GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM C

01/05/2025
114
Header


GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH NĂM C

WHĐ (01/5/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của Chúa nhật 3 Phục sinh năm C theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.

Số 642-644, 857, 995-996: Các tông đồ và môn đệ là những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô

Số 553, 641, 881, 1429: Chúa Kitô Phục Sinh và Thánh Phêrô

Số 1090, 1137-1139, 1326: Phụng vụ trên trời

Bài Ðọc I: Cv 5, 27b-32. 40b-41

Bài Ðọc II: Kh 5, 11-14

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

Số 642-644, 857, 995-996: Các tông đồ và môn đệ là những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô

Số 642. Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phêrô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Kitô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ. “Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô”[1] trước hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông Phaolô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với ông Giacôbê và với tất cả các Tông Đồ[2].

Số 643. Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục sinh của Đức Kitô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước[3]. Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại. Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”: Lc 24,17) và hoảng sợ[4]. Vì vậy họ đã không tin các phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11)[5]. Khi Chúa Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14).

Số 644. Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giêsu phục sinh, vẫn còn nghi ngờ[6]; đối với các ông, coi như không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma[7], “các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tôma cũng đã nghi ngờ như vậy[8], và trong dịp hiện ra lần cuối cùng mà sách Matthêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giêsu sống lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.

Số 857. Hội Thánh có đặc tính tông truyền vì được đặt nền trên các Tông Đồ, và điều này được hiểu theo ba nghĩa:

– Hội Thánh đã và đang được xây dựng trên “nền móng là các Tông Đồ” (Ep 2,20)[9], là những chứng nhân đã được chính Đức Kitô tuyển chọn và sai đi[10];

– Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ngự trong Hội Thánh, Hội Thánh gìn giữ và lưu truyền giáo huấn[11], kho tàng quý báu, những lời lành thánh nghe được từ các Tông Đồ[12];

– Hội Thánh tiếp tục được giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn bởi các Tông Đồ cho đến khi Đức Kitô trở lại nhờ những vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử: Giám mục đoàn, “với sự trợ giúp của các linh mục, hợp nhất với Đấng kế nhiệm thánh Phêrô là mục tử tối cao của Hội Thánh”[13].

“Lạy Chúa là Mục Tử hằng hữu, Chúa không bỏ rơi đoàn chiên Chúa, nhưng nhờ các Thánh Tông Đồ, Chúa luôn che chở giữ gìn để đoàn chiên được hướng dẫn nhờ các vị lãnh đạo Chúa đã đặt làm mục tử nhân danh Con Chúa…”[14].

Số 995. Làm chứng nhân cho Đức Kitô là “làm chứng nhân về sự phục sinh của Người” (Cv 1,22)[15], là đã ăn, đã uống “với Người sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại” (Cv 10,41). Niềm hy vọng Kitô giáo về sự phục sinh được ghi dấu cách tuyệt đối bằng những cuộc gặp gỡ Đức Kitô phục sinh. Chúng ta sẽ phục sinh như Người, với Người và nhờ Người.

Số 996. Ngay từ đầu, đức tin Kitô giáo về sự phục sinh đã gặp những phản ứng không hiểu và chống đối[16]. “Trong đức tin Kitô giáo, không có việc nào bị chống đối cách mạnh mẽ, dai dẳng, quyết liệt và hăng hái cho bằng vấn đề thân xác sống lại”[17]. Thông thường, người ta chấp nhận là sự sống của nhân vị, sau khi chết, được tiếp tục một cách thiêng liêng. Nhưng làm sao tin được rằng thân xác hiển nhiên là phải chết này lại có thể phục sinh vào đời sống vĩnh cửu?

 

Số 553, 641, 881, 1429: Chúa Kitô Phục Sinh và Thánh Phêrô

Số 553. Chúa Giêsu ủy thác cho ông Phêrô một thẩm quyền đặc biệt: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời; dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). “Quyền chìa khoá” là quyền cai quản Nhà của Thiên Chúa, tức là Hội Thánh. Chúa Giêsu, “Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11) xác nhận nhiệm vụ đó sau khi Người phục sinh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền “cầm buộc và tháo cởi” có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh. Chúa Giêsu ủy thác quyền này cho Hội Thánh qua thừa tác vụ của các Tông Đồ[18], và đặc biệt của ông Phêrô, người duy nhất Chúa minh nhiên trao phó chìa khóa Nước Trời.

Số 641. Bà Maria Magđalêna và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến để hoàn thành việc xức dầu cho thân thể của Chúa Giêsu[19], vốn được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sabat[20], là những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh[21]. Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Kitô cho chính các Tông Đồ[22]. Sau đó Chúa Giêsu hiện ra với các ông, trước hết là với ông Phêrô, sau đó với nhóm Mười Hai[23]. Vì vậy ông Phêrô, người đã được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình[24], đã thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng đoàn kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34).

Số 881. Chúa đã đặt một mình ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, làm đá tảng của Hội Thánh Người. Người đã trao cho ông các chìa khóa của Hội Thánh[25]; và đặt ông làm mục tử của toàn thể đoàn chiên[26]. “Tuy nhiên, nhiệm vụ tháo gỡ và cầm buộc, đã được ban cho ông Phêrô, rõ ràng cũng đã được trao ban cho Tông Đồ đoàn, hợp nhất với đầu của mình”[27]. Nhiệm vụ mục tử này của thánh Phêrô và của các Tông Đồ khác thuộc về nền móng của Hội Thánh. Nhiệm vụ đó được tiếp tục bởi các Giám mục dưới quyền tối thượng của Giám mục Rôma.

Số 1429. Có thể lấy cuộc hối cải của thánh Phêrô, sau khi chối Thầy mình ba lần, làm bằng chứng cho điều đó. Cái nhìn của lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu khiến ông khóc lóc thống hối[28] và, sau khi Chúa sống lại, ông đã ba lần khẳng định tình yêu của ông đối với Người[29]. Cuộc hối cải thứ hai cũng mang chiều kích cộng đoàn. Điều này được thấy rõ trong lời kêu gọi của Chúa với toàn thể Hội Thánh: “Hãy hối cải!” (Kh 2,5.16).

Thánh Ambrôsiô nói về hai cuộc hối cải: “Hội Thánh có nước và nước mắt, nước của bí tích Rửa Tội, và nước mắt của bí tích Thống Hối”[30].

 

Số 1090, 1137-1139, 1326: Phụng vụ trên trời

Số 1090. “Trong phụng vụ trần thế, chúng ta tham dự như một cách nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là lữ khách đang tiến về, ở đó, Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là thừa tác viên của cung thánh, và của nhà tạm đích thực; chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa; chúng ta kính nhớ các Thánh, và hy vọng được đồng phận với các ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho đến khi Người, là sự sống của chúng ta, xuất hiện, và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang”[31].

Số 1137. Sách Khải Huyền của thánh Gioan, được đọc trong phụng vụ của Hội Thánh, trước tiên cho chúng ta thấy một cái ngai được đặt trên trời; và Đấng ngự trên ngai[32]: đó là “Chúa” (Is 6,1)[33]. Rồi đến “Một Con Chiên trông như thể đã bị giết” (Kh 5,6)[34]: đó là Đức Kitô bị đóng đinh và đã sống lại, là vị Thượng Tế duy nhất của cung thánh đích thực[35], chính Người “vừa là người dâng vừa là lễ vật được dâng lên, vừa là người tặng vừa là quà được hiến tặng”[36]. Cuối cùng là “con sông có nước trường sinh, … chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên” (Kh 22,1), đó là một trong những biểu tượng đẹp nhất về Chúa Thánh Thần[37].

Số 1138. “Những ai được quy tụ” trong Đức Kitô tham dự vào việc phục vụ là ca ngợi Thiên Chúa và việc chu toàn kế hoạch của Ngài là: các Quyền thần trên trời[38], toàn thể thụ tạo (tượng trưng bằng bốn Con vật), các thừa tác viên thời Cựu và Tân Ước (24 Kỳ mục), dân mới của Thiên Chúa (144 ngàn người)[39], đặc biệt là các vị tử đạo “những người đã bị giết vì đã rao giảng lời Thiên Chúa” (Kh 6,9), và Mẹ chí thánh của Thiên Chúa (Người Phụ nữ[40]; Hiền thê của Con Chiên[41]), cuối cùng là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước, và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9).

Số 1139. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh cho chúng ta được tham dự vào Phụng vụ vĩnh cửu này, khi chúng ta cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các bí tích.

Số 1326. Sau cùng, nhờ việc cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta đã được kết hợp với phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu, trong đó “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).

 

Bài Ðọc I: Cv 5, 27b-32. 40b-41

Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!" Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con.

 

Bài Ðọc II: Kh 5, 11-14

Bài trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: "Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng". Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: "Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời". Bốn sinh vật thưa: "Amen", và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

 

lleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: "Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.

Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi "Ông là ai?", vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.

[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy". Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".]   Ðó là lời Chúa.

--------

[1] X. Cv 1,22.

[2] X. 1 Cr 15,4-8.

[3] X. Lc 22,31-32.

[4] X. Ga 20,19.

[5] X. Mc 16,11.13.

[6] X. Lc 24,38.

[7] X. Lc 24,39.

[8] X. Ga 20,24-27.

[9] X. Kh 21,14.

[10] X. Mt 28,16-20; Cv 1,8; 1 Cr 9,1; 15,7-8; Gl 1,1; v.v….

[11] X. Cv 2,42.

[12] X. 2 Tm 1,13-14.

[13] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 5: AAS 58 (1966) 952.

[14] Kinh Tiền Tụng Lễ Các Thánh Tông Đồ I: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 426.

[15] X. Cv 4,33.

[16] X. Cv 17,32; 1 Cr 15,12-13.

[17] Thánh Augustinô, Enarratio in Psalmum 88, 2, 5: CCL 39, 1237 (PL 37, 1134).

[18] X. Mt 18,18.

[19] X. Mc 16,1; Lc 24,1.

[20] X. Ga 19,31.42.

[21] Mt 28,9-10; Ga 20,11-18.

[22] X. Lc 24,9-10.

[23] X. 1 Cr 15,5.

[24] X. Lc 22,31-32.

[25] X. Mt 16,18-19.

[26] X. Ga 21,15-17.

[27] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 22: AAS 57 (1965) 26.

[28] X. Lc 22,61-62.

[29] X. Ga 21,15-17.

[30] Thánh Ambrôsiô, Epistula extra collectionem, 1 [41], 12: CSEL 82/3, 152 (PL 16, 1116).

[31] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 8: AAS 56 (1964) 101; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 50: AAS 57 (1965) 55-57.

[32] X. Kh 4,2.

[33] X. Ed 1,26-28.

[34] X. Ga 1,29.

[35] X. Dt 4,14-15; 10,19-21; etc.

[36] Liturgia Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi: F.E. Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford 1896) 378 (PG 63, 913).

[37] X. Ga 4,10-14; Kh 21,6.

[38] X. Kh 4-5; Is 6,2-3.

[39] X. Kh 7,1-8; 14,1.

[40] X. Kh 12.

[41] X. Kh 21,9.

 

Nguồn: hdgmvietnam.com