Bài suy niệm lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa

30/12/2025
117
Chúa Nhật Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa Năm A - Giáo xứ Thánh Giuse


BÀI SUY NIỆM LỄ ĐỨC MARIA – MẸ THIÊN CHÚA

Xây dựng hòa bình bằng một con tim thánh thiện 

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Ngày đầu năm mới dương lịch, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa, như một lời mời gọi chúng ta hướng đến sự bình an đích thực mà chính Thiên Chúa sẽ tặng ban cho nhân loại. Đây là tín điều đã được Giáo hội long trọng tuyên bố tại Công đồng chung Êphêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Giêsu thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Êphêsô năm 431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandria. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. 

Ngay từ những trang đầu của Sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã báo trước cho chúng ta thấy về hình ảnh của một người phụ nữ. Trong  sách tiên tri Isaia, Thiên Chúa lại nói với vua Akhar lần nữa rằng: “ Hãy xin với Thiên Chúa của ngươi một dấu. Nhưng vua Akhar nói: Tôi đâu dám xin thế, Tôi không muốn thử sức Chúa tôi. Ngài mới nói: Hỡi nhà Đavid, hãy nghe đây. Phải chăng làm mệt người ta, các ngươi còn cho là quá ít hay sao, mà các ngươi lại còn muốn làm mệt cả Thiên Chúa nữa? Cho nên chính Ta, Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và sẽ gọi tên Con là Emmanuel” ( Is 7,10-14 ).

Tuy đây là chương trình của Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa lại muốn con người cộng tác với Ngài. Đức Maria đã được Thiên Chúa đoái đến. Lúc đầu khi chưa hiểu, Đức Maria đã lưỡng lự, nhưng sau biết được công việc của Thiên Chúa, Mẹ đã nói lên lời : “Xin Vâng”. Và từ lời “xin vâng” đó Ngôi Hai Thiên Chúa  đã nhập thể làm người.

Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người để đem lại bình an cho nhân loại. Đây không phải chỉ là lời cầu xin Thiên Chúa của dân Israel ngày xưa mà đó cũng là của mỗi chúng ta, của con người trong thời đại hôm nay, một thời đại đang khao khát hòa bình, và “Ta sẽ chúc lành cho chúng” ( Ds 6,27 ) cũng là câu trả lời của Thiên Chúa cho tất cả những lời cầu xin của chúng ta. Quả thật, trải qua dòng lịch sử cứu độ, câu trả lời đó từng bước được thể hiện cách rõ ràng và cụ thể hơn, rõ ràng và cụ thể nơi chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô, như thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc thứ 2: “Khi thời gian đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ luật, để cứu chuộc những người dưới chế độ luật, hầu cho chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa” (Gl 4,4-5). Chính trong sự nhập thể này, Ngôi Hai Thiên Chúa đã đem lại bình an đích thực cho nhân loại chúng ta vì lẽ Người là Vua Hòa Bình, là Hoàng Tử Bình An ( Is 9,6), Người là dấu chứng của việc hòa giải con người với Thiên Chúa, là Đấng nối kết giữa trời với đất.

Sự khao khát bình an thật sự mới giúp chúng ta thấy được và đón nhận được bình an đích thực mà Thiên Chúa đã thương ban cho chúng ta : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Cái khao khát mà Hêrôđê cũng như dân thành Giêrusalem đã thể hiện khi xưa chỉ là khao khát giả tạo, một khao khát chỉ thuộc về con người, nên họ cũng chỉ lo tìm kiếm cái bình an của con người, của cá nhân họ mà không thể nhận ra và đón nhận được bình an cũng như sự hòa bình đích thực mà Chúa Hài Đồng đã đem đến, để rồi “khi nghe tin ấy”, cái tin Vua Hoà Bình, Hoàng Tử Bình An đã đến thì “vua Hêrôđê bối rối còn dân thành Giêrusalem thì xôn xao” (Mt 2,3).

Trái lại, dẫu có hoảng sợ và kinh ngạc, nhưng các mục đồng, những con người, mà dưới mắt vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem, họ không chỉ là hạng người nghèo, mà còn là hạng người ô uế, hạng người bị loại ra khỏi đền thờ, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ, đã hân hoan  vui mừng và vội vã ra đi tìm kiếm “Đấng Cứu Thế đã được sinh ra” khi được nghe các Thiên Thần loan báo. Người ta kể câu chuyện này:

Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng và hỏi:

- Anh có nghe gì không ?

Người da trắng hết sức lắng tai nghe, rồi đáp:

- Tôi chẳng nghe gì cả.

- Có mà, tôi nghe tiếng một con dế kêu.

- Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này ? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại ?

Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang kêu.

Người da trắng thán phục :

- Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều.

- Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem.

Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, ném xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn leng keng khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích :

- Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý.

Niềm tin của Đức Mẹ không phải chờ đến lúc nghe các mục đồng kể lại những việc xảy ra với họ, nhưng ngay từ ngày truyền tin Mẹ đã tin, Mẹ đã nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tin mừng thuật lại cho chúng ta: “khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà Thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21). Tên gọi Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu độ”, một “Thiên Chúa cứu độ” mà Mẹ đã hằng tin tưởng, dẫu “Thiên Chúa cứu độ” đó sao lại quá yếu ớt trong thân phận một Hài Nhi và ngay khi mới sinh ra đã bị loại trừ, cũng không vì đó làm Mẹ xao động trong đức tin của mình, trái lại dù thế nào đi nữa Mẹ vẫn “suy niệm trong lòng”, suy niệm về mầu nhiệm tình thương Thiên Chúa đã dành cho Mẹ và cho cả nhân loại này, để rồi không ngừng vâng nghe và cộng tác vào đó, không do dự đón nhận Hài Nhi đó dẫu biết rằng sẽ có không ít những khó khăn đi kèm.

Và phần thưởng mà Thiên Chúa dành cho niềm tin này quả là quá cao vời, Mẹ không chỉ được gọi là Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa, mà còn hơn thế nữa là cả nhân loại đều được đón nhận ơn giải thoát, đón nhận sự bình an đích thực mà Hài Nhi Giêsu mang đến.

Như thế, để có được sự hòa bình, sự bình an đích thực cho cuộc sống chúng ta, cho thế giới hiện tại, thì mỗi chúng ta được mời gọi tin vào sự Nhập Thể của Đức Kitô trong một Hài Nhi đơn sơ, bé nhỏ, yếu ớt, và quá đỗi nghèo hèn, Người là Đấng mà thánh Gioan đã xác quyết “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Xác Phàm đó, Ngôi Lời đó vẫn đang cư ngụ giữa chúng ta, Người có thể là người thân trong gia đình chúng ta, trong giáo xứ, khu xóm và cộng đoàn chúng ta đang sống. Người cũng có thể là một người nghèo, nghèo nhân phẩm, nghèo vật chất, nghèo thế lực, nghèo địa vị, nghèo tiếng nói mà chúng ta được gặp trong đời. Người cũng có thể là một trẻ em, một thai nhi đang sống trong chúng ta và gần chúng ta. Nếu chúng ta không biết đón tiếp những con người đó, không có trách nhiệm với họ, thậm chí, theo ngôn ngữ của thời đại hôm nay đó là chúng ta đang khủng bố họ, khủng bố không chỉ bằng quyền, bằng tiền, mà còn cả bằng lời nói, bằng cô lập tình cảm, thì chính chúng ta đang khủng bố Chúa Hài Đồng, đang loại trừ Hài Nhi Giêsu, đang tìm giết Vua Hòa Bình, và đó cũng là lúc chúng ta chối bỏ sự bình an và nền hòa bình đích thực, để rồi như Hêrôđê và dân thành Giêrusalem xưa chỉ sống trong bối rối và xôn xao chứ không thể có được sự vui mừng và hân hoan của các mục đồng.

Trong ngày đầu năm mới dương lịch này, chúng ta hãy cùng xin với Đức Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.

                                                                                Linh mục Giuse Phan Cảnh

                                                                ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa