan tâm ai và lời của ai nhiều nhất? Phải chăng đó là Đức Giê-su và lời của Người hay một ai đó và lời của người ấy? Thánh Phao-lô viết: “Mặc dầu người ta cho là có những thần ở trên trời hay dưới đất -quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều-, nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu” (1 Cr 8,5-6). Trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: “Chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, bởi khi anh em đã nghe Lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã đón nhận không phải như lời loài người, nhưng đúng là Lời Thiên Chúa” (1 Tx 2,13). Như vậy, khi con người nhận biết Thiên Chúa duy nhất và Đức Giê-su là Lời duy nhất của Thiên Chúa cũng là khi con người nhận ra sự cần thiết phải đặt trọn niềm tin nơi Người. Bởi chính Người là Lời sáng tạo, Lời cứu độ và Lời thánh hóa con người, đồng thời biến đổi muôn vật muôn loài theo thánh ý Thiên Chúa.
Sứ mệnh của các môn đệ Đức Giê-su là làm cho mọi người đặt niềm tin vào Người bởi vì niềm tin vào Người mang lại sự sống an bình trong hành trình trần thế và sự sống vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Trong kết luận thứ nhất của trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an, tác giả cho chúng ta biết: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,30-31). Chúng ta cần quan tâm ba điểm quan trọng ở đây là ‘dấu lạ’, ‘tin’ và ‘sống’. Đức Giê-su làm các dấu lạ nhằm giúp con người đặt trọn niềm tin vào Người, niềm tin giúp con người vững tâm trước muôn vàn bất an, đau khổ và thử thách của cuộc đời trong hành trình hướng về sự sống vĩnh cửu.
4.3 Khó Khăn Trên Đường Nhận Biết Thiên Chúa
Trong Thư thứ nhất gửi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô viết rằng Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1 Tm 2,4). Theo mặc khải Ki-tô Giáo, Thiên Chúa là Chân Lý tối thượng, tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi chân lý. Là con người, ai cũng khát khao nhận biết chân lý và sống theo chân lý. Tác giả Thánh Vịnh 86 viết: “Xin dạy con đường lối Ngài, lạy Chúa, để con vững bước theo chân lý của Ngài” (Tv 86,11). Công Đồng Vatican II nhận định rằng con người thường bị ma quỷ cám dỗ làm cho phán đoán của mình sai lạc và hậu quả là con người “đánh đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối, khiến họ phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa” (Rm 1,25; LG 16). Trong cuộc sống, con người không ngừng tìm kiếm chân lý. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: "Trong chiều sâu nội tâm, con người luôn mang nơi mình mong mỏi vươn tới chân lý tuyệt đối và cơn khát được chiêm niệm trọn vẹn chân lý ấy. Điều này được minh chứng cách hùng hồn qua nỗ lực không ngừng nghỉ của con người trong hành trình tìm kiếm tri thức trên mọi lĩnh vực" (Veritatis Splendor 1). Tuy nhiên, theo thánh nhân: “Khả năng nhận biết chân lý nơi con người cũng bị che mờ và ý chí quy phục chân lý nơi họ trở nên suy yếu. Do đó, con người buông mình theo chủ nghĩa tương đối và hoài nghi, rồi lao mình đi tìm một thứ tự do ảo tưởng tách rời khỏi chính chân lý” (Veritatis Splendor 1). Như vậy, khi con người không mở lòng tìm kiếm chân lý siêu việt, chân lý tuyệt đối cũng là khi con người tương đối hóa mọi sự. Hậu quả là con người tự đặt mình như là trung tâm của mọi lượng định, đánh giá và quyết định.
Tự do của con người là món quà cao quý được Thiên Chúa ban tặng nhưng con người thường sử dụng ý chí tự do không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Quả thực, sau khi sáng tạo con người, Đức Chúa phán: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,16-17). Tuy nhiên, con người đã bất tuân huấn lệnh của Thiên Chúa và đã ăn trái ‘cây biết lành biết dữ’, ‘cây kiến thức’, ‘cây phân định thiện ác’. Hậu quả là tội lỗi xâm nhập trần gian, tội lỗi gây nên sự chết và sự chết lan tràn mọi người vì mọi người đều phạm tội (Rm 5,12). Nhờ ân sủng của Thiên Chúa nâng đỡ, con người mới có thể thoát khỏi những cám dỗ của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Thánh Phao-lô viết: “Thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13). Còn thánh Phê-rô thì viết: “Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa” (1 Pr 2,16). Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, qua mọi thời và khắp mọi nơi, con người vẫn không ngừng sử dụng ý chí tự do ngược với thánh ý Thiên Chúa. Bao lâu con người còn ở trong tình trạng ấy thì bấy lâu con người vẫn không thể tiếp cận Thiên Chúa và nhận biết Người.
Tội lỗi là trở ngại lớn nhất trong hành trình con người nhận biết Thiên Chúa. Lời của dân Do-thái qua miệng ngôn sứ I-sai-a giúp hiểu thêm thực trạng này: “Tất cả chúng con héo tàn như lá úa và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. Không có ai cầu khẩn danh Chúa cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy Ngài vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến và để cho tội ác chúng con phạm mặc sức hành hạ chúng con” (Is 64,5-6). Quả thực, khi con người không ý thức về tội lỗi, sự yếu hèn và xu hướng sa ngã của mình thì khó có thể nhận biết Thiên Chúa cách xứng hợp. Ai cho rằng mình trong sạch, vô tội, không cần hoán cải thì người đó không thể nhận biết Thiên Chúa. Trong Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát” (Ep 4,17-18).
Thay vì khiêm tốn nhìn nhận những giới hạn, lệch lạc và bất toàn của bản thân, con người thường có xu hướng đề cao kinh nghiệm chủ quan của mình trong việc nhận biết Thiên Chúa cũng như chương trình tình yêu của Người. Con người dựa vào nỗ lực tự thân và cho rằng như thế là đủ. Hậu quả là con người gặp nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa cũng như chương trình của Người trong thế giới thụ tạo. Trong Thông Điệp ‘Đức Tin và Lý Trí’, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trích lại lời của thánh Bô-na-ven-tu-ra (1217–1274) trong phần dẫn nhập cuốn ‘Lộ Trình Tâm Trí Hướng Về Thiên Chúa’ (Itinerarium Mentis in Deum) như sau: "Đọc mà không sám hối, hiểu biết mà không đạo đức, tìm kiếm mà thiếu động lực từ sự kinh ngạc, thận trọng mà không biết buông mình trong niềm vui, hành động tách rời niềm tin, học hỏi mà không có tình yêu, thông minh mà thiếu khiêm nhường, nghiên cứu mà không được nâng đỡ bởi ân sủng Thiên Chúa, suy nghĩ mà không có sự khôn ngoan do Thiên Chúa linh hứng" (Prologus, 4: Opera Omnia, Florence, 1891, vol. V, 296 trong Fides et Ratio 105). Đây là lời nhắn nhủ thiêng liêng cho mọi người tìm kiếm Thiên Chúa, nhất là giới thần học gia, giáo sĩ và tu sĩ. Quả thực, lời của thánh Bô-na-ven-tu-ra đáng để mọi người suy gẫm hầu ngày càng gắn bó mật thiết hơn với Thiên Chúa và nhận biết Người cách sâu xa hơn trong hành trình trần thế này.
Dù ngôn ngữ, hình ảnh và biểu tượng của con người có phong phú và tinh tế đến đâu, chúng cũng không thể diễn tả Thiên Chúa cách trọn vẹn. Dưới nhãn quan của thánh Tô-ma A-qui-nô, yếu tính của Thiên Chúa luôn vượt quá mọi khả năng hiểu biết và diễn đạt của trí tuệ con người, bởi vì: “Yếu tính Thiên Chúa thì không thể được thấy qua bất kỳ sự tương đồng thụ tạo nào” (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.12, a.2). Ngoài lý trí tự nhiên được Thiên Chúa ban tặng, con người nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử nhân loại, cách riêng là trong lịch sử của dân Do-thái mà cao điểm là Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại. Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê nói: “Có những điều Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, giữ kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu chúng ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này” (Đnl 29,29). Những lời này được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong Tân Ước, Đấng kiện toàn và biểu lộ trọn vẹn chương trình của Thiên Chúa đối với con người và muôn vật muôn loài. Tuy nhiên, con người luôn phải đối diện với nhiều thách đố trong việc nhận biết, sống và truyền đạt sứ điệp của Người cho anh chị em đồng loại.
Như đã đề cập, với lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa nhưng hình thức nhận biết ấy vẫn rất giới hạn. Chính vì thế, Thiên Chúa đã mặc khải và thông ban chính mình cho con người, nhất là trong Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại để con người có thể ngày càng hiểu biết Thiên Chúa hơn. Khi trình bày về tương quan giữa Người với Chúa Cha, Đức Giê-su nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người” (Ga 14,7). Trong Thư thứ nhất gửi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô viết: “Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1 Tm 6,16). Quả thực, ngay cả trước Tội Nguyên Tổ, con người tuy vô tội nhưng vẫn là thụ tạo hữu hạn nên không thể hiểu biết Thiên Chúa cách trọn vẹn. Dù được ban trí khôn sáng suốt (chỉ kém thiên thần một chút), con người vẫn không thể thấu hiểu Người là Đấng vô hạn.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đấng Phục Sinh và sự kết hiệp mật thiết với Người giúp thánh Phao-lô nhận biết rằng: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13,12). Còn thánh Gio-an, từ kinh nghiệm sống động với Đấng Phục Sinh, đã bày tỏ với các tín hữu rằng: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Trong Quê Hương vĩnh cửu, thị kiến về Thiên Chúa sẽ không còn qua biểu tượng hay trung gian nữa mà là sự chiêm ngắm trực tiếp chính Người trong vinh quang, điều thường được gọi là ‘thị kiến trực diện’ (visio beatifica). Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, khi nói 'chúng ta sẽ thấy Người như Người là', điều đó không có nghĩa rằng con người thấy Thiên Chúa cách trọn vẹn như chính Thiên Chúa thấy mình (Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.12, a.7). Dưới nhãn quan của thánh nhân, khi con người được diện kiến Thiên Chúa trực tiếp, con người vẫn không thể hiểu biết Người cách thấu đáo như chính Thiên Chúa hiểu biết mình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thấu suốt chính Người cách đầy đủ và toàn diện. Trong Quê Hương vĩnh cửu, con người sẽ được chiêm ngắm Thiên Chúa cách chân thực, trực diện và không sai lầm. Tuy nhiên, con người vẫn không thể đạt đến sự hiểu biết tất cả. Nói cách khác, tri thức hữu hạn của con người, dù trong bất cứ môi trường hay trạng thái nào cũng không thể thấu triệt mầu nhiệm của Thiên Chúa toàn năng, toàn tri và toàn hiện (omnipotentia, omniscientia, omnipraesentia).
Kỷ Nguyên Ánh Sáng (thế kỷ XVIII) từng khơi dậy nơi một số người niềm hy vọng trong tương lai, lý trí và tri thức con người có thể giải mã mọi bí ẩn của vũ trụ. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy giới hạn cố hữu của tri thức nhân loại. Càng đạt được nhiều thành tựu trong tri thức, con người lại càng nhận ra sự giới hạn của mình trong việc hiểu thấu ngay cả thế giới khả giác, nơi chứa đựng vô vàn mối tương quan phức tạp và những biến động không thể tiên liệu. Những vấn nạn nền tảng của phận người vẫn còn đó: Nghèo đói, hận thù, chiến tranh, bệnh tật, tai họa thiên nhiên. Trong bối cảnh hôm nay, sức mạnh nguyên tử có thể góp phần xây dựng hoặc phá hủy toàn thể gia đình nhân loại. Những thành tựu của tri thức có thể phục vụ sự sống nhưng cũng có thể trở thành công cụ gây đau khổ khi thiếu vắng định hướng luân lý và mục tiêu tối hậu. Quả thực, khi con người không được nâng đỡ bởi đức tin và được soi sáng bởi sự khôn ngoan (sapientia) đến từ Thiên Chúa, con người dễ rơi vào thái độ kiêu căng hoặc mất phương hướng. Chỉ khi mở lòng đón nhận ánh sáng mặc khải Thiên Chúa và để tình yêu cùng chân lý của Người hướng dẫn, con người mới có thể sử dụng hiểu biết của mình để phục vụ thiện ích của gia đình nhân loại cũng như đạt tới nhận thức sâu xa hơn về chính mình, về tha nhân, về vạn vật và về Thiên Chúa.
Thực tế cho thấy, con người thường dồn phần lớn thời gian, năng lượng và nguồn lực cho các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn nhưng lại tỏ ra thờ ơ hoặc xem nhẹ những lĩnh vực liên quan đến chiều kích thiêng liêng của đời sống, chẳng hạn như thần học, triết lý tôn giáo, đạo đức học hay các truyền thống huyền nhiệm và chiêm niệm của các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Thật vậy, tri thức của con người về các hình thức khoa học mà con người dành nhiều tài nguyên, sức lực để tìm hiểu, khám phá vẫn luôn đối diện với vô vàn giới hạn. Chúng ta có thể khẳng định rằng tri thức con người không bao giờ có thể hiểu biết cặn kẽ cấu trúc nhỏ nhất của thế giới vật chất, chẳng hạn như cấu trúc của một nguyên tử hay hạt nhân của một nguyên tố hóa học nào đó. Tương tự như thế, tri thức của con người hoàn toàn bất lực trước việc nắm bắt trọn vẹn các chiều kích ‘dài, rộng, cao, sâu’ của vũ trụ, thực tại bao la vượt quá mọi khả năng đo lường hay lý giải. Quả thực, nếu ‘mầu nhiệm’ được nhìn nhận như là điều vượt quá khả năng hiểu biết trọn vẹn của con người thì ngay cả cấu trúc của một nguyên tử hay hạt nhân nguyên tử cũng mang đặc tính của mầu nhiệm khôn dò khôn thấu. Nói cách khác, tri thức của con người không bao giờ có thể hiểu biết tường tận ‘hình dạng’ hay ‘bản chất’ của những gì nhỏ nhất cũng như lớn nhất trong thế giới vật chất, ngay cả trên bình diện khoa học thực nghiệm.
Dựa trên Is 11,9, thánh A-tha-na-xi-ô (298-373) viết: “Người [Đức Giê-su] lấp đầy mọi sự bằng sự hiện diện của Người, thì Người cũng làm cho mọi sự được đầy tràn sự nhận biết về Người, như Kinh Thánh viết: Cả trái đất tràn ngập sự nhận biết về Chúa” (Athanasius, On the Incarnation of the Word 45.2). Nhiều trình thuật Cựu Ước cho thấy dân Do-thái nhận biết những công trình vĩ đại của Thiên Chúa thực hiện, chẳng hạn như việc giải thoát họ khỏi Ai-cập, nuôi dưỡng họ trong sa mạc và ban Lề Luật tại Si-nai. Thế nhưng, họ lại không bước đi trong ‘đường lối’ của Người (2 V 17,13–15; Gr 7,23-24; Ed 20,13). Trong Tân Ước cũng vậy, nhiều người theo Đức Giê-su nhưng mối quan tâm của họ lại tập trung vào các dấu lạ hay phép lạ Người thực hiện hơn là chuyên tâm bước theo Đường của Người, Đường Nhận Biết Thiên Chúa. Ở mọi thời đại, kể cả hôm nay, nhiều người biết về Đức Giê-su nhưng không phải ai cũng thực sự sống theo Đường của Người. Lý trí tự nhiên giúp con người nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa toàn năng, còn mặc khải của Người mở lối cho đức tin và lòng tín thác nơi Đức Giê-su, Đấng là Đường đưa nhân loại đến sự nhận biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ai bước theo Đức Giê-su thì trở nên bạn hữu của Người và được cùng Người thừa hưởng bình an và hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa.
Kết Luận
Tác giả Thánh Vịnh 42 thân thưa cùng Thiên Chúa: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan?” (Tv 42,2). Lời nguyện này cũng là tiếng vọng nội tâm của mọi người trong gia đình nhân loại. Quả thực, dù ở bình diện cá nhân hay cộng đoàn, con người luôn nỗ lực để ngày càng hiểu biết hơn về chính mình, về anh chị em đồng loại và muôn vật muôn loài. Đặc biệt, tâm hồn con người luôn thao thức trước những điều vượt quá tầm với của lý trí tự nhiên. Chính vì thế, qua muôn thế hệ, con người không ngừng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời cũng như chân, thiện, mỹ tuyệt đối. Giữa thế giới đầy bất tất, biến động và đổi thay, con người luôn phải đối diện với muôn vàn đau khổ mà tột cùng là vực thẳm sự chết. Trong sâu thẳm tâm hồn, con người luôn trăn trở về căn tính đích thực của mình, về sự bình an trọn vẹn, niềm hạnh phúc viên mãn và tình yêu vĩnh cửu.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận biết rằng Thiên Chúa luôn tỏ bày sự quan phòng của Người đối với gia đình nhân loại ngay từ khi con người hiện diện trên mặt đất. Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết sự hiện hữu và hoạt động của Người trong vũ trụ. Tuy nhiên, do hậu quả của tội lỗi và những giới hạn nội tại, tri thức tự nhiên luôn bất toàn và cần được soi sáng bởi mặc khải siêu nhiên. Các trình thuật Cựu Ước cho thấy rằng Thiên Chúa đã mặc khải chính mình cách tiệm tiến trong dòng lịch sử cứu độ qua các tổ phụ, các ngôn sứ và những người lãnh đạo của dân Do-thái. Cụ thể là Người đã tỏ bày chương trình cứu độ của Người cho gia đình nhân loại qua Áp-ra-ham và dòng dõi của ông. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã trở nên người phàm, sống giữa gia đình nhân loại để chia sẻ thân phận con người trong thế giới đầy gian lao thử thách.
Là Thiên Chúa, Đức Giê-su hiện diện và hoạt động khắp mọi nơi, mọi thời giữa thế giới thụ tạo, nhất là giữa xã hội loài người. Trong thân phận con người, lời nói và hành động của Đức Giê-su minh chứng Người là Thiên Chúa thật và con người thật. Người đã đến trần gian để mặc khải Thiên Chúa cho nhân loại và thực thi thánh ý Chúa Cha hầu dẫn đưa con người đến sự hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, với nhau và với toàn thể thụ tạo. Nói cách khác, hành trình trần thế của Đức Giê-su là ‘hành trình có định hướng’: Hướng về Chúa Cha, hướng về môi trường Thiên Chúa, hướng về Quê Hương vĩnh cửu. Cao điểm của Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại chính là cuộc thương khó: Người đã chịu muôn hình thức đau khổ, chịu treo trên thập giá, chịu chết và phục sinh vinh hiển để cứu độ và giải thoát con người khỏi xiềng xích nô lệ tội lỗi và sự chết.
Con người không chỉ được mời gọi ‘biết về Thiên Chúa’, ‘nghĩ về Thiên Chúa’, ‘hướng về Thiên Chúa’ nhờ lý trí tự nhiên hoặc qua các trung gian nào đó mà còn được mời gọi ‘nhận biết Thiên Chúa’ nhờ mặc khải của Người, được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau trong dòng lịch sử cứu độ. Biến Cố Đức Giê-su hiện diện giữa gia đình nhân loại cho phép con người nhận biết Thiên Chúa và đến với Người cách xứng hợp nhất. Bởi vì, Người là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, đồng thời là Của Lễ vẹn toàn được hiến dâng nhân danh toàn thể nhân loại để nối kết con người với Thiên Chúa. Đường của Người chính là ‘Đường Nhận Biết Thiên Chúa’. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi bước đi trên Đường này để đến với Thiên Chúa, đến với nhau và đến với muôn vật muôn loài. Nhờ đó, mọi người sẽ được hưởng sự sống đời đời, sự sống mà chính Đức Giê-su - vị Thượng Tế Tối Cao - đã tỏ bày cùng Chúa Cha trong ‘Diễn Từ Ly Biệt’ trước khi bước vào cuộc khổ nạn: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (Ga 17,3).
Nguồn: hdgmvietnam.com