BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM C

11/04/2025
202
Header

BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM C

Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu vào Chúa nhật lễ Lá năm C.

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (10/4/2022) - "Hãy tự cứu mình" không phải là lối đi của Chúa

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (14/4/2019) - Thinh lặng, cầu nguyện, hạ mình

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (20/3/2016) - Con đường phục vụ, tha thứ, quên mình

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (24/3/2013) - Niềm vui, thập giá và người trẻ

Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (28/3/2010) - Chúa Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem

Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (01/4/2007) - Bước theo Đức Kitô

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (10/4/2022) - "Hãy tự cứu mình" không phải là lối đi của Chúa

Trên đồi Canvê, hai não trạng gặp nhau. Trong Phúc âm, những lời của Chúa Giêsu bị đóng đinh trái ngược với những lời của những kẻ đóng đinh Người. Họ lặp lại một điệp khúc: “Hãy tự cứu lấy mình đi”. Các thủ lãnh đã nói như vậy: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (Lc 23,35). Còn những người lính thì nhắc lại điều đó: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi” (câu 37). Và cuối cùng, một trong hai tên gian phi, đã nghe và cũng lặp lại: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi!” (câu 39). Hãy tự cứu lấy mình, lo cho bản thân mình, hãy nghĩ về bản thân mình; không phải cho người khác, mà chỉ cho sức khỏe của riêng mình, thành công của riêng mình, lợi ích của riêng mình; giàu có, quyền lực và nổi trội. Hãy tự cứu lấy mình: đây là điệp khúc của con người để đóng đinh Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này.

Nhưng não trạng của “cái tôi” lại đối nghịch với tư tưởng của Thiên Chúa; sự tự cứu mình gặp nhau với Đấng Cứu Thế tự hiến mình. Trong bài Tin Mừng trên đồi Canvê hôm nay, Chúa Giêsu cũng ba lần nói, như những kẻ bách hại Người (xem câu 34.43.46), nhưng không lần nào Người đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng mình; thực sự, thậm chí Người không biện hộ hay biện minh cho chính mình. Người cầu nguyện với Cha và ban lòng thương xót cho kẻ trộm lành. Đặc biệt, một trong những cách diễn đạt của Người đánh dấu sự khác biệt so với sự tự cứu mình, đó là: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ” (câu 34).

Chúng ta hãy dừng lại ở những từ này. Chúa đã nói điều này khi nào? Vào một giây phút đặc biệt: trong khi bị đóng đinh, khi Người cảm nhận những chiếc đinh đâm vào cổ tay và bàn chân của Người. Chúng ta hãy thử tưởng tượng sự đau đớn tột cùng của những mũi đinh này gây ra. Ở đó, trong cơn đau đớn nhất về thể xác trong cuộc Khổ nạn, Chúa Kitô cầu xin sự tha thứ cho những ai đang bước qua Người. Trong những giờ phút đó, người ta sẽ chỉ hét lên tất cả sự tức giận và đau khổ của mình; thay vào đó, Chúa Giê-su nói: Lạy Cha, xin tha thứ cho họ. Không giống như những vị tử đạo khác mà Kinh thánh kể lại (x. 2 Mac 7,18-19), Người không quở trách những kẻ hành hình và không đe dọa những hình phạt nhân danh Thiên Chúa, nhưng Người cầu nguyện cho kẻ ác. Sự sỉ nhục gắn với án xử làm gia tăng cường độ của món quà được trao, đã trở thành sự tha thứ.

Anh chị em thân mến, chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa cũng làm điều này với chúng ta. Chúng ta làm cho Người đau khổ bằng hành động của mình, Người đau khổ và chỉ có một ước muốn duy nhất: có thể tha thứ cho chúng ta. Để nhận ra điều này, chúng ta hãy nhìn lên Thánh giá. Chính từ những vết thương của Người, từ những lỗ đinh đau đớn do bàn tay chúng ta gây ra, sự tha thứ đã tuôn trào. Chúng ta nhìn Chúa Giêsu trên Thánh giá và nghĩ rằng chúng ta chưa bao giờ nhận được lời nào tốt hơn: Lạy Cha, xin tha thứ cho họ. Chúng ta nhìn Chúa Giêsu trên Thánh giá và thấy rằng chúng ta chưa bao giờ nhận được một cái nhìn dịu dàng và yêu mến hơn. Chúng ta nhìn Chúa Giêsu trên Thánh giá và hiểu rằng chúng ta chưa bao giờ nhận được một vòng tay yêu thương hơn thế. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá và nói: “Cảm ơn Chúa Giêsu: Chúa yêu thương con và luôn tha thứ cho con, ngay cả khi con thấy mình khó yêu và khó tha thứ cho chính mình”.

Ở đó, trong khi bị đóng đinh, trong thời khắc khó khăn nhất, Chúa Giêsu đã sống điều răn khó nhất của Người: yêu kẻ thù. Chúng ta nghĩ về ai đó đã làm tổn thương, xúc phạm, làm chúng ta thất vọng; với người đã khiến chúng ta tức giận, không hiểu chúng ta hoặc không phải là một tấm gương tốt. Chúng ta đã dành bao nhiêu thời gian để dừng lại nghĩ về người đã làm tổn thương chúng ta! Cũng như chính chúng ta nhìn vào chính mình và liếm lại những vết thương mà người khác, cuộc đời và lịch sử đã gây ra cho chúng ta. Hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng ở lại đó, nhưng hãy hành động. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự ác và nuối tiếc. Để phản ứng lại trước những cái đinh của cuộc sống bằng tình yêu, trước những cú đánh mạnh của hận thù bằng sự dịu dàng của tha thứ. Nhưng chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta bước theo vị Thầy hay theo bản năng oán thù của mình? Đó là một câu hỏi mà chúng ta phải tự hỏi: chúng ta bước theo vị Thầy của mình hay theo bản năng oán thù của mình? Nếu chúng ta muốn xác minh mình có thuộc về Đức Kitô hay không, chúng ta hãy xem cách chúng ta cư xử với những người đã làm tổn thương chúng ta thế nào. Chúa đòi hỏi chúng ta đáp lại không phải bằng tính khí của chúng ta hay như mọi người đều làm, nhưng như cách Người đã làm cho chúng ta. Người đòi chúng ta phá bỏ chuỗi mắc xích “Tôi yêu bạn nếu bạn yêu tôi; Tôi là bạn của bạn nếu bạn là bạn của tôi; Tôi giúp bạn nếu bạn giúp tôi”. Không. Lòng nhân từ và thương xót là cho mọi người, bởi vì Chúa nhìn thấy mỗi người là một người con. Người không chia chúng ta thành tốt và xấu, bạn và thù. Chúng ta làm điều đó, khiến Người đau khổ. Đối với Người, tất cả chúng ta đều là những người con yêu quý mà Người mong muốn được ôm lấy và tha thứ. Và đây là trường hợp trong dụ ngôn nhà vua mời dự tiệc cưới của con trai mình. Ông đã sai người hầu ra các ngã tư đường và nói: “Mọi người, bất luận trắng, đen, tốt, xấu, tất cả mọi người, khỏe mạnh, bệnh tật, tất cả mọi người...” ( x. Mt 22,9-10). Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho tất cả mọi người, không có đặc quyền nào ở đây. Tất cả. Đặc ân của mỗi chúng ta là được yêu thương, được tha thứ.

Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết họ làm. Tin Mừng nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã “nói” (c. 34) điều này: Người không nói điều đó một lần cho mãi mãi vào lúc bị đóng đinh, nhưng Người đã trải qua hàng giờ trên Thánh giá với những lời này trên môi và trong lòng. Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ. Chúng ta phải hiểu điều này, nhưng hiểu nó không chỉ bằng trí óc, mà còn bằng trái tim: Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ, chính chúng ta là người mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ, nhưng Người không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ. Người không làm như thế trong một khoảng thời gian nhất định cho đến khi thay đổi quyết định, như chúng ta thường làm. Chúa Giêsu – như Tin Mừng thánh Luca dạy - đã đến thế gian để mang đến ơn tha thứ cho chúng ta (x. Lc 1,77) và cuối cùng Người đã ban cho chúng ta một chỉ dẫn cụ thể: nhân danh Người mà rao giảng ơn tha thứ tội lỗi cho mọi người (x. Lc 24,47).

Anh chị em thân mến, chúng ta đừng mệt mỏi về sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta, các linh mục thi hành, mọi Kitô hữu đón nhận và làm chứng về điều đó. Chúng ta đừng mệt mỏi với sự tha thứ của Thiên Chúa.

Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúng ta cần lưu ý một điều nữa. Chúa Giêsu không chỉ cầu xin sự tha thứ mà Người còn nói lý do: xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Nhưng thế nào được? Những kẻ đóng đinh Người đã định trước việc giết này, đã tổ chức để bắt Người, xét xử Người, và bây giờ họ đang ở trên đồi Canvê để chứng kiến cái chết của Người. Tuy nhiên, Đức Kitô đã biện minh cho những kẻ bạo tàn đó, vì họ không biết. Đây là cách Chúa Giêsu đối xử với chúng ta: Người trở thành người biện hộ cho chúng ta. Người không chống lại chúng ta, nhưng vì chúng ta, Người chống lại tội lỗi của chúng ta. Và lập luận mà Người sử dụng thật thú vị: bởi vì họ không biết, sự thiếu hiểu biết của trái tim mà tất cả tội nhân chúng ta đều có. Khi người ta sử dụng bạo lực thì họ không biết về Thiên Chúa, là Cha, cũng không biết về người khác, là anh em. Chúng ta quên mất lý do chúng ta có mặt trên thế giới này và chúng ta thực hiện những hành động tàn ác vô lý. Chúng ta thấy điều này trong sự điên rồ của chiến tranh, nơi chúng ta trở lại đóng đinh Chúa Kitô. Đúng vậy, một lần nữa, Chúa Kitô lại bị đóng đinh trên Thánh giá nơi những người mẹ đang than khóc về cái chết oan uổng của chồng con họ. Người bị đóng đinh nơi những người tị nạn chạy trốn bom đạn với những đứa trẻ trên tay. Người bị đóng đinh nơi những người già bị bỏ lại một mình chỉ để chết, nơi những người trẻ bị tước đoạt tương lai của họ, nơi những người lính bị gửi đi để giết anh em của họ. Chúa Kitô bị đóng đinh ở đó, ngày nay.

Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Nhiều người nghe thấy những lời chưa từng nghe này; nhưng chỉ có một người chào đón nó. Anh ta là một tội phạm, bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giêsu. Chúng ta có thể thấy rằng lòng thương xót của Chúa Kitô đã làm trổi lên một niềm hy vọng cuối cùng trong anh và khiến anh thốt lên những lời này: “Ông Giê-su ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Như muốn nói: “Mọi người đã quên tôi, nhưng ông còn nghĩ đến những kẻ đã đóng đinh ông. Vậy thì, với ông, vẫn còn có chỗ dành cho tôi”. Người trộm lành đón nhận Thiên Chúa khi cuộc sống sắp kết thúc và vì vậy cuộc sống của anh bắt đầu lại; nơi địa ngục trần gian, anh thấy được cửa Thiên Đàng mở ra: “hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (c. 43). Đây là điều kỳ dịu của sự tha thứ của Thiên Chúa, điều này đã biến lời thỉnh cầu cuối cùng của một người bị kết án tử thành sự phong thánh đầu tiên trong lịch sử.

Anh chị em thân mến, tuần này chúng ta chào đón sự chắc chắn rằng Thiên Chúa có thể tha thứ mọi tội lỗi. Thiên Chúa tha thứ cho tất cả mọi người, Người có thể tha thứ mọi khoảng cách, biến mọi tiếng khóc thành vũ điệu (x. Tv 30,12); sự chắc chắn rằng với Đức Kitô luôn có chỗ cho mọi người; rằng với Chúa Giêsu, không bao giờ là kết thúc, không bao giờ là quá muộn. Với Chúa, chúng ta luôn có thể quay trở lại cuộc sống. Can đảm lên, chúng ta hãy tiến bước đến Lễ Phục sinh với sự tha thứ của Người. Bởi vì Chúa Kitô liên tục cầu bầu cùng Chúa Cha cho chúng ta (x. Dt 7,25) và khi nhìn vào thế giới bạo lực, thế giới đầy thương tích của chúng ta, Người không bao giờ mệt mỏi lặp lại - và chúng ta cũng hãy lặp lại điều này trong tâm hồn: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.

Nguồn: vaticannews.va/vi

 

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (14/4/2019) - Thinh lặng, cầu nguyện, hạ mình

Anh chị em thân mến!

Niềm hân hoan trong cuộc khải hoàn tiến vào Giêrusalem và sự khiêm hạ của Chúa Giêsu; những tiếng reo vui và cơn tức giận hung hãn: Mỗi năm, mầu nhiệm kép này luôn đồng hành với việc bước vào Tuần Thánh thông qua hai khoảnh khắc mà chúng là nét đặc trưng của buổi cử hành này: cuộc rước lá cọ và cành ô liu và sau đó là trình thuật về cuộc khổ hình được đọc lên cách trang trọng.

Chúng ta hãy để cho mình được đồng bao hàm trong hành vi do Chúa Thánh Thần thúc đẩy ấy, để tiếp nhận điều mà chúng ta đã cầu xin rằng: Xin cho chúng con được đồng hành cùng với Đấng Cứu Chuộc chúng con trên con đường của Ngài, với Đức Tin, và luôn luôn tưởng nhớ tới cuộc khổ hình của Ngài, mà cuộc khổ hình ấy sẽ huấn dạy chúng con, cũng như là mẫu gương cho sự sống và sự chiến thắng trên thần dữ.

Chúa Giêsu sẽ dạy cho chúng ta biết nên đối diện với những khoảnh khắc khó khăn và những cơn cám dỗ thâm độc nhất như thế nào, cụ thể là Ngài sẽ dạy chúng ta duy trì trong tâm hồn mình một niềm bình an, mà niềm bình an ấy không có nghĩa là sự tách biệt, là sự bàng quan hay siêu vượt con người, nhưng là sự trao hiến đầy tín thác cho Thiên Chúa Cha cũng như cho Thánh ý của Ngài về ơn cứu độ, về sự sống và về Lòng Nhân Hậu. Và trong khi thi hành sứ mạng của mình, Chúa Giêsu đã phải trải qua cơn cám dỗ mà nó muốn xúi Ngài “thực hiện công việc riêng của mình”, có nghĩa là thực hiện theo cách thức riêng và tách mình ra khỏi sự tuân phục Thánh ý Chúa Cha. Kể từ lúc bắt đầu nơi cuộc chiến kéo dài suốt 40 đêm ngày trong sa mạc cho tới khi kết thúc nơi cuộc khổ hình, Chúa Giêsu đã luôn giữ một niềm tín thác đầy tuân phục đối với Thánh ý Chúa Cha, và đã khước từ cơn cám dỗ ấy.

Trong cuộc khải hoàn tiến vào Giêrusalem hôm nay của Ngài, Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta thấy con đường. Vì trong sự kiện này, kẻ ác, tức ông hoàng thế gian, đã có một con bài để rút ra: đó là con bài của sự đắc thắng; và Chúa Giêsu đã đáp lại bằng cách trung tín với con đường của Ngài, cụ thể là con đường khiêm nhượng.

Sự đắc thắng cám dỗ người ta tiến tới mục tiêu thông qua những con đường tắt và những thỏa hiệp sai trái. Nó thúc bách người ta bước vào những con đường của kẻ chiến thắng. Sự đắc thắng sống bởi những cử chỉ và những lời nói, nhưng chúng không đi qua lò đúc của Thập Giá; lương thực của nó chính là sự so sánh với những người khác mà nó luôn luôn cho rằng họ là những kẻ xấu xa, đầy lỗi lầm và nhiều thất bại hơn mình… Một trong những hình thức tinh vi nhất của sự đắc thắng chính là tinh thần thế tục; nó chính là sự nguy hiểm to lớn nhất, và là cơn cám dỗ thâm hiểm nhất đang đe dọa Giáo hội (Cha De Lubac). Chúa Giêsu đã khước từ thái độ đắc thắng ấy bằng cuộc khổ hình của Ngài.

Chúa Giêsu đã thực sự chia sẻ niềm vui của Dân Ngài, của những người trẻ mà họ đã gọi tên Ngài và tung hô Ngài là vua và là Đấng Messiah. Con tim Ngài vui mừng khi nó chứng kiến sự hào hứng và niềm vui tưng bừng của những người nghèo nhà Israel. Đến độ khi những người Pharisiêu yêu cầu Ngài phải khiển trách các môn đệ của mình vì những tiếng hò reo của họ khiến người ta phải bực mình, thì Ngài đã trả lời rằng: “Nếu họ thinh lặng thì những hòn đá sẽ reo lên” (Lc 19,40). Khiêm nhường không có nghĩa là chối bỏ thực tế, và Chúa Giêsu thực sự là Đấng Messiah, là vua.

Nhưng đồng thời, con tim của Chúa Kitô lại đi theo một con đường khác, con đường thánh thiện mà chỉ có Ngài và Thiên Chúa Cha mới biết: con đường này khởi đi từ “hình tượng Thiên Chúa” tới “hình tượng kẻ nô lệ”, con đường khiêm hạ trong sự tuân phục “tới chết, và chết trên Thập Giá” (Phil 2,6-8). Con đường ấy biết rằng, nó phải tạo chỗ cho Thiên Chúa để đạt tới được sự chiến thắng đích thực; và để tạo chỗ cho Thiên Chúa thì chỉ có một cách thức duy nhất: từ bỏ và làm sạch bản thân. Thinh lặng, cầu nguyện, và hạ mình. Người ta không thể thương lượng với Thánh Giá, hoặc là người ta đón nhận nó, hay là khước từ nó. Và với sự hạ mình của Ngài, Chúa Giêsu muốn mở cho chúng ta con đường Đức Tin, và muốn chúng ta tiến về phía trước trên con đường ấy.

Sau Chúa Giêsu là Thân Mẫu của Ngài - Đức Maria -, người đầu tiên đã bước đi trên con đường đó, nữ môn đệ đầu tiên. Đức Trinh Nữ và các Thánh đã phải đau khổ để bước đi trong Đức Tin và trong Thánh ý Thiên Chúa. Để đáp lời trong Đức Tin khi phải đối diện với những biến cố ác nghiệt và khổ đau của cuộc sống, cần tới “một sự nỗ lực đặc biệt của tâm hồn” (Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Mater, 17). Đó là đêm tối Đức Tin. Nhưng chỉ từ đêm đen ấy, ánh bình minh của sự phục sinh mới bừng lên. Dưới chân Thánh giá, Đức Maria đã nhớ lại những lời mà với chúng, Tổng Lãnh Thiên Thần đã loan báo về người Con của Mẹ: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33). Trên đồi Golgotha, Đức Maria đã đối diện với việc rút lại lời hứa cách hoàn toàn: Con của Mẹ bị treo trên Thập Giá như một tên trọng tội, trong cơn hấp hối. Như thế, sự đắc thắng mà nó bị Chúa Giêsu khước từ thông qua sự hạ mình của Ngài, cũng đồng thời bị khước từ trong con tim của Mẹ; cả hai đều đã biết thinh lặng.

Đức Maria đã vượt lên trước vô vàn các Vị Thánh mà các Ngài đã đi theo Chúa Giê-su trên con đường khiêm nhường và vâng phục. Hôm nay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, Cha muốn nhắc tới nhiều vị Thánh Trẻ, đặc biệt là những vị Thánh “sống ngay bên cạnh” mà chỉ có một mình Thiên Chúa biết, và đôi khi Ngài tiết lộ cho chúng ta thấy các Ngài với tất cả sự ngỡ ngàng. Các bạn trẻ thân mến, các con đừng ngại chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự hào hứng của các con, cũng như đừng ngại công bố rằng, Chúa Giêsu hằng sống, Ngài chính là sự sống của các con. Nhưng đồng thời các con cũng đừng sợ bước đi theo Ngài trên con đường Thập Giá. Và nếu các con cảm thấy rằng, Ngài đang xin các con hãy khước từ chính mình, khước từ sự an toàn, và hoàn toàn tín thác vào Cha Trên Trời, thì các con hãy vui mừng và hân hoan! Các con đang bước đi trên con đường của Triều Đại Thiên Chúa đấy.

Tiếng reo mừng và cơn giận dữ hung hãn; sự thinh lặng của Chúa Giêsu trong cuộc khổ hình của Ngài thật ấn tượng. Ngài cũng đã chiến thắng cơn cám dỗ xúi người ta dừng lại ở “lưng chừng đường”. Trong những khoảnh khắc đen tối và cùng quẫn, người ta phải thinh lặng, người ta phải can đảm để thinh lặng, với điều kiện, đó là sự thinh lặng hiền dịu chứ không phải thù oán. Sự thinh lặng hiền dịu sẽ làm cho chúng ta xem ra còn yếu ớt và hèn hạ hơn, và rồi ma quỷ sẽ có được sự can đảm để xuất hiện. Người ta phải kháng cự lại hắn trong sự thinh lặng, bằng cách là người ta hãy “giữ vị trí”, nhưng với thái độ giống như thái độ của Chúa Giêsu. Ngài biết rằng, cuộc chiến giữa Thiên Chúa và hoàng tử thế gian vẫn đang còn đó, và Ngài biết rằng, vấn đề không phải là cầm lấy thanh kiếm, nhưng ở lại trong bình tĩnh, và kiên vững trong Đức Tin. Đó là giờ của Thiên Chúa. Và trong giờ mà Thiên Chúa bước vào cuộc chiến, người ta phải để cho Ngài hành động. Vị trí an toàn của chúng ta sẽ ở bên dưới tà áo choàng của Mẹ Thiên Chúa chí thánh. Và trong khi chúng ta mong chờ Chúa đến để ngăn chặn cơn bão (xc. Mc 4,37-41), với chứng tá âm thầm trong cầu nguyện của mình, chúng ta hãy trao cho chính mình cũng như cho những người khác “bản tường trình về niềm hy vọng của chúng ta” (1Pr 3,15). Điều này sẽ giúp chúng ta sống sự giằng co thánh thiện giữa việc hồi tưởng đến những lời hứa, giữa thực tế của cơn giận dữ hiện diện trong Thập Giá và niềm hy vọng phục sinh.

Nguồn: daminhtamhiep.net

 

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (20/3/2016) - Con đường phục vụ, tha thứ, quên mình

Anh chị em thân mến,

“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (xc. Lc 19,38), dân chúng Giê-ru-sa-lem đã hô lên như thế trong cuộc nghênh đón Chúa Giê-su. Chúng ta đã tiếp nhận niềm hăng hái này: thông qua việc giơ cao những cành lá cọ và những cành Ô-lưu, chúng ta cũng đã diễn tả lời tán dương và niềm vui, cũng như đã diễn tả niềm mong ước muốn được nghênh đón Chúa Giê-su, Đấng đến với chúng ta. Giống như Ngài đã từng trẩy lên Giê-ru-sa-lem, Ngài cũng muốn đi vào trong các thành phố của chúng ta cũng như đi vào cuộc sống chúng ta; như Ngài đã từng cưỡi trên lưng một con lừa cách giản dị, Ngài cũng đến với chúng ta cách khiêm tốn, nhưng Ngài đến “nhân danh Chúa”: với quyền năng của Tình Yêu Thiên Chúa, Ngài tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, và giao hòa chúng ta với Thiên Chúa Cha cũng như với chính chúng ta với nhau. Chúa Giê-su vui mừng trước sự diễn tả cách bình dân về mối thiện cảm của quần chúng. Khi tận mắt chứng kiến sự phản đối của những người Pha-ri-siêu, tức những kẻ muốn dân chúng phải thinh lặng, khi dân chúng đang reo mừng tung hô Ngài, Chúa Giê-su đã trả lời cho những kẻ ấy rằng: “Nếu dân chúng im lặng thì những hòn đá sẽ hô lên” (Lc 19,40). Không gì có thể ngăn cản được niềm hăng hái trước cuộc đi vào thành của Chúa Giê-su; không gì có thể ngăn cản chúng ta trước việc thấy được nguồn mạch của niềm vui chúng ta trong Ngài, đó là niềm vui đích thực, niềm vui ấy luôn tồn tại và có khả năng trao ban sự bình an. Vì chỉ có Chúa Giê-su mới có thể cứu chúng ta khỏi những vòng xoáy của tội lỗi, của sự chết, của nỗi sợ hãi và của sự buồn rầu.

Nhưng Phụng Vụ hôm nay dậy chúng ta rằng, Thiên Chúa đã không cứu độ chúng ta thông qua một cuộc tiến vào thành cách khải hoàn hay thông qua những chiến công hùng mạnh. Trong Bài Đọc II, Thánh Phao-lô Tông Đồ đã tóm tắt con đường cứu độ với hai động từ: Ngài “trút bỏ vinh quang” và “hạ mình” (Phil 2,7.8). Cả hai động từ đó đều nói với chúng ta rằng, Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã đi tới điểm tột cùng. Chúa Giê-su đã trút bỏ vinh quang: Ngài khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành Con Người, để liên đới với các tội nhân chúng ta trong tất cả mọi sự, trong khi Ngài là Đấng vô tội. Không chỉ có như thế. Ngài còn sống giữa chúng ta “như một người nô lệ” (Phil 2,7), không phải với tư cách là vua, cũng không phải với tư cách là hoàng tử, nhưng với tư cách là người nô lệ. Ngài đã hạ mình xuống, và mức độ hạ mình xuống của Ngài mà Tuần Thánh chỉ ra cho chúng ta thấy, có vẻ như không có giới hạn.

Dấu chỉ thứ nhất của Tình Yêu “cho đến cùng” này (Ga 13,1) chính là việc Ngài rửa chân cho các môn đệ. “Thiên Chúa và Thầy” (Ga 13,14) khom mình xuống dưới chân các môn đệ, đó là một việc mà chỉ những kẻ nô lệ mới phải làm. Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy mẫu gương của Ngài mà chúng ta cần có để đạt tới được Tình Yêu của Ngài, tức Tình Yêu cúi mình xuống trên chúng ta. Chúng ta không thể không yêu mến Ngài, nhưng chúng ta cũng không thể yêu mến Ngài nếu như chúng ta không được Ngài yêu thương trước, nếu như chúng ta không có sự kinh nghiệm về sự trìu mến đầy ngạc nhiên của Ngài, cũng như nếu chúng ta không chấp nhận rằng, Tình Yêu đích thực hệ tại ở chỗ phục vụ cách cụ thể.

Nhưng đó chỉ là sự khởi đầu. Sự hạ mình mà Chúa Giê-su đã thực hiện, đi tới tột đỉnh điểm trong cuộc khổ hình: bởi một người môn đệ mà Ngài đã tuyển chọn và gọi là bạn hữu, Ngài đã bị bán với 30 đồng bạc, và đã bị phản bội với một nụ hôn. Hầu như tất cả mọi môn đệ khác đều chạy trốn và bỏ rơi Ngài. Phê-rô đã chối Ngài tới ba lần tại sân đền thờ. Không những bị làm nhục trong tinh thần bởi những lời nhạo báng, bởi những lời xúc phạm và bởi nước miếng, mà Ngài còn phải chịu đựng sự tra tấn một cách khủng khiếp nơi thân xác: Những cú nện, những làn roi da và mạo gai trên đầu đã làm cho dung nhan của Ngài không còn có thể được nhận ra. Ngài cũng còn phải chịu đựng sự sỉ nhục và sự kết án một cách bất công bởi những kẻ nắm quyền chính trị và tôn giáo: Ngài bị biến thành kẻ có tội (xc. 2Cor 5,21) và bị liệt vào hàng những tên tội phạm (xc. Lc 22,37). Phi-la-tô đã gửi Ngài đến cho Hê-rô-đê, rồi Hê-rô-đê lại gửi Ngài về lại cho vị tổng trấn của Rô-ma. Trong khi bị khước từ hết mọi nền công lý, Chúa Giê-su còn phải trải qua thái độ thờ ơ lãnh đạm nơi thân xác, vì không ai muốn tự nhận trách nhiệm trước số phận của Ngài. Đám đông dân chúng mà cách đó không lâu còn reo hò chúc tụng Ngài, giờ đây đã thay lời chúng tụng thành lời hò hét đòi kết tội Ngài, và thậm chí còn thích thú với việc một tên sát nhân được phóng thích thay vì Ngài. Ngài đã bị kết án tử hình thập giá, một cái chết đau đớn nhất và cũng nhục nhã nhất, đó là cái chết chỉ được dành riêng cho những kẻ phản bội, những tên nô lệ và những tên tội phạm gớm ghiếc nhất. Nỗi cô đơn, sự vu khống và nỗi khổ đau vẫn chưa phải là tột điểm nơi sự trút bỏ vinh quang của Ngài. Để trở nên liên đới với chúng ta trong mọi sự, trên Thập Giá, Ngài còn phải trải qua việc bị bỏ rơi một cách đầy nhiệm màu bởi Thiên Chúa Cha. Nhưng trong việc bị bỏ rơi này, Ngài đã cầu nguyện cũng như đã tín thác vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin đặt Thần Khí của con vào trong tay Cha” (Lc 23,46). Bị treo trên cây thập giá, bên cạnh việc bị chế giễu, Ngài còn phải đối diện với cơn cám dỗ cuối cùng – Ngài bị khiêu khích hãy xuống khỏi Thập Giá, bị khiêu khích chiến thắng sự ác bằng bạo lực và bày tỏ dung nhan của một Thiên Chúa quyền uy không ai có thể thắng nổi. Nhưng Chúa Giê-su đã mạc khải ngay ở đây, trên đỉnh cao của sự tự hủy, dung nhan đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Lòng Xót Thương. Ngài tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài vào Thập Giá; Ngài mở cổng Thiên Đàng ra cho tên tội phạm biết ăn năn, tức tên tội phạm cũng bị đóng đinh vào một cây thập giá bên cạnh Ngài, và đụng chạm tới con tim của viên sĩ quan quân đội. Mầu nhiệm sự ác càng mênh mông bao nhiêu thì hiện thực Tình Yêu lại càng không cùng bấy nhiêu, Tình Yêu ấy đã chạy qua vực thẳm, đã đi tới mộ và đã đến được địa ngục; Tình Yêu ấy đã đón nhận tất cả mọi nỗi khổ đau của chúng ta để cứu độ nó; để mang ánh sáng vào trong bóng tối, mang sự sống vào trong cõi chết, và mang Tình Yêu vào nơi hận thù.

Cách thức hành động của Thiên Chúa có thể vượt lên trước chúng ta thật xa, trong khi chúng ta tự làm cho mình trở nên nặng nề trong việc từ bỏ ít nhất là một chút gì đó từ chính chúng ta. Ngài đã khước từ chính bản thân Ngài vì chúng ta; vì thế điều đó đòi hỏi chúng ta phải khước từ một điều chi đó vì Ngài và vì những người khác! Nhưng nếu chúng ta muốn đi theo vị Thầy, thì việc chỉ reo mừng thôi vẫn chưa đủ, vì Ngài đến để cứu độ chúng ta, nên chúng ta cũng còn được kêu gọi chọn đi theo con đường của Ngài; con đường của sự phục vụ, con đường hy sinh và con đường từ bỏ chính mình. Chúng ta có thể học đi theo con đường ấy bằng cách là chúng ta tạm dừng trong những ngày này và chiêm ngưỡng Đấng Bị Đóng Đinh, “chức giáo sư của Thiên Chúa”. Chúng ta có thể học ở đó Tình Yêu khiêm nhượng, và đó là Tình Yêu cứu độ và ban tặng sự sống, để từ bỏ sự ích kỷ cũng như từ bỏ khát vọng quyền lực và tiền tài. Chúng ta bị cuốn hút bởi hàng ngàn lời tán tỉnh của vẻ bên ngoài đẹp đẽ, và khiến cho mình không còn ý thức được rằng, “giá trị của con người nằm trong chính họ hơn là trong những điều họ sở hữu” (Gaudium et spes, 35). Với sự hạ mình của Ngài, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy thanh tẩy cuộc sống của mình. Chúng ta hãy hướng lên Ngài, hãy cầu xin cho được ơn hiểu một chút gì đó về việc Ngài đã tự hủy vì chúng ta. Chúng ta hãy nhìn nhận Ngài như là Thiên Chúa của cuộc sống chúng ta, và chúng ta hãy đáp lại Tình Yêu khôn cùng của Ngài, bằng cách là chúng ta sẽ yêu thương một cách cụ thể.

Nguồn: daminhtamhiep.net

 

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (24/3/2013) - Niềm vui, thập giá và người trẻ

Chúa Giêsu vào thành Jerusalem. Đám đông các tín hữu hân hoan tháp tùng ngài, họ trải áo choàng trước Ngài, người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen trổi lên: ”Chúc tụng đến đang đến, là vua, nhân danh Chúa. Hòa bình trên trời và vinh danh trên các tầng trời cao” (Lc 19,38).

Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, an bình: đó là một bầu không khí vui mừng mà ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn bao nhiêu hy vọng nhất là nơi những người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mắt thế giới. Ngài đã biết cảm thông những lầm than của con người, đã tỏ khuôn mặt từ bi của Thiên Chúa, đã cúi mình chữa lành xác hồn.

Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn những bệnh tật của chúng ta, tội lỗi của chúng ta. Đó là tình thương lớn lao của Chúa Giêsu. Và thế là ngài đi vào thành Jerusalem với tình thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.

Đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta đã vẫy các cành lá. Cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: cả chúng ta cũng bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn pha sáng ngời trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta. Ở đây Ngài soi sáng cho chúng ta trên đường đi. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: đó là vui mừng! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt! Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ một Nhân Vật là Chúa Giêsu, từ sự biết rằng với Ngài, không bao giờ chúng ta lẻ loi, cả trong những lúc khó khăn, cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn đề và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và có bao nhiêu chướng ngại như thế! Và trong lúc này kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời của nó. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng, theo Chúa Giêsu, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài tháp tùng chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

Lời thứ hai. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Jerusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (Xc Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa, họ có cảm thức đức tin, thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc thứ I (Xc Is 50,6); Ngài vào để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.

Chúa Giêsu vào thành Jerusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất vua của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Tôi nghĩ đến điều ĐGH Biển Đức 16 đã nói với các Hồng y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đanh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình. Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng từ bi, tình thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội tôi thường nói với chúng tôi khi còn bé: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và các tội lỗi cá nhân chúng ta: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác và với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.

Hôm nay tại Quảng trường này có bao nhiêu là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: Người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, tôi đã nhìn thấy các bạn trong cuộc rước, khi các bạn đi vào; tôi tưởng tượng ra các bạn đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: tôi mường tượng các bạn hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các bạn có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các bạn mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn, cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các bạn biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và tháp tùng chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các bạn không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các bạn hãy ôm lấy Thập Giá, vì các bạn hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà ta được niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Các bạn mang Thập Giá lữ hành qua mọi đại lục, qua những nẻo đường của Thế Giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ”Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ” (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các bạn hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các bạn thân mến cả tôi cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết chân phước Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16. Nay chúng ta gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Tôi vui mừng nhìn về tháng bẩy tới, tại Rio de Janeiro! Tôi hẹn các bạn tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các bạn hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các bạn, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới: theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để mang Chúa Giêsu! Có ba lời là: vui mừng, thập giá, và giới trẻ.

Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta niềm vui được gặp gỡ với Chúa Kitô, tình yêu mà chúng ta phải nhìn Chúa dưới chân Thập Giá, niềm hăng say của tâm hồn trẻ trung mà chúng ta phải theo Chúa trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời chúng ta. Amen.

Nguồn: archivioradiovaticana.va

 

Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (28/3/2010) - Chúa Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem

Anh chị em thân mến,

Các bạn trẻ thân mến,

Trình thuật Tin mừng về việc làm phép lá, mà chúng ta vừa nghe khi quy tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô này, bắt đầu với câu: “Chúa Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem” (Lc 19,28). Ngay từ những lời mở đầu của Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đã tiên báo lời đáp trả của mình đối với Tin mừng khi tuyên xưng: “Chúng ta hãy bước theo Chúa”. Lời tuyên xưng ấy diễn tả cách rõ ràng chủ đề của Chúa nhật lễ Lá: Đó là việc bước theo Chúa (sequela). Là Kitô hữu có nghĩa là xem con đường của Chúa Giêsu Kitô là con đường đúng đắn để làm người; là con đường đưa con người đến cùng đích của mình, đến sự viên mãn trọn vẹn và chân thực của nhân tính. Cách riêng, tôi muốn lặp lại với tất cả các bạn trẻ nhân ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 25 này rằng: Làm Kitô hữu là một hành trình – đúng hơn – là một cuộc hành hương; là cùng bước đi với Chúa Giêsu Kitô, là tiến bước theo hướng đi mà Người đã chỉ và vẫn đang chỉ cho chúng ta.

Nhưng hướng đi ấy là gì? Làm thế nào để chúng ta nhận biết được? Bản văn Tin mừng hôm nay đưa ra hai chỉ dẫn. Trước hết, bản văn nói rằng đó là một cuộc “tiến lên” (ascent). Điều này trước tiên mang một ý nghĩa hết sức cụ thể: Thành Giêricô, nơi bắt đầu chặng cuối cùng trong cuộc hành trình của Chúa Giêsu, nằm ở độ cao khoảng 250 mét dưới mực nước biển; còn thành Giêrusalem – đích đến – lại tọa lạc ở độ cao từ 740 đến 780 mét trên mực nước biển: tức là một hành trình leo dốc gần 1.000 mét. Tuy nhiên, hành trình thể lý bên ngoài ấy còn là biểu tượng cho một chuyển động nội tâm của con người trong việc bước theo Đức Kitô: Đó là cuộc hành trình leo lên để đến những đỉnh cao đích thực của nhân tính. Con người có thể chọn con đường dễ dãi, tránh né mọi nỗ lực. Con người cũng có thể trượt xuống chỗ thấp hèn và thô tục. Con người có thể sa vào trong vũng lầy của gian dối và bất lương. Thế nhưng, Chúa Giêsu đi trước chúng ta và tiến lên những đỉnh cao. Người dẫn đưa chúng ta đến những gì cao cả, thanh sạch. Người đưa chúng ta đến bầu không khí trong lành của những đỉnh cao: đến cuộc sống trong chân lý; đến lòng can đảm không bị nao núng trước những lời đàm tiếu của dư luận xã hội; đến sự kiên nhẫn biết chịu đựng và nâng đỡ tha nhân. Người dẫn chúng ta đến với một tâm hồn cao thượng rộng mở trước nỗi đau, đến với những người bị gạt ra bên lề. Người hướng chúng ta đến việc trung tín với người khác, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Người thúc đẩy chúng ta đến việc sẵn lòng trợ giúp, đến việc sống tốt lành – ngay cả khi bị người khác vô ơn. Người hướng dẫn chúng ta đến với tình yêu, đến với Thiên Chúa.

“Chúa Giêsu đi đầu, tiến lên Giêrusalem”. Nếu chúng ta diễn giải lời Tin mừng này trong bối cảnh toàn bộ hành trình mà Chúa Giêsu đã thực hiện – một hành trình vốn vẫn đang tiếp diễn cho đến tận thế, với điểm đến là “Giêrusalem” – thì chúng ta có thể khám phá ra nhiều tầng ý nghĩa khác nhau được gợi mở nơi đây. Dĩ nhiên, trước hết, điều này cần được hiểu theo nghĩa trực tiếp: đó chính là địa danh “Giêrusalem” – Thành thánh nơi Đền thờ Thiên Chúa tọa lạc; và sự độc nhất vô nhị của Đền thờ này hàm ý đến chính sự duy nhất của Thiên Chúa. Vì thế, nơi ấy loan báo hai điều: trước hết, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất trên toàn thế giới – Đấng vượt xa mọi không gian và thời gian của chúng ta; Ngài là Thiên Chúa mà toàn thể công trình tạo dựng thuộc về. Ngài là Thiên Chúa mà trong thẳm sâu cõi lòng, mỗi người nam và nữ đều kiếm tìm, và theo một cách nào đó, tất cả mọi người đều có một chút nhận thức gì đó về Ngài. Nhưng Thiên Chúa ấy đã tự mặc khải Danh của Ngài. Ngài đã tự cho con người được nhận biết về Ngài, Ngài đã khởi đầu một lịch sử với nhân loại: Ngài chọn một con người – Ápraham – làm khởi điểm cho lịch sử ấy. Thứ đến, Thiên Chúa vô biên ấy lại đồng thời là Thiên Chúa gần gũi. Ngài – Đấng không thể bị giam cầm trong bất kỳ công trình nào – lại muốn cư ngụ giữa chúng ta, muốn hiện diện hoàn toàn giữa nhân loại.

Nếu Chúa Giêsu, cùng với dân hành hương Israel, lên đường tiến về Giêrusalem, thì Người làm như vậy để cử hành với dân Israel lễ Vượt Qua – biến cố tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân Israel, một ký ức luôn đồng thời là niềm hy vọng về sự giải thoát dứt khoát mà Thiên Chúa sẽ ban. Và Chúa Giêsu tiến gần đến lễ này trong ý thức rằng chính Người là Con Chiên, nơi Người sẽ được ứng nghiệm điều mà sách Xuất hành đã nói: một con chiên toàn vẹn, là con đực, được sát tế vào lúc xế chiều, trước toàn thể đại hội cộng đồng Israel, như là “luật quy định cho đến muôn đời” (x. Xh 12,5-6.14). Và sau cùng, Chúa Giêsu biết rằng hành trình của Người còn đi hơn nữa: Thập giá sẽ không phải là điểm kết thúc của Người. Người biết rằng hành trình của mình sẽ xé toang bức màn ngăn cách giữa thế giới này và thế giới của Thiên Chúa; rằng Người sẽ tiến lên ngai toà của Thiên Chúa và trong Thân Thể Người, Người giao hoà Thiên Chúa và con người. Người biết rằng Thân Thể Phục Sinh của Người sẽ là của lễ hy lễ mới và là Đền Thờ mới; rằng xung quanh Người – giữa triều thần thiên quốc và các thánh – một Giêrusalem mới sẽ được hình thành, vừa hiện diện trên Thiên quốc vừa hiện diện nơi trần thế, bởi vì nhờ cuộc khổ nạn của Người, ranh giới giữa trời và đất đã được mở ra.

Như vậy, nơi cuộc tiến lên của Chúa Giêsu, các chiều kích của việc bước theo Người (sequela) của chúng ta trở nên hiển hiện, Người muốn dẫn chúng ta đến: đỉnh cao của Thiên Chúa, đến sự kết hiệp thông với Thiên Chúa, đến việc ở cùng Thiên Chúa. Đây chính là cùng đích thật sự và việc hiệp thông với Người chính là con đường để đạt đến cùng đích đó. Hành trình tiến bước cùng với Chúa Giêsu cũng đồng thời là hành trình tiến bước cùng nhau trong cái “chúng ta” của những người bước theo Chúa Giêsu. Hành trình tiến bước cùng với Chúa Giêsu đưa chúng ta vào trong cộng đoàn ấy. Vì con đường dẫn đến sự sống đích thực, đến việc làm người trong sự phù hợp với khuôn mẫu của Con Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô – thì vượt quá sức riêng của chúng ta, nên hành trình này luôn bao hàm việc được nâng đỡ. Chúng ta có thể hình dung, theo cách nào đó, mình đang được cột vào Chúa Giêsu Kitô, cùng Người tiến lên đỉnh cao của Thiên Chúa. Chính Người kéo và nâng đỡ chúng ta. Một yếu tố của việc bước theo Chúa Kitô là để cho mình được cột chung với Người, là thừa nhận rằng tự mình, chúng ta không thể làm được gì. Hành vi khiêm hạ này – hành vi đi vào trong chiều kích “chúng ta” của Giáo hội – là điều cốt yếu; biết nắm chặt lấy sợi dây, nghĩa là biết sống tinh thần trách nhiệm của sự hiệp thông, không làm đứt gãy sợi dây bởi tính cố chấp hay kiêu căng. Niềm tin tưởng khiêm nhường này của chúng ta, cùng với Giáo hội, giống như một đoàn người cùng được buộc dây lại với nhau để leo lên đỉnh cao của Thiên Chúa – đây là điều kiện thiết yếu để bước theo Đức Kitô. Việc được cột chung với nhau cũng bao hàm cả việc không hành xử như những người làm chủ Lời Chúa, không chạy theo một quan niệm sai lầm về sự giải phóng. Sự khiêm hạ của “việc được ở cùng với nhau” là điều thiết yếu cho cuộc tiến lên. Và cũng thuộc về điều này, là trong các Bí tích, chúng ta để cho Chúa một lần nữa nắm lấy tay chúng ta, để Người thanh luyện và tăng sức cho chúng ta; và đó cũng là việc chúng ta đón nhận kỷ luật của hành trình tiến lên, ngay cả khi bản thân mỏi mệt.

Sau cùng, chúng ta cần lặp lại điều này: Thập giá cũng là một phần trong cuộc tiến lên đỉnh cao của Chúa Giêsu Kitô. Cũng như trong đời sống trần thế, không thể đạt được những thành tựu lớn lao mà không có sự hy sinh và lao nhọc của bản thân; cũng như niềm vui khi đạt được một khám phá lớn trong tri thức hay một kỹ năng vĩ đại trong thực hành luôn gắn liền với sự rèn luyện, với nỗ lực học hỏi, thì con đường tiến đến sự sống đích thực, đến chỗ thành toàn nhân tính của mình, cũng gắn liền với sự hiệp thông với Đấng đã tiến lên đỉnh cao của Thiên Chúa qua thập giá. Xét cho cùng, thập giá là một biểu hiện ý nghĩa đích thực của tình yêu: chỉ ai biết bỏ mình mới thực sự tìm thấy chính mình.

Chúng ta có thể tóm tắt như sau: Việc bước theo Chúa Kitô đòi hỏi, trước tiên, là việc đánh thức lại khát vọng được trở thành con người đích thực – và vì vậy, cũng là việc đánh thức lại khát vọng của mình đối với Thiên Chúa. Kế đến, điều đó đòi hỏi chúng ta gia nhập vào đoàn người đang leo núi, trong sự hiệp thông của Giáo hội. Trong cái “chúng ta” của Giáo hội, chúng ta bước vào sự hiệp thông với “Chúa Giêsu Kitô”, và như vậy chúng ta bước đi được trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi lắng nghe Lời của Chúa Giêsu Kitô và sống Lời Người trong: đức tin, đức cậy và đức mến. Như thế, chúng ta đang trên đường tiến về Giêrusalem vĩnh cửu, và ngay từ giây phút hiện tại này, theo một nghĩa nào đó, chúng ta đã ở đó rồi – trong sự hiệp thông của toàn thể các thánh của Thiên Chúa.

Cuộc hành trình hành hương của chúng ta theo chân Đức Kitô vì thế không nhắm đến một thành phố trần thế, nhưng hướng về Thành thánh mới của Thiên Chúa đang dần hình thành ngay giữa thế gian này. Tuy nhiên, cuộc hành trình hành hương đến Giêrusalem dưới thế cũng có thể hữu ích cho các Kitô hữu trong cuộc hành trình đến Giêrusalem Thiên quốc. Chính tôi, trong cuộc hành trình hành hương đến Thánh địa vào năm ngoái, đã gắn kết ba ý nghĩa với cuộc hành hương của mình. Trước hết, tôi nghĩ đến điều thánh Gioan nói ở phần đầu Thư thứ nhất của ngài: điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến (x. 1 Ga 1,1). Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô không phải là một huyền thoại do con người bịa đặt. Đức tin ấy đặt nền tảng trên một biến cố lịch sử có thật. Lịch sử ấy, chúng ta có thể chiêm ngưỡng và chạm đến. Thật cảm động khi được hiện diện tại Nagiarét, nơi Sứ thần hiện ra với Đức Maria và báo tin về sứ vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Thật cảm động khi được ở Bêlem, nơi Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta; khi được bước đi trên mảnh đất thánh nơi Thiên Chúa đã chọn để trở nên con người, trở nên một trẻ thơ. Thật cảm động khi bước lên các bậc thềm dẫn đến đồi Canvê, nơi Chúa Giêsu đã chịu chết vì chúng ta trên thập giá. Và sau cùng, thật cảm động khi được đứng trước ngôi mộ trống, cầu nguyện nơi thi hài thánh thiêng của Người từng được đặt, và nơi mà vào ngày thứ ba, mầu nhiệm Phục sinh đã xảy ra. Việc bước đi theo các con đường trần thế mà Chúa Giêsu đã đi qua phải giúp chúng ta tiến bước với niềm vui lớn hơn và với một xác tín mới mẻ hơn trên con đường nội tâm mà Người đã chỉ cho chúng ta – chính Người là con đường ấy.

Ở khía canh thứ hai, khi chúng ta hành hương về Thánh địa Giêrusalem, chúng ta còn đi như những sứ giả của hòa bình, mang theo lời cầu nguyện cho hòa bình; là lời mời gọi tha thiết gửi đến tất cả mọi người, để họ dốc toàn lực, ngay tại nơi mà tên gọi “Giêrusalem” của nó đã bao hàm chữ “hòa bình”, hầu làm cho nơi ấy thực sự trở nên một vùng đất của hòa bình. Như thế, cuộc hành hương này còn mang ý nghĩa thứ ba: là lời khích lệ dành cho các Kitô hữu hãy ở lại trên mảnh đất quê hương của mình và dấn thân mạnh mẽ tại đó để xây dựng hòa bình.

Chúng ta hãy trở lại với Phụng vụ Chúa nhật lễ Lá. Trong lời nguyện làm phép các cành lá, chúng ta cầu xin cho mình được sinh hoa kết trái bằng những việc lành nhờ hiệp thông với Đức Kitô. Trải qua dòng lịch sử – và cả trong thời đại hôm nay – một quan điểm sai lạc vẫn không ngừng xuất hiện: cho rằng các việc lành không phải là thành phần của đời sống Kitô hữu, hay ít nhất cũng không có vai trò quan trọng đối với ơn cứu độ của con người. Quan điểm này bắt nguồn từ cách diễn giải sai lầm tư tưởng của thánh Phaolô.

Nhưng nếu thánh Phaolô nói rằng các việc làm không thể làm cho con người được nên công chính, thì ngài không hề phủ nhận tầm quan trọng của hành động ngay chính; và nếu ngài nói đến sự chấm dứt của Lề luật, thì không có nghĩa là Mười Điều Răn đã trở nên lỗi thời hay không còn giá trị nữa. Chúng ta không cần phải đi sâu vào toàn bộ vấn đề rộng lớn mà vị Tông đồ đã đề cập. Điều quan trọng ở đây là nhận ra rằng, khi thánh Phaolô sử dụng thuật ngữ “Lề luật”, ngài không có ý chỉ đến Mười Điều Răn, mà là có chỉ đến toàn bộ hệ thống sống phức tạp mà dân Israel đã thiết lập nhằm bảo vệ bản thân khỏi những cám dỗ của nền văn hóa ngoại giáo. Tuy nhiên, giờ đây Đức Kitô đã mang Thiên Chúa đến với dân ngoại. Dân Israel không còn bị buộc phải tuân giữ hình thức phân biệt ấy nữa. Với họ, lề luật duy nhất được trao ban chính là Đức Kitô. Và điều đó có nghĩa là: yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, và thực thi tất cả những gì tình yêu này hàm chứa. Các Điều Răn – được giải thích theo ánh sáng mới và sâu xa hơn nơi Đức Kitô – là một phần không thể thiếu trong tình yêu này. Chúng chính là những quy tắc nền tảng của tình yêu đích thực: trước hết và như là nguyên tắc căn bản – đó là việc thờ phượng Thiên Chúa Duy Nhất, điều được diễn tả qua ba điều răn đầu tiên. Những điều răn này khẳng định rằng: “Không có Thiên Chúa, thì chẳng điều gì thành tựu một cách đúng đắn.” Còn Thiên Chúa là ai, Ngài như thế nào – chúng ta biết được điều đó nơi con người của Đức Giêsu Kitô. Tiếp đến là sự thánh thiêng của gia đình (Điều Răn thứ tư), sự thánh thiêng của sự sống (Điều Răn thứ năm), trật tự hôn nhân (Điều Răn thứ sáu), trật tự xã hội (Điều Răn thứ bảy), và sau cùng là sự bất khả xâm phạm của chân lý (Điều Răn thứ tám). Tất cả những điều này, ngày nay, lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết – và cũng phù hợp sâu xa với tư tưởng của thánh Phaolô, nếu chúng ta đọc toàn bộ các Thư của ngài. “Hãy sinh hoa trái bằng những việc lành”: Vào khởi đầu của Tuần Thánh, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mình được trổ sinh hoa trái ấy ngày một dồi dào hơn.

Vào phần cuối của bài Tin mừng trong nghi thức làm phép các cành lá, chúng ta nghe lời tung hô mà các khách hành hương cất lên để chào đón Chúa Giêsu khi Ngài đến cửa thành Giêrusalem. Lời tung hô ấy lấy lại lời của Thánh vịnh 118 (117), vốn được các tư tế công bố cho khách hành hương từ Thành Thánh, nhưng theo thời gian đã trở thành một biểu thức của niềm hy vọng Mêsia: “Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa” (Tv 118[117], 26; x. Lc 19,38). Các khách hành hương nhận ra nơi Đức Giêsu chính là Đấng sẽ đến nhân danh Chúa. Thật vậy, theo Tin mừng thánh Luca, họ còn thêm vào từ: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Và họ tiếp tục bằng một lời tung hô gợi lại sứ điệp của các thiên thần trong đêm Giáng sinh, nhưng được chuyển biến theo một cách thức đáng suy nghĩ. Các thiên thần loan báo vinh quang của Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm. Còn các khách hành hương khi đón Chúa vào Thành thánh lại nói: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”. Họ biết rõ rằng dưới thế này không có bình an. Và họ cũng biết rằng nơi của bình an là trên cõi trời cao – họ biết rằng một yếu tố thiết yếu của Thiên đàng trên cõi trời cao chính là sự bình an. Vì vậy, lời tung hô này vừa là một biểu lộ của niềm đau sâu sắc, vừa là một lời nguyện đầy hy vọng: ước gì Đấng đến nhân danh Chúa mang đến trần gian điều đang hiện hữu nơi cõi trời cao. Ước gì vương quyền của Ngài trở thành vương quyền của Thiên Chúa, ước gì có sự hiện diện của Thiên đàng nơi trần thế.

Trong phụng vụ Thánh Thể, trước lời truyền phép, Hội thánh cất lên lời Thánh vịnh mà xưa kia dân chúng đã dùng để chào đón Chúa Giêsu trước khi Ngài vào Thành thánh: Hội thánh chào kính Chúa Giêsu như Vị Vua đến từ Thiên Chúa, Đấng ngự đến giữa chúng ta nhân danh Thiên Chúa. Ngày nay, lời chào vui mừng ấy vẫn luôn là một lời khẩn cầu và hy vọng. Chúng ta hãy cầu xin Chúa mang trời cao đến với chúng ta – đem vinh quang Thiên Chúa và bình an cho nhân loại.

Chúng ta hãy hiểu lời chào này trong tinh thần của lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta biết rằng trời là Thiên đàng, nơi của vinh quang và bình an, bởi vì nơi đó thánh ý Thiên Chúa được thực hiện trọn vẹn. Và chúng ta cũng biết rằng trần gian sẽ không trở thành thiên đàng bao lâu thánh ý Thiên Chúa chưa được thể hiện trên đó.

Vậy, chúng ta hãy chào mừng Chúa Giêsu – Đấng từ trời cao ngự xuống – và khẩn cầu Ngài giúp chúng ta nhận ra và thi hành thánh ý Thiên Chúa. Ước gì vương quyền của Thiên Chúa được thể hiện nơi trần gian, để thế giới này được chan hòa ánh vinh quang bình an. Amen.

WHĐ (28/3/2010)

 

Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Chúa nhật lễ Lá năm C (01/4/2007) - Bước theo Đức Kitô

Anh chị em thân mến,

Trong cuộc rước của Chúa nhật lễ Lá, chúng ta cùng hợp tiếng với đám đông các môn đệ, những người trong niềm hân hoan đã đồng hành cùng Chúa khi Ngài tiến vào thành Giêrusalem. Như họ, chúng ta cũng lớn tiếng ngợi khen Chúa vì tất cả những phép lạ chúng ta đã được chứng kiến. Vâng, chúng ta cũng đã thấy và vẫn còn thấy ngày nay những kỳ công của Đức Kitô: cách Người mời gọi những người nam nữ từ bỏ những tiện nghi của đời sống thường nhật để dấn thân hoàn toàn phục vụ những người đau khổ; cách Ngài ban cho những người nam nữ sự can đảm để chống lại bạo lực và dối trá, để mở lối cho sự thật hiện diện trong thế giới; cách Ngài, trong thầm lặng, thúc đẩy tâm hồn con người sống yêu thương, kiến tạo hòa giải ở nơi từng tồn tại hận thù, và làm phát sinh hòa bình ở nơi từng chất chứa sự đối nghịch.

Cuộc rước này, trước hết và trên hết, là một chứng tá vui mừng mà chúng ta dâng lên cho Đức Giêsu Kitô, nơi Người, dung nhan Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta, và nhờ Người, trái tim Thiên Chúa đã rộng mở đối với chúng ta. Trong Tin mừng theo Thánh Luca, trình thuật về cuộc rước được khởi đầu ở vùng phụ cận Giêrusalem phần nào được mô phỏng theo nghi thức đăng quang, được mô tả trong sách Các vua quyển thứ nhất, qua đó Salômôn được tấn phong làm người kế vị vương quyền của Đavít (x. 1 V 1,33–35).

Như thế, cuộc rước lá cũng là một cuộc rước tôn vinh Đức Kitô là Vua: Chúng ta tuyên xưng vương quyền của Đức Giêsu Kitô, chúng ta nhìn nhận Người là Con vua Đavít, là Salômôn đích thực, là Vua của bình an và công lý. Việc nhìn nhận Người là Vua có nghĩa là chấp nhận Người như Đấng chỉ cho chúng ta con đường, là Đấng chúng ta tín thác và bước theo. Điều ấy cũng có nghĩa là đón nhận Lời của Người mỗi ngày như tiêu chuẩn chân thực cho đời sống chúng ta. Đồng thời, điều đó còn có nghĩa là nhận ra nơi Người thẩm quyền mà chúng ta quy phục. Chúng ta quy phục Người vì thẩm quyền của Người là thẩm quyền của chân lý.

Cũng như đối với các môn đệ ngày xưa, cuộc rước lá trước tiên là một biểu hiện của niềm vui, bởi lẽ chúng ta có thể nhận ra Chúa Giêsu, bởi Người cho phép chúng ta được làm bạn hữu của Người, và bởi Người đã trao cho chúng ta chiếc chìa khóa mở ra ý nghĩa của đời sống. Tuy nhiên, niềm vui khởi đầu này cũng là biểu hiện của lời “xin vâng” chúng ta thưa cùng Chúa Giêsu, và của sự sẵn lòng đồng hành với Người đến bất cứ nơi nào Người dẫn dắt. Vì lý do đó, lời mời gọi mở đầu phụng vụ hôm nay đã diễn giải một cách chính đáng cuộc rước như là hình ảnh biểu tượng cho điều mà chúng ta gọi là “bước theo Đức Kitô” (sequela): “Chúng ta hãy xin ơn được bước theo Người”, chúng ta đã cùng nhau thưa lên như thế. Cụm từ “bước theo Đức Kitô” là một mô tả toàn diện về đời sống Kitô hữu. Nhưng điều đó bao hàm những gì? “Bước theo Đức Kitô” thực sự có nghĩa là gì?

Ban đầu, đối với các môn đệ tiên khởi, ý nghĩa của việc “bước theo” rất đơn sơ và cụ thể: Điều đó có nghĩa là để được đi với Chúa Giêsu, họ đã quyết định từ bỏ nghề nghiệp, công việc, toàn bộ cuộc sống của mình. Họ đảm nhận một nghề mới: nghề làm môn đệ. Nội dung cốt lõi của “nghề nghiệp” này chính là đồng hành với vị Thầy và hoàn toàn phó thác cho sự hướng dẫn của Người. Việc “bước theo” vì thế vừa là một hành vi bên ngoài, vừa là một thực tại nội tâm sâu xa. Khía cạnh bên ngoài là việc đi theo Chúa Giêsu trên những hành trình dọc ngang miền đất Palestine; khía cạnh nội tâm là một định hướng hiện sinh hoàn toàn mới, trong đó các điểm quy chiếu không còn nằm trong những sự kiện, trong những công việc đem lại nguồn thu nhập, hay trong ý muốn cá nhân nữa, nhưng là sự từ bỏ trọn vẹn để quy phục ý muốn của Đấng Khác. Từ nay, việc phục vụ theo ý của Người trở thành lẽ sống của đời mình. Trong một số trình thuật Tin mừng, chúng ta có thể nhận ra rất rõ rằng điều này bao hàm việc từ bỏ của cải và từ bỏ chính bản thân mình.

Như vậy, điều này cũng giúp chúng ta hiểu rõ việc “bước theo” có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay, và đâu là bản chất đích thực của việc bước theo ấy đối với chúng ta: đó là một cuộc hoán cải nội tâm, một sự biến đổi trong cách sống. Việc này đòi hỏi tôi không còn quy hướng vào bản thân mình, không coi việc hoàn thành chính mình là lý do chính yếu của đời sống. Thay vào đó, tôi được mời gọi hiến thân cách tự do cho một Đấng Khác – cho chân lý, cho tình yêu, cho Thiên Chúa, Đấng trong Đức Giêsu Kitô đi trước tôi và chỉ cho tôi con đường. Đó là một chọn lựa nền tảng: không còn sống chỉ cho riêng mình, không coi sự hữu dụng, lợi nhuận, sự nghiệp hay thành công là cùng đích của đời tôi, nhưng nhìn nhận chân lý và tình yêu là những tiêu chuẩn chân thật. Và chúng ta cần hiểu cho đúng rằng: chân lý và tình yêu không phải là những giá trị trừu tượng; nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng đã trở thành một con người. Bằng cách bước theo Người, tôi đi vào trong sự phục vụ chân lý và tình yêu. Khi từ bỏ mình, tôi tìm lại được chính mình.

Chúng ta hãy trở lại với phụng vụ và cuộc rước Lá. Trong nghi thức này, Phụng vụ đã chọn Thánh vịnh 24[23] làm thánh thi. Tại Israel, đây cũng là một bài thánh ca cho các cuộc rước, được hát khi dân chúng tiến lên Đền thờ. Thánh vịnh này diễn giải cuộc hành trình nội tâm mà cuộc hành trình thể lý là hình ảnh biểu trưng, và một lần nữa soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của việc tiến lên cùng với Đức Kitô. “Ai được lên núi Chúa?” – Thánh vịnh đặt câu hỏi, rồi chỉ ra hai điều kiện thiết yếu. Những ai muốn lên núi ấy, những ai thực sự ước ao đạt đến đỉnh cao, đạt đến đỉnh cao đích thật, phải là những người tự vấn mình về Chúa. Họ phải là những người dò xét thực tại xung quanh để kiếm tìm Thiên Chúa, tìm kiếm Thánh Nhan của Ngài.

Các bạn trẻ thân mến, điều này hôm nay lại càng trở nên quan trọng biết bao: đừng chỉ buông mình theo dòng đời trôi nổi; đừng dễ dàng thỏa mãn với những gì người đời nghĩ, nói và làm. Hãy tự vấn lòng mình về Thiên Chúa và kiếm tìm Ngài. Đừng để cho vấn nạn về Thiên Chúa mai một trong tâm hồn chúng ta; hãy khao khát điều cao cả hơn, hãy ao ước được nhận biết Ngài – nhận biết Thánh Nhan của Người...

Điều kiện rất cụ thể thứ hai để có thể tiến lên núi Chúa là điều này: “Người tay sạch lòng thanh” mới được vào nơi thánh. Tay sạch là đôi tay không nhúng vào bạo lực, không vấy bẩn vì tham nhũng, hối lộ. Còn thế nào là lòng thanh? Lòng dạ thanh sạch là lòng dạ không giả hình, không bị hoen ố bởi dối trá và đạo đức giả; là lòng dạ trong suốt như dòng suối đầu nguồn, vì không bị phân đôi. Lòng dạ ấy không tự đánh mất chính mình trong cơn say của khoái lạc, là lòng dạ mà nơi đó, tình yêu là chân thật chứ không phải chỉ là một đam mê thoáng qua. Tay sạch và lòng thanh: nếu chúng ta bước đi cùng với Đức Giêsu, chúng ta sẽ được thanh luyện và được nâng lên tới đỉnh cao đích thực mà con người được tiền định – đó là: tình bạn với chính Thiên Chúa.

Thánh vịnh 24[23], thánh vịnh nói về việc lên núi Chúa, kết thúc với một nghi thức vào Đền thờ được cử hành trước cổng thánh: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào!” Trong phụng vụ cổ của Chúa nhật lễ Lá, vị linh mục khi tiến đến trước cửa nhà thờ đang khép kín, sẽ dùng đầu thánh giá trong cuộc rước để gõ mạnh vào cửa; rồi khi ấy, cửa sẽ được mở ra. Đó là một hình ảnh tuyệt đẹp về mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dùng gỗ Thập giá – bằng quyền năng của tình yêu được trao hiến – mà gõ lên cánh cửa của Thiên Chúa từ phía nhân loại, phía một thế giới vốn không thể tự mình tìm đến cùng Thiên Chúa. Với Thập giá của Người, Chúa Giêsu đã mở ra cánh cửa của Thiên Chúa, cánh cửa ngăn cách giữa Thiên Chúa và nhân loại. Giờ đây, cánh cửa ấy đã rộng mở. Thế nhưng, Chúa cũng gõ cửa từ phía bên kia: Người gõ vào cánh cửa của thế giới, vào cánh cửa lòng chúng ta – những cánh cửa thường xuyên khép kín trước mặt Thiên Chúa. Và Người nói với chúng ta đại để như thế này: nếu những dấu chỉ mà Thiên Chúa ban cho các ngươi qua công trình tạo dựng không đủ để đánh động lòng các ngươi để mở lòng các ngươi ra cho Thiên Chúa; nếu lời Kinh thánh và sứ điệp của Giáo hội không làm các ngươi động tâm; thì hãy nhìn Ta – Thiên Chúa đã tự nguyện chịu đau khổ vì các ngươi, Đấng hiện vẫn đang cùng đau khổ với các ngươi – và hãy mở lòng ra với Ta, Chúa của các ngươi, Thiên Chúa của các ngươi.

Chúng ta hãy để cho lời khẩn cầu này chạm đến cõi lòng mình trong giây phút này. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết mở cánh cửa tâm hồn mình, mở ra cánh cửa của thế giới, để Ngài – Thiên Chúa hằng sống – có thể đến trong Người Con của Ngài, ngay trong thời đại của chúng ta và chạm đến cuộc đời của chúng ta. Amen.

WHĐ (01/4/2007)

Nguồn: hdgmvietnam.com