Con người được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa

27/10/2025
16


CON NGƯỜI ĐƯỢC TẠO NÊN THEO HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA

1.     Con người được tạo nên theo hình ảnh Thiên Chúa

Sách Sáng Thế nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, theo hình ảnh Thiên Chúa. Ngài đã tạo dựng nên người nam và người nữ” ( St 1, 26-31 ).

Đây thực sự là một sự mặc khải vô cùng quan trọng. Sau khi tạo dựng thế giới vật chất, thế giới thực vật và thế giới động vật, Thiên Chúa đã tạo ra con người. Có một sự phân biệt rõ ràng và căn bản giữa các sinh vật không phải con người và con người: chỉ có con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa; họ phản chiếu Thiên Chúa hơn là chỉ đơn giản được Ngài tạo ra; họ tham gia vào tính thần linh của Thiên Chúa theo một cách vượt trội hơn so với bản chất phi nhân loại, mặc dù về logic sự tương đồng này không xóa bỏ sự khác biệt giữa bản chất con người và bản chất thần linh. “Con người, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, là một sinh thể vừa có thân xác vừa có linh hồn. Câu chuyện Kinh Thánh diễn tả thực tại này bằng một ngôn ngữ biểu tượng khi khẳng định rằng ‘Thiên Chúa đã nặn con người từ bùn đất; Ngài thổi hơi sự sống vào mũi con người và con người trở thành một sinh linh sống’ (St 2,7)”[1].

Vị trí trung gian của con người, giữa thế giới vật chất và thần tính, có thể bị phủ nhận bởi hai thái cực. Trong trường hợp thứ nhất, con người tự xem mình là chủ tể tuyệt đối của chính mình và của toàn bộ sáng tạo; trong trường hợp thứ hai, con người chỉ được coi là sản phẩm đơn thuần của sự tiến hóa động vật, dù có phức tạp đến đâu, bị tước đoạt linh hồn và tự do.

Tuy nhiên, để tránh hai sai lầm này và dễ dàng chấp nhận chân lý đức tin hơn, chúng ta chỉ cần suy ngẫm về kinh nghiệm cách tồn tại của chính mình.

Một mặt, rõ ràng chúng ta có nhiều giới hạn thể hiện và cấu thành nên sự hữu hạn của mình: ví dụ, chúng ta không thể làm mọi điều mình muốn (dù là do những trở ngại bên ngoài hay bên trong); nhiều sự việc xảy ra mà chúng ta không kiểm soát được, không muốn hay không lường trước được; chúng ta sống trong dòng chảy thời gian và sự kiện mà không thể quay ngược hay dừng lại. Sự hữu hạn của chúng ta là điều hiển nhiên.

Nhưng mặt khác, cũng rõ ràng là một số đặc điểm của đời sống chúng ta vượt lên trên sự hữu hạn này, làm cho sự hữu hạn ấy trở nên có phần thẩm thấu hoặc mở ra vô hạn.

Trước hết, chúng ta nhận thấy điều ngạc nhiên rằng dù hữu hạn, chúng ta biết hoặc nhận thức được điều đó; và nếu chúng ta biết mình hữu hạn, đó là vì sự hiểu biết của chúng ta vượt qua giới hạn của chính sự hữu hạn đó. Hơn nữa, về những giới hạn đã nêu, nếu chúng ta không thực hiện được nhiều điều chúng ta muốn, chúng ta vẫn có thể tưởng tượng và khao khát chúng dù chúng không thể thành hiện thực; những sự kiện không kiểm soát được ập đến với chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có thể kháng cự hoặc có thái độ nội tâm đối với chúng; thời gian thật sự trôi qua đối với chúng ta và trong chúng ta một cách không thể đảo ngược, nhưng chúng ta luôn sống trong một “hiện tại” liên tục và bền vững, từ đó chúng ta có thể suy ngẫm và tạo ý nghĩa cho quá khứ và, ở một mức độ nào đó, cho tương lai.

Tóm lại, chúng ta chắc chắn là hữu hạn và sống trong một thế giới vật chất hữu hạn; nhưng chúng ta cũng có khả năng tách rời hoặc vượt lên những giới hạn của sự hữu hạn đó. Khả năng này chỉ có thể vì chúng ta có linh hồn, và chính ở điểm này chúng ta thấy điều làm cho chúng ta giống Thiên Chúa, Đấng Thần Linh vô hạn và tuyệt đối.

Một số học thuyết nhân văn cho rằng con người có linh hồn, nhưng đó là một linh hồn hữu hạn, ít hay nhiều được khai sáng không phải theo hình ảnh Thiên Chúa và do đó không hướng về Ngài. Quan niệm như vậy gây nhiều vấn đề, vì bản chất của linh hồn là tham dự vào tuyệt đối và hướng về nó. Kinh nghiệm cá nhân và lịch sử cho thấy việc đứt gãy mối quan hệ với Thiên Chúa cuối cùng làm mai một phẩm giá của con người. “Không có lựa chọn nào khác: chỉ có hai cách sống trên trần gian này: sống một cuộc đời siêu nhiên, hoặc sống một cuộc đời động vật”[2].

2. Con người: được tạo nên bởi tình yêu và để yêu thương

Việc “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài” cũng bao hàm hai khẳng định cơ bản: chúng ta được tạo nên bởi tình yêu và chúng ta được tạo ra để yêu thương.

Trước hết, nếu Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo và tuyệt đối, thì Ngài không cần bất cứ điều gì hay bất kỳ ai. Do đó, Thiên Chúa tuyệt đối vượt trên hết và tự do, nghĩa là Ngài không tạo ra thế giới hay con người do sự cần thiết, mà hoàn toàn tự do. Sự sáng tạo là một món quà miễn phí từ Thiên Chúa: nói cách khác, toàn bộ công trình sáng tạo là tác phẩm của tình yêu Ngài. Chúng ta cần từ chối cám dỗ thường xuyên áp đặt Thiên Chúa, hay ý muốn của Ngài, vào logic hay điều kiện của chúng ta.

Thứ hai, nếu Thiên Chúa tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài, đó là để thiết lập một mối quan hệ có thể với con người. Nói cách khác, nếu Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng nhận biết và yêu thương vượt ra ngoài vật chất và sự hữu hạn, nếu Ngài tạo dựng chúng ta với một linh hồn, thì đó là để chúng ta có thể nhận biết và yêu mến Ngài. “Trong tất cả các sinh vật hữu hình, chỉ có con người là có khả năng nhận biết và yêu thương Đấng Tạo Hóa của mình”[3]; chỉ có con người là “sinh vật duy nhất trên mặt đất mà Thiên Chúa yêu thương vì chính nó”[4]; chỉ có con người được mời gọi tham dự vào đời sống Thiên Chúa qua nhận biết và yêu thương. Chính vì mục đích đó mà con người được tạo dựng, và đó là lý do căn bản của phẩm giá con người”[5].

Từ một góc nhìn khác, có thể nói việc tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa còn hàm ý khả năng có một mối quan hệ giao tiếp tương hỗ. Nhưng sự khởi xướng của mối giao tiếp này, nếu liên quan đến sự thân mật, chỉ có thể đến từ Thiên Chúa, vì nhận thức tự nhiên của con người không thể tự mình tiếp cận sự thân mật của Thiên Chúa (cũng như không thể với bất cứ sự thân mật nào nếu không được mở lòng). Và điều này Thiên Chúa đã thực sự làm: Ngài tự mặc khải cho chúng ta, Ngài để chúng ta biết bản chất sâu kín nhất của Ngài. Sự mặc khải sâu sắc này được thánh Gioan thể hiện rõ ràng nhất: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Jn 4,8 ).

Điều này có nghĩa là con người, là hình ảnh của Thiên Chúa và tham dự vào Ngài, Đấng là tình yêu, là một sinh thể có khả năng yêu thương: đó là bản chất và định nghĩa sâu sắc nhất xác định con người là ai và trở thành gì[6]; và con người có thể yêu thương vì, được tạo nên bởi tình yêu, người đã nhận được tình yêu ấy, đã được yêu thương trước tiên: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, mà chính Ngài đã yêu chúng ta trước” ( 1Ga 4,10 ); “Chúng ta yêu thương vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” ( 1 Ga 4,19 ). Đó là lý do toàn bộ động lực của đời sống luân lý, của các nhân đức, được dẫn dắt bởi tình yêu, bởi lòng thương xót. “Lòng thương xót điều chỉnh các hành động của các nhân đức khác hướng tới mục đích cuối cùng, và do đó cũng trao hình thức cho các nhân đức khác. Vì vậy, người ta nói rằng nó là hình thức của các nhân đức”[7].

3. Các chiều kích của con người: trí tuệ, ý chí, cảm xúc

Định nghĩa con người như một sinh thể biết yêu thương hay có khả năng yêu thương có thể gây mơ hồ tùy theo cách hiểu về “tình yêu,” một thuật ngữ hiện nay được sử dụng quá rộng và đa dạng. Nói chung, chúng ta có thể nói tình yêu là, hoặc ít nhất chứa đựng, một sự khao khát; nhưng con người có thể khao khát theo nhiều cách khác nhau (vì ích kỷ hoặc vị tha), ở các mức độ khác nhau trong bản chất của mình (cảm tính hay tinh thần) và hơn nữa, hướng về các đối tượng rất khác nhau (ví dụ như thấp hơn hoặc cao hơn chính con người, đối tượng bản thân có thể tốt hoặc xấu) điều này làm nên đặc điểm cho sự khao khát đó và, do đó, cho chính chủ thể khao khát theo nhiều cách khác nhau. Ánh sáng của đức tin cho chúng ta biết cách yêu thương đặc trưng nhất của con người, hình ảnh của Thiên Chúa, là yêu như Ngài yêu.

Yêu như Thiên Chúa yêu hay yêu theo tinh thần, là yêu một cách tự do trong chân lý và sự thật. Nói cách khác, đó là nâng cảm xúc lên mức độ mà lý trí có thể phân biệt được trong đó điều đúng hay sai, điều hợp lý và điều không hợp lý, và mở hoặc hướng tình yêu về phía người khác; điều này tất nhiên chỉ có thể thực hiện được một cách tự do hoặc có ý chí. Do đó, cần vận dụng ba chiều kích căn bản của con người như một linh hồn: trí tuệ, sự sáng suốt tuyệt đối phân biệt loại tình yêu và mở nó ra với tha nhân; ý chí quyết định tự do cách đáp ứng yêu cầu sáng suốt và đầy tình yêu ấy; và cảm xúc, trong hình thức sâu sắc và tối thượng nhất, chính là tình yêu.

Tất nhiên, chúng ta cũng nhận thấy ở bên trong mình một mức độ không thuộc về tinh thần, nơi thiếu sự sáng suốt, tự do hoặc tình yêu chân thật. Vì vậy, cần tích hợp ba chiều kích nhân bản này lên mức cao hơn hay tinh thần, mà không sa vào chủ nghĩa giảm thiểu vốn cơ bản xem con người như một sinh vật vật chất, động vật hoặc có tính bầy đàn xã hội.

Ở bình diện tinh thần này, trí tuệ và tình yêu đi đôi với nhau, hài hòa và đồng thời. “Không có trí tuệ rồi mới có tình yêu; có tình yêu đầy trí tuệ và trí tuệ chan chứa tình yêu”[8]. Eros và agapé, vốn thường bị cực đoan hóa và đối lập nhau (như tình yêu khao khát và tình yêu nhân từ, tình yêu hướng lên trên và tình yêu hướng xuống dưới, tình yêu sở hữu và tình yêu hy sinh, tình yêu bản thân và tình yêu tha nhân) được hòa nhập bằng cách nâng lên và thanh lọc. “Thực ra, eros và agapé, tình yêu hướng lên trên và tình yêu hướng xuống dưới không bao giờ hoàn toàn tách rời nhau. Hai hình thức tình yêu này, dù ở các chiều kích khác nhau, tìm thấy sự hợp nhất đúng đắn trong một thực thể duy nhất của tình yêu, thì bản chất thực sự của tình yêu nói chung càng được thể hiện. Mặc dù ban đầu eros chủ yếu là cảm tính, hướng lên trên say mê lời hứa hạnh phúc lớn lao, khi tiến gần hơn tới người khác, nó ngày càng ít để ý tới bản thân, càng tìm kiếm hạnh phúc cho người kia, càng quan tâm tới người kia, càng cho đi và mong muốn “là cho” người khác. Đó là lúc agapé chen vào; nếu không eros sẽ suy thoái và mất đi chính bản chất của mình. Mặt khác, con người cũng không thể chỉ sống trong tình yêu hy sinh, hướng xuống dưới. Người ta không thể lúc nào cũng chỉ cho đi, mà cũng phải nhận lại. Ai muốn cho đi tình yêu cũng cần nhận lại tình yêu như một món quà”[9].

4. Tính xã hội của con người

Thiên Chúa, khi tỏ lộ căn tính của Ngài là tình yêu, cũng đã biểu lộ cho chúng ta điều gì đó về cách Ngài yêu; không chỉ cách Ngài yêu các tạo vật loài người mà còn cách Ngài yêu trong chính Ngài. Thiên Chúa yêu một cách tương giao giữa các ngôi vị; Thiên Chúa Ba Ngôi, Ba Ngôi của những ngôi vị biết nhau và yêu nhau. Vì thế, nếu chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì chúng ta được mời gọi yêu theo cách ấy và chúng ta đã sở hữu trong mình một dấu ấn hay sự tham gia vào tình yêu tương giao này.

Khía cạnh tình yêu này, tình yêu dành cho người khác, có thể được nhìn thấy sơ lược trong kinh nghiệm tự nhiên về tình yêu và kinh nghiệm về người khác như một con người khác. Một mặt, nếu tình yêu là sự khao khát, thì nó lay động, nó là sự chuyển động; và tự nhiên nó khiến chủ thể hướng ra bên ngoài chính mình, hướng lên trên, hướng về người khác. Mặt khác, trải nghiệm chân thật về người khác không đơn thuần là trải nghiệm các “đối tượng” khác mà ta có thể đáp lại nếu muốn; mà đúng hơn là trải nghiệm các “chủ thể” khác, vốn ngay từ đầu đòi hỏi một sự đáp trả từ phía ta, và với những chủ thể ấy, ta cảm thấy bị mời gọi trước hết. Sự khám phá tự nhiên này được củng cố bởi chân lý đức tin mà chúng ta đã xét đến, đó là con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Quả thật, nếu người khác là hình ảnh Thiên Chúa, yêu người khác là yêu hình ảnh Thiên Chúa, yêu người mà Thiên Chúa yêu, yêu chính Thiên Chúa.

Tình yêu vì thế vốn dĩ là tình yêu tương giao: “Bởi vì tình yêu chan chứa chân lý, con người có thể hiểu được tình yêu trong sự giàu có các giá trị của nó, có thể chia sẻ và truyền đạt nó. Chân lý chính là logos tạo nên một dias-logos, từ đó có sự giao tiếp và hiệp thông. Chân lý mở rộng và kết nối các trí tuệ trong logos của tình yêu: đó là thông điệp và chứng tá Kitô giáo về tình yêu”[10].

Chính vì vậy, Tân Ước trình bày các giới răn yêu thương Thiên Chúa và yêu người thân cận như chính mình ( Mt 22, 40 ), để cho một giới răn dẫn đến giới răn kia: yêu Thiên Chúa dẫn đến yêu người thân cận, và yêu người thân cận dẫn đến yêu Thiên Chúa. “Nếu anh yêu người anh em của mình, anh phải yêu chính Tình Yêu. Và ‘Tình yêu là Thiên Chúa’, nên người yêu anh em cũng phải yêu Thiên Chúa”[11].

Chính trên những giả định nhân học và luân lý sâu sắc này mà tính xã hội của con người được xây dựng, chứ không chỉ dựa trên một vấn đề thực tế về sự cần thiết và hữu ích của đời sống cộng đồng. Vì thế, tính xã hội cũng được nuôi dưỡng bởi tình yêu và chủ yếu được cấu thành bởi các mối quan hệ và cộng đồng thực sự của tình yêu: gia đình và tình bạn. Chỉ qua xã hội hóa, qua giao tiếp với người khác, con người mới trưởng thành và phát triển bản chất của mình: “Sự giống nhau này cho thấy rằng con người, là tạo vật duy nhất trên trần gian mà Thiên Chúa muốn vì chính bản thân nó, chỉ có thể tìm thấy bản thân mình trọn vẹn qua việc tự nguyện cho đi chính mình”[12]. Con người cũng không thể thấu hiểu trọn vẹn sự thật về chính mình nếu không qua cuộc gặp gỡ với người khác”[13].

Chúng ta thấy điều này ngay trong Tin Mừng: “Ai làm theo ý Cha tôi ở trên trời thì người ấy là anh em, là chị em, là mẹ tôi” ( Mt 12, 50 ), và điều này có hậu quả phong phú đối với gia đình như là tế bào cơ bản của xã hội. “Thiên Chúa là tình yêu và Ngài sống trong chính Ngài một mầu nhiệm hiệp thông tình yêu cá vị. Khi tạo dựng nhân loại nam nữ theo hình ảnh Ngài và duy trì họ tồn tại liên tục, Thiên Chúa đã ghi vào trong họ ơn gọi, và do đó khả năng và trách nhiệm tương ứng, hướng tới tình yêu và sự hiệp thông. Tình yêu vì thế là ơn gọi cơ bản và vốn có của mọi con người”[14].

Còn về tình bạn: “Thầy gọi anh em là bạn hữu” ( Ga 15,15 ), cũng như vậy: tình bạn được nuôi dưỡng bằng tình yêu Thiên Chúa và xây dựng cộng đồng. “Nhờ ơn mà Ngài ban cho, chúng ta được nâng lên để thực sự trở thành bạn hữu của Ngài. Chúng ta có thể yêu Ngài bằng chính tình yêu Ngài đổ tràn trong chúng ta, mở rộng tình yêu đó cho người khác, với hy vọng họ cũng tìm thấy chỗ đứng trong Hội thánh do Đức Giêsu Kitô thiết lập”[15].

 

                                                                                              Linh mục Giuse Phan Cảnh

ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa

-----------------------------

[1] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 362.

[2] Josémaría Escrivá de Balaguer, Amis de Dieu, no 200.

[3] CĐ Vaticano II, Gaudium et Spes, 12,3.

[4] CĐ Vaticano II, Gaudium et Spes, 24,3.

[5] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 356.

[6] Saint Augustin, Commentaire de la première lettre de saint Jean, traité 2, no 14.

[7] Saint Thomas d’Aquin, Suma teológica, II-II, question 23, article 8.

[8] Benoît XVI, Caritas in veritate, no 30.

[9] Benoît XVI, Deus caritas est, no 7.

[10] Benoît XVI, Caritas in veritate, no 4.

[11] Saint Augustin, Commentaire de la première lettre de saint Jean, traité 9, no 10.

[12] CĐ Vaticano II, Gaudium et Spes, số 24.

[13]  Pape François, Fratelli tutti, no 87.

[14] Saint Jean Paul II, Familiaris consortio, no 11.

[15]  Pape François, Christus vivit, no 153.