BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXVIII – THƯỜNG NIÊN - NĂM C
2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19.
Cần lắm hai tiếng “cám ơn”
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Người ta kể câu chuyện như thế này: Có hai người khách bộ hành đi trong một khu rừng rậm rạp. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ đã khát nước. Cuối cùng họ đến một con suối nhỏ. Dòng nước mát lạnh chảy rì rào. Hai người cúi xuống uống nước. Người ông bảo: Cám ơn dòng suối nhỏ.
Nói đoạn người ông rút trong túi một cái muôi và múc một ít nước bùn từ dưới lòng suối đổ đi. Đứa cháu cười.
Vì sao cháu lại cười? Người ông hỏi.
Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối? Dòng suối có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông.
Người ông ngẫm nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim hót vang trong rừng.
Sau một lúc lâu im lặng, người ông bảo: Thế đấy! Dòng suối không nghe thấy gì đâu. Nếu như một con chó sói uống nước, có thể nó không cám ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không là sói, chúng ta là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Và cháu biết, con người nói cám ơn để làm gì không?
Đứa cháu trầm ngâm, nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó.
Chúng ta nói hai tiếng “cám ơn” là để không trở thành chó sói.
Người thi ơn không đòi phải biết ơn, không đòi phải có đáp đền, nhưng người nhận ơn không tỏ lòng biết ơn thì dễ trở thành chó sói.
Mỗi người chúng ta sinh ra trong cuộc đời này đều là những người nhận ơn. Ơn đầu tiên mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta đó là hồng ân sự sống, nhưng nhiều khi trong cuộc đời chúng ta không nhận ra những ơn cao cả ấy. Câu chuyện trong Tin mừng của Chúa nhật 28 thường niên hôm nay diễn tả cho chúng ta một điều: cần lắm hai tiếng “cám ơn”. Cả 10 người cùng một lúc đều được Chúa Giêsu chữa khỏi bệnh nhưng chỉ có một người biết ơn còn lại chín người vô ơn.
Tuy nhiên Thiên Chúa không cần người ta phải tỏ lòng biết ơn Ngài như người đời, vì lời tạ ơn của ta không thêm gì cho Chúa. Nhưng cần tạ ơn theo ý Chúa dạy để đem lại ơn cứu độ cho ta.
Trong bài đọc I, Naaman về làm theo lời ngôn sứ Êlysê, ông được ơn khỏi cùi, nhờ đó đức tin ông thăng tiến: ông chỉ nhận Đức Chúa là Chúa: Naaman là người ngoại giáo, sau khi được khỏi cùi, ông tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người : “Khắp cả và thiên hạ, không đâu có Thiên Chúa, trừ phi là ở Israel, và cụ thể từ nay tôi không dâng thượng hiến và lễ tế thần linh cho một Đấng nào khác ngoài Chúa” ( 2V 5,15.17b). Naaman đã nhận ra giá trị đất Israel, nơi xuất phát ơn cứu độ, cho nên khi ông về Syria quê ông sinh sống, ông cũng chỉ muốn sinh hoạt tôn giáo của ông trên đất Israel, do đó ông xin Êlysê ít đất bằng hai con la chở về nhà để ông lập bàn thờ kính Chúa.
Tại sao chín người Do Thái khỏi cùi kéo nhau lên Giêrusalem để trình diện với hàng tư tế mà Chúa Giêsu không chấm giá trị của họ, Ngài hỏi người cùi Samari : “Không phải là cả 10 người được khỏi cùi sao? 9 người kia đâu, sao không thấy họ trở lại mà tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại giáo này?” (Lc 17,17-18).
Câu hỏi này chính là Chúa Giêsu muốn tuyên bố nghi thức phụng vụ của Do Thái Giáo đã đến lúc phải chấm dứt, vì đó chỉ là hình bóng của phục vụ Thiên quốc, chỉ có phụng vụ “Chính nhờ Giêsu, với Giêsu và trong Giêsu, mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha, cùng với Chúa Thánh thần”.
Nhiều người trong chúng ta thường lý luận rằng: Chúa ở khắp mọi nơi, thờ Chúa ở đâu cũng được, hay đạo tại tâm. Nhưng chúng ta cần xác tín rằng: ai thờ Chúa đích thực cần thuộc về Hội thánh qua Bí tích Thánh Tẩy. Qua việc tôn thờ Thiên Chúa trong Phụng vụ của Hội Thánh, nhất là Thánh lễ, vì Thánh lễ là lời tạ ơn đẹp nhất của mỗi người chúng ta dâng lên Chúa.
Một người hiểu và sống như thế, khi họ dâng lễ, chính đời họ là của lễ kết hợp với của lễ Đức Giêsu Kitô đang dâng lên Chúa Cha tuyệt hảo nhất. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15).
Chúa cho chúng ta đôi mắt, để chúng ta nhìn bao kỳ công của Chúa. Chúa cho chúng ta đôi tai, để chúng ta nghe đủ âm thanh. Chúa cho chúng ta đôi môi, để chúng ta hé mở nụ cười. Chúa cho chúng ta hai tay, để chúng ta bưng chén cơm, cầm bút. Chúa cho chúng ta đôi chân, để dẫn chúng ta khắp nẻo đường. Chúa cho chúng ta khối óc, để chúng ta phân biệt điều thực hư. Những điều chúng ta có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả, thế mà đã lần nào chúng ta nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa? Đã bao giờ chúng ta biết ngước mắt lên trời để cám ơn Chúa vì những gì chúng ta đang có hay chưa? Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, chúng ta mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Chính Thánh Phaolô đã nhận ra giá trị này khi ngài nói: “Tôi là người thứ nhất được Chúa cứu độ” ( Tm1,15), “Chúa đã yêu tôi, liều chết vì tôi” (Gl 2,20), chứ không phải chỉ vì Chúa thương mọi người mà thôi.
Như thế, quả như lời Thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II rằng : “Lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích” ( 1 Tm 2,9 ), vì ngay trong lúc Ngài bị xiềng xích, bị ngục tù, Ngài vẫn rao giảng lời Chúa bằng cách chịu đau khổ.
Cuộc đời của những người theo Chúa là một cuộc hành trình Đức tin. Cuộc hành trình Đức tin đó được gắn liền với những sự việc, những biến cố xảy ra trong cuộc sống của mỗi người. Muốn thực hiện cuộc hành trình ấy cách tuyệt hảo, đòi hỏi chúng ta là phải để cho giác quan mới là Đức tin hoạt động.
Với cái nhìn của giác quan mới đó, thì dù cuộc sống của chúng ta có thế nào đi nữa, nó cũng sẽ được nhìn như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nhìn:
Cuộc sống là một cơ may, hãy đón nhận lấy nó.
Cuộc sống là một vẻ đẹp, hãy ca tụng nó.
Cuộc sống là một giấc mơ, hãy biến nó thành hiện thực.
Cuộc sống là một huyền nhiệm, hãy khám phá nó.
Cuộc sống là một ước nguyện, hãy thực hiện nó.
Cuộc sống là một kho tàng, hãy gìn giữ nó.
Cuộc sống là tình yêu, hãy vui hưởng nó.
Nhìn cuộc sống với giác quan mới như thế, chúng ta sẽ nhận ra những ân huệ của Chúa, ngay cả trong những thử thách, khổ đau, mất mát, và từ đó thúc đẩy chúng ta luôn sống với tâm tình cảm tạ tri ân. Cám ơn Chúa mỗi sớm mai thức dậy, thêm một ngày ta sống để yêu thương. Như thế, lúc nào cũng có thể hát lên rằng : “ Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người”.
Linh mục Giuse Phan Cảnh
ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa