​​​​​​​BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM C - CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

26/04/2025
82
Header


BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA - CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM C - CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với các tín hữu vào Chúa nhật 2 Phục sinh năm C.

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (24/4/2022) - Ba lần Chúa Giêsu nói: "Bình an cho anh em"

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (24/4/2022) - Từ sự ngờ vực trong đức tin đến lòng tín thác nơi Chúa

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (28/4/2019) – Bình an, niềm vui, sứ mạng

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (03/4/2016) - Đừng bao giờ mệt mỏi kín múc lòng thương xót nơi Thiên Chúa

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (07/4/2013) - Hãy luôn luôn tín thác nơi Lòng Chúa Thương Xót

Bài giảng Đức thánh Cha - Chúa nhật 2 Phục sinh năm A

Bài giảng Đức thánh Cha - Chúa nhật 2 Phục sinh năm B

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (24/4/2022) - Ba lần Chúa Giêsu nói: "Bình an cho anh em"

Hôm nay Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Họ là những người đã bỏ rơi Người. Người đã tỏ lòng thương xót khi cho họ thấy những vết thương của Người. Người mở lời với họ bằng một câu chào được xuất hiện ba lần trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bình an cho anh em!” (Ga20,19.21.26). “Bình an cho anh em!” Đó là lời chào của Đấng Phục Sinh, Đấng đến để gặp gỡ mọi yếu đuối và lầm lỗi của con người. Chúng ta hãy suy gẫm về lời “bình an cho anh em!” của Chúa Giêsu: chúng ta sẽ khám phá ra ba hành động của lòng thương xót Chúa trong chúng ta. Trước hết, nó mang lại niềm vui; sau đó, khơi dậy sự tha thứ; và cuối cùng là an ủi trong khi mỏi mệt.

1. Trước hết, lòng thương xót của Thiên Chúa ban niềm vui, một niềm vui đặc biệt, niềm vui cảm nhận được tha thứ một cách nhưng không. Vào chiều ngày Phục Sinh, các môn đệ nhìn thấy Chúa Giêsu và lần đầu tiên nghe thấy “bình an cho anh em!”, họ đã vui mừng (x. Ga 20,20). Họ nhốt mình trong nhà vì sợ hãi; nhưng họ cũng tự thu mình lại, ngập tràn trong cảm giác thất bại. Họ là những môn đệ đã bỏ Thầy: vào lúc Người bị bắt, họ đã bỏ trốn. Ông Phêrô thậm chí đã chối Người ba lần và chối mình thuộc về nhóm – thuộc một trong số họ! – Ông đã từng là kẻ phản bội. Có những lý do khiến họ cảm thấy không chỉ sợ hãi mà còn là những kẻ thất bại, vô giá trị. Dĩ nhiên trong quá khứ, họ đã có những lựa chọn can đảm, họ đã nhiệt tình đi theo Thầy, dấn thân và quảng đại, nhưng cuối cùng tất cả đều tan vỡ; nỗi sợ hãi đã chiếm ưu thế và họ đã phạm phải tội lỗi lớn: bỏ mặc Chúa Giêsu trong giờ phút bi thảm nhất. Trước ngày Phục Sinh, họ nghĩ rằng mình được dựng nên để làm những điều lớn lao, họ tranh cãi xem trong số họ, ai là người lớn nhất... Giờ thì họ thấy mình đang chạm đáy.

Trong bầu khí này, Chúa nói lời chào “bình an cho anh em” đầu tiên. Các môn đệ lẽ ra phải cảm thấy xấu hổ, nhưng thay vào đó, họ vui mừng. Ai hiểu họ… Tại sao thế? Bởi vì khuôn mặt đó, lời chào đó, những lời nói đó chuyển sự chú ý từ họ sang Chúa Giêsu . Thật vậy, bản văn nói rõ: “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa ”(x. Ga 20,20). Họ ra khỏi chính mình và khỏi những thất bại của mình và bị thu hút bởi ánh mắt của Người, nơi không có sự nghiêm khắc, nhưng có lòng thương xót. Chúa Kitô không phàn nàn về quá khứ, nhưng ban cho họ lòng nhân từ. Và điều này làm họ hồi sinh, mang lại sự bình an đã mất trong trái tim họ, khiến họ trở thành những con người mới, được thanh tẩy bởi sự tha thứ được tặng ban cách không tính toán và một sự tha thứ không cần xứng đáng.

Đây là niềm vui của Chúa Giêsu, niềm vui mà chúng ta cũng cảm nhận được khi cảm nghiệm được sự tha thứ của Người. Chúng ta giống như các môn đệ của buổi chiều Phục Sinh: sau một lần vấp ngã, một tội lỗi, một lần thất bại. Trong những khoảnh khắc đó dường như không thể làm được gì hơn được. Nhưng ngay tại đó, Chúa làm mọi việc để ban cho chúng ta sự bình an của Người: qua lần đi Xưng Tội, lời nói của một người bên cạnh, sự an ủi nội tâm của Thánh Thần, hay sự kiện bất ngờ và đáng ngạc nhiên... Bằng nhiều cách khác nhau, Chúa ân cần khiến chúng ta cảm nhận được vòng tay thương xót của Người, một niềm vui khi nhận được “sự tha thứ và bình an”. Đúng vậy, niềm vui của Chúa là niềm vui đến từ sự tha thứ và mang lại bình an. Thật vậy, nó đến từ sự tha thứ và mang lại bình an; một niềm vui nâng dậy chứ không làm hạ giá, giống như thể Chúa Giêsu không biết việc gì đang diễn ra. Anh chị em thân mến,chúng ta hãy nhớ đến sự tha thứ và sự bình an đã nhận được từ Chúa Giêsu. Mỗi người trong chúng ta đã nhận được nó, mỗi người trong chúng ta đều kinh nghiệm về nó. Chúng ta hãy nhớ lại đôi chút, nó thật hữu ích! Chúng ta hãy đặt vòng tay yêu thương và sự quan tâm của Thiên Chúa trước những lỗi lầm và vấp ngã của chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ nuôi dưỡng niềm vui. Bởi vì mọi sự sẽ nên đổi mới đối với những ai cảm nghiệm được niềm vui của Thiên Chúa! Niềm vui này sẽ biến đổi chúng ta.

2. “Bình an cho anh em!” Chúa nói lần thứ hai và thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 20,21). Và Người ban Thánh Thần cho các môn đệ, để làm cho họ trở thành tác viên hòa giải: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (x. Ga 20,23). Họ không chỉ nhận được lòng thương xót, mà còn trở thành người phân phát chính lòng thương xót mà họ đã nhận được. Họ nhận được quyền năng này, nhưng không dựa trên công trạng của họ, không dựa trên nỗ lực của họ, không: đó là một món quà thuần túy của ân sủng. Tuy nhiên, điều này đặt nền trên kinh nghiệm của họ, là những người được tha thứ.

Tôi hướng đến anh em, là những nhà rao truyền Lòng Thương Xót: nếu mỗi người trong anh em không cảm nhận được tha thứ, hãy dừng lại và đừng trở thành một nhà rao truyền Lòng Thương Xót, cho đến giây phút cảm thấy được tha thứ. Và khi anh em cảm thấy mình nhận được lòng thương xót, thì anh em sẽ có thể cho đi rất nhiều lòng thương xót, cho đi rất nhiều sự tha thứ. Và ngày nay và luôn luôn trong Giáo Hội, sự tha thứ phải đến với chúng ta theo cách này, qua lòng nhân hậu khiêm nhường của một vị giải tội giàu lòng thương xót, người biết rằng mình không phải là người nắm giữ quyền lực nào đó, nhưng là kênh chuyển trao lòng thương xót, mang sự tha thứ đến cho người khác và vị giải tội ấy trước hết là người đã lãnh nhận ơn tha thứ. Và từ đây, sự tha thứ cho tất cả nảy sinh, bởi vì Chúa luôn tha thứ tất cả và luôn luôn. Chúng ta là những người cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ, nhưng Người luôn tha thứ. Và anh em sẽ phải trở thành kênh truyền của sự tha thứ này, nhờ kinh nghiệm của anh em về việc được tha thứ. Không cần phải dằn vặt những tín hữu đến với chúng ta với các tội lỗi của họ, nhưng chúng ta hãy hiểu điều gì đang xảy ra, lắng nghe và tha thứ và đưa ra lời khuyên tốt để giúp họ tiến lên phía trước. Chúa tha thứ mọi thứ: chúng ta không được đóng cánh cửa đó...

“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.” Những lời này là nguồn gốc của Bí tích Hòa giải, nhưng không phải chỉ có thế. Toàn thể Giáo hội đã được Chúa Giêsu biến thành một cộng đoàn phân phát lòng thương xót, một dấu chỉ và một khí cụ hòa giải cho nhân loại. Anh chị em thân mến, mỗi người chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong Bí tích Rửa tội để trở thành người nam và người nữ của sự hòa giải. Khi chúng ta cảm nhận được niềm vui được giải thoát khỏi sức nặng của tội lỗi, của những thất bại. Khi chúng ta kinh nghiệm trong con người cũ về sự tái sinh có nghĩa là gì, sau một trải nghiệm tưởng như không có lối thoát, thì chúng ta phải chia sẻ tấm bánh của lòng thương xót với những người xung quanh. Chúng ta hãy để chính mình cảm nhận được lời kêu gọi này. Và chúng ta hãy tự hỏi: Tôi, nơi tôi sống, tôi, trong gia đình tôi, tôi, nơi làm việc, trong cộng đoàn của tôi, tôi có cổ võ sự hiệp thông, tôi có phải là người dệt nên sự hòa giải không? Tôi có dấn thân xoa dịu những xung đột, để mang lại sự tha thứ ở nơi có hận thù, hòa bình ở nơi có oán hận không? Hay tôi lao mình vào những hội nhiều chuyện, vốn là thứ luôn gây ra sự chết chóc? Chúa Giêsu tìm kiếm trong chúng ta những nhân chứng cho thế giới về những lời này của Người: Bình an cho anh em! Tôi đã nhận được bình an và tôi trao bình an ấy cho người khác.

3. “Bình an cho anh em!” Chúa lặp lại lần thứ ba khi Ngài hiện ra vào tám ngày sau đó với các môn đệ, để xác chuẩn đức tin cứng cỏi của Tôma. Ông Tôma muốn nhìn thấy và chạm vào. Và Chúa không ngạc nhiên vì sự cứng lòng tin của ông, nhưng Người đến gặp ông: “Hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy” (x. Ga 20,27). Đây không phải là những lời thách thức, mà là lòng thương xót. Chúa Giêsu hiểu rõ sự khó khăn của ông Tôma: Người không đối xử cứng rắn với ông và vị tông đồ này đã rung động trước lòng nhân từ vô biên của Chúa. Và đây là cách từ một người không tin Chúa trở thành một người tin Chúa, và thực hiện một lời tuyên xưng đức tin đơn giản và đẹp đẽ nhất: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (x. Ga 20,28). Đó là một lời tuyên xưng tuyệt đẹp, chúng ta có thể biến nó thành của riêng mình và lặp lại nó suốt cả ngày, đặc biệt là khi chúng ta trải qua những nghi ngờ và tăm tối, giống như Tôma.

Bởi vì nơi Tôma, có câu chuyện của mọi tín hữu, của mỗi người trong chúng ta, của từng người tín hữu: có những khoảnh khắc khó khăn, nơi đó dường như cuộc sống phủ nhận đức tin, lúc đó, chúng ta đang gặp khủng hoảng và chúng ta cần chạm vào và nhìn thấy. Giống như ông Tôma, chính tại đây, chúng ta tái khám phá trái tim của Chúa, lòng thương xót của Người. Trong những tình huống này, Chúa Giêsu không đến với chúng ta qua một cách thức chiến thắng đầy kiêu hãnh và với những bằng chứng choáng ngợp, Người không thực hiện những phép lạ khoa trương, nhưng mang đến những dấu hiệu ấm áp của lòng thương xót. Người an ủi chúng ta với cùng một thể thức của bài Tin Mừng hôm nay: cho chúng ta thấy những vết thương của Người. Chúng ta đừng quên điều này: khi đối mặt với tội lỗi, tội nặng nhất, của chúng ta hay của người khác, luôn có sự hiện diện của Chúa, Đấng trao ban vết thương của mình. Xin đừng quên. Và trong chức vụ của chúng ta với tư cách là vị giải tội, chúng ta phải cho mọi người thấy rằng trước tội lỗi của họ là những vết thương của Chúa, là vết thương mạnh hơn tội lỗi.

Và Người cũng làm cho chúng ta khám phá ra những vết thương của anh chị em. Thật vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa, qua những khủng hoảng và những mệt mỏi của chúng ta, thường giúp chúng ta gặp gỡ với những đau khổ của người lân cận. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang ở chóp đỉnh của đau khổ, ở tột cùng của hoàn cảnh khó khăn, và trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tại lúc này có những người đang phải trải qua những thời điểm tồi tệ nhất. Và, nếu chúng ta chăm sóc vết thương của người lân cận và đổ đầy lòng thương xót nơi họ, thì một niềm hy vọng mới sẽ tái sinh nơi chúng ta. Điều này an ủi chúng ta trong lúc mỏi mệt. Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình, trong thời gian gần đây, chúng ta có chạm vào những vết thương của một người đau khổ nào đó về thể xác hoặc tinh thần không; hay chúng ta có mang lại sự bình an cho một ai đó bị thương tích hay suy sụp tinh thần không; hay chúng ta có dành thời gian lắng nghe, đồng hành, và an ủi không. Khi chúng ta làm điều này, chúng ta gặp Chúa Giêsu. Từ đôi mắt của những người đang bị thử thách trong cuộc sống, Người nhìn chúng ta với lòng thương xót và nói với chúng ta: Bình an cho anh em! Và tôi thích nghĩ đến sự hiện diện của Đức Mẹ giữa các Tông đồ, Mẹ ở đó, và cũng như sau Lễ Ngũ Tuần, chúng ta nghĩ về Mẹ như Mẹ Giáo Hội: Tôi rất thích nghĩ về Mẹ vào thứ Hai, sau Chúa Nhật Lòng Thương Xót, như là Mẹ của Lòng Thương Xót: Mẹ có thể giúp chúng ta tiến lên trong sứ mạng tốt đẹp của chúng ta.

Nguồn: vaticannews.va/vi

 

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (24/4/2022) - Từ sự ngờ vực trong đức tin đến lòng tín thác nơi Chúa

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, ngày cuối của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta về lần hiện ra thứ nhất và thứ hai của Chúa Phục Sinh với các môn đệ. Chúa Giêsu đến vào ngày Phục Sinh, trong khi các Tông đồ đang đóng cửa trong Nhà Tiệc Ly vì sợ hãi, nhưng vì ông Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không có mặt, nên tám ngày sau Người lại trở lại (x. Ga 20,19-29). Hãy tập trung vào hai nhân vật chính, Tôma và Chúa Giêsu, trước hết là nhìn vào người môn đệ và sau đó là Thầy Giêsu. Một cuộc đối thoại đẹp giữa hai nhân vật này.

Trước hết là tông đồ Tôma. Ông đại diện cho tất cả chúng ta, những người không có mặt trong Nhà Tiệc Ly khi Chúa hiện ra, và chúng ta không có những dấu hiệu thể lý hay lần hiện ra nào khác từ Người. Giống như ông Tôma, đôi khi chúng ta cũng tranh cãi: Làm thế nào để có thể tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại, rằng Người đồng hành với chúng ta và Người là Chúa của cuộc sống chúng ta dẫu không thấy hay chạm vào Người? Làm thế nào mà người ta có thể tin vào điều này? Tại sao Chúa Giêsu không cho chúng ta một số dấu hiệu rõ ràng hơn về sự hiện diện và tình yêu của Người? Một vài dấu hiệu nào đấy giúp tôi có thể tin tưởng hơn… Ở đây, chúng ta cũng giống như ông Tôma, cũng với những hoài nghi đấy, với những lý luận đấy.

Nhưng chúng ta không cần xấu hổ về điều này. Thực ra, khi kể cho chúng ta câu chuyện về Tôma, Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Chúa không tìm kiếm những Kitô hữu hoàn hảo. Chúa Giêsu không tìm những Kitô hữu hoàn hảo. Tôi nói với anh chị em rằng: tôi sợ khi tôi thấy một Kitô hữu nào đó, hay một hội đoàn Kitô hữu nào đó, họ tin mình hoàn hảo. Chúa Giêsu không tìm những Kitô hữu hoàn hảo; Chúa Giêsu không tìm kiếm những Kitô hữu vốn là những người không bao giờ nghi ngờ và luôn khoe khoang một đức tin chắc chắn. Khi một Kitô hữu như vậy, thì có một điều gì không ổn. Không, cuộc phiêu lưu của đức tin, như đối với Tôma, được tạo nên từ ánh sáng và mờ tối. Nếu không, đó sẽ là đức tin nào? Nó cho thấy những phút giây an ủi, hăng hái và nhiệt tình, nhưng cũng có lúc mệt mỏi, hoang mang, nghi ngờ và tăm tối. Tin Mừng cho chúng ta thấy sự “khủng hoảng” của ông Tôma để nói với chúng ta rằng chúng ta đừng sợ những khủng hoảng về đời sống và đức tin. Những khủng hoảng đó không phải là tội lỗi, nhưng chúng là cuộc hành trình, chúng ta không cần phải sợ hãi chúng. Nhiều khi, chúng khiến chúng ta phải khiêm tốn, bởi vì chúng tước bỏ ý tưởng của chúng ta về việc trở nên yên vị, tốt hơn những người khác. Những cơn khủng hoảng giúp chúng ta nhận ra mình đang cần: chúng ta cần Chúa và do đó, chúng cần trở lại với Chúa, chạm vào vết thương của Người, để cảm nghiệm lại tình yêu của Người như lần đầu tiên. Anh chị em thân mến, một đức tin không hoàn hảo nhưng khiêm tốn thì tốt hơn. Nó luôn luôn quay trở lại với Chúa Giêsu. Một đức tin mạnh mẽ nhưng tự phụ khiến chúng ta tự hào và kiêu ngạo. Thật khốn, khốn cho điều này!

Và trước sự vắng mặt và theo hành trình của Tôma, và cũng thường là của chúng ta, Chúa Giêsu có thái độ như thế nào? Phúc Âm hai lần nói rằng Người “đã đến” (x. Ga 20,19.26). Lần đầu tiên, rồi lần thứ hai, tám ngày sau. Chúa Giêsu không bỏ cuộc, không mệt mỏi với chúng ta, Người không sợ những khủng hoảng và yếu đuối của chúng ta. Người luôn luôn trở lại: khi cánh cửa đóng lại, Người trở lại; khi chúng ta nghi ngờ, Người trở lại. Giống như ông Tôma, khi chúng ta muốn gặp Người và chạm vào Người, Người sẽ trở lại. Chúa Giêsu luôn trở lại, luôn gõ cửa chúng ta và Người không trở lại với những dấu hiệu mạnh mẽ khiến chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và bất xứng, cũng như hổ thẹn, mà bằng những vết thương của Người, Người trở lại để cho chúng ta thấy những vết thương của Người, những dấu chỉ của tình yêu đã ôm lấy sự yếu đuối của chúng ta.

Anh chị em thân mến, nhất là khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi hay những lúc khủng hoảng, Chúa Giêsu, Đấng Phục sinh, mong muốn trở lại ở với chúng ta. Người chỉ đợi chúng ta tìm kiếm Người, để cầu khẩn Người, thậm chí, giống như ông Tôma, chúng ta phản đối qua việc trút cho Người những đòi hỏi của chúng ta và sự không tin tưởng của chúng ta. Người trở lại. Tại sao thế? Bởi vì Người kiên nhẫn và nhân từ. Người đến để mở toang căn phòng của nỗi sợ hãi và sự hoài nghi của chúng ta, bởi vì Người luôn muốn cho chúng ta một cơ hội khác. Chúa Giêsu là Đấng trao những cơ hội khác : Đấng luôn trao những cơ hôi khác. Chúng ta hãy nghĩ đến lần cuối cùng, chúng ta hãy nghĩ một chút thôi, mà ở đó, trong một thời điểm khó khăn hoặc một giai đoạn khủng hoảng, chúng ta tự khép mình, tự rào mình trong những vấn đề của mình và để Chúa Giêsu ra khỏi nhà. Và chúng ta hãy tự hứa với mình, lần sau, trong khó khăn, chúng ta tìm kiếm Chúa Giêsu và trở về với Người, với sự tha thứ của Người, Người luôn luôn tha thứ, luôn luôn, chúng ta hãy trở về với những vết thương đã chữa lành cho chúng ta. Do đó, chúng ta cũng sẽ có khả năng thương cảm, đến gần vết thương của người khác mà không cứng nhắc và không thành kiến.

Xin Đức Mẹ, Mẹ của Lòng Thương Xót, tôi rất thích nghĩ đến Mẹ là Mẹ của Lòng Thương Xót vào ngày thứ Hai, là ngày sau Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Xin Mẹ đồng hành với chúng ta trên hành trình đức tin và tình yêu.

Nguồn: vaticannews.va/vi

 

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (28/4/2019) – Bình an, niềm vui, sứ mạng

Anh chị em thân mến, chào buổi sáng!

Tin Mừng hôm nay (x. Ga 20: 19-31) thuật lại cho chúng ta rằng vào buổi tối ngày lễ Phục sinh, Chúa Giêsu xuất hiện với các môn đệ nơi Phòng Tiệc Ly, và Ngài mang đến cho họ ba món quà: bình an, niềm vui, sứ mạng tông đồ.

Những lời đầu tiên Ngài nói là: “Bình an cho anh em” (c. 21). Chúa Phục Sinh mang lại bình an đích thực, bởi vì qua sự hy sinh trên thập giá, Ngài đã mang lại sự hòa giải giữa Thiên Chúa và nhân loại, và Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Đây là bình an. Các môn đệ là những người đầu tiên cần sự bình an này, bởi vì, sau khi Thầy bị bắt và bị kết án tử, họ đã rơi vào hoang mang và sợ hãi. Chúa Giêsu xuất hiện giữa họ, cho họ thấy những vết thương – Chúa Giêsu muốn giữ lại những vết thương - nơi thân xác vinh quang của Ngài. Ngài mang lại bình an như là thành quả của chiến thắng.

Nhưng tối hôm đó, Tôma lại không có mặt. Ông được kể lại về sự kiện đặc biệt này, nhưng ông không thể tin những lời chứng của các tông đồ khác. Ông muốn chính mình phải xác minh về điều những người khác nói. Tám ngày sau, cũng giống như hôm nay, Chúa lại hiện ra: Chúa Giêsu đến để gặp sự hoài nghi của Tôma, và mời ông chạm vào những vết thương của mình. Những vết thương này là nguồn của bình an, bởi vì chúng là dấu chỉ của tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã đánh bại các thế lực thù địch của con người, tội lỗi và sự chết. Ngài mời Tôma chạm vào vết thương. Đây là một giáo huấn cho chúng ta, như thể Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta: “Nếu con không bình an, hãy chạm vào vết thương của ta”.

Chạm vào vết thương của Chúa Giêsu, đó là những vấn đề, khó khăn, bách hại, bệnh tật của rất nhiều người đang đau khổ. Con có bình an không? Hãy đi, đi thăm một ai đó là biểu tượng của vết thương của Chúa Giêsu. Hãy chạm vào vết thương của Ngài. Từ những vết thương đó phát sinh lòng thương xót. Đây là lý do hôm nay là Chúa Nhật lòng thương xót. Một vị thánh đã nói rằng thân xác của Chúa Giêsu bị đóng đinh giống như rất nhiều lòng thương xót, rằng qua những vết thương, lòng thương xót đến với tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta cần lòng thương xót, chúng ta biết điều đó. Chúng ta hãy đến gần Chúa Giêsu và chạm vào vết thương của Ngài trong những người anh em đau khổ của chúng ta. Những vết thương của Chúa Giêsu là một kho báu: lòng thương xót đến từ đó. Chúng ta hãy can đảm và chạm vào vết thương của Chúa Giêsu. Với những vết thương này, Ngài đứng trước Cha, chỉ cho Cha thấy, như thể Ngài đang nói: “Thưa cha, đây là cái giá, những vết thương này là những gì con đã trả cho anh em con”. Với những vết thương của mình, Chúa Giêsu đã can thiệp cho chúng ta trước Chúa Cha. Xin ban cho chúng con lòng thương xót khi chúng con cần đến và can thiệp cho chúng con. Chúng ta đừng quên vết thương của Chúa Giêsu.

Món quà thứ hai mà Chúa Giêsu Phục Sinh mang đến cho các môn đệ là niềm vui. Thánh sử viết rằng “các môn đệ vui mừng khi thấy Chúa” (c. 20). Và cũng có một câu trong Tin Mừng Luca nói rằng họ “không tin vì quá vui”. Chúng ta cũng vậy, khi có một điều gì đó đáng kinh ngạc xảy ra, một điều gì đó tốt đẹp, chúng ta có thể nói: “Tôi không thể tin được, nó không đúng!”. Đó là những gì xảy đến với các môn đệ, họ không thể tin vì quá vui. Đây là niềm vui mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta.

Hơn nữa, ngoài bình an và niềm vui, Chúa Giêsu cũng mang đến một món quà nữa cho các môn đệ, đó là sứ mạng. Ngài nói với họ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Sự phục sinh của Chúa Giêsu là khởi đầu cho một năng động mới của tình yêu, có khả năng biến đổi thế giới bằng sự hiện diện của Thánh Thần.

Vào Chúa nhật thứ hai Phục sinh, chúng ta được mời đến gần Chúa Kitô bằng đức tin, mở rộng trái tim cho sự bình anniềm vui và sứ mạng. Nhưng chúng ta đừng quên những vết thương của Chúa Giêsu bới vì từ đó phát ra bình an, niềm vui và sức mạnh cho sứ mạng. Chúng ta phó dâng những lời cầu nguyện này nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương trời đất.

Nguồn: vaticannews.va/vi

 

Đức Phanxicô, Bài giảng Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (03/4/2016) - Đừng bao giờ mệt mỏi kín múc lòng thương xót nơi Thiên Chúa

Anh chị em thân mến!

“Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại trong sách này” (Ga 20,30). Tin Mừng là cuốn sách của lòng thương xót của Thiên Chúa, cần đọc đi đọc lại, bởi vì những gì Chúa Giêsu đã nói và làm diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Nhưng không phải tất cả đều đã được viết; Tin Mừng Lòng Thương Xót là môt cuốn sách rộng mở, nơi được tiếp tục viết các dấu chỉ của các môn đệ Chúa Kitô, các cử chỉ cụ thể của tình yêu là chứng tá tốt đẹp nhất của lòng thương xót. Chúng ta tất cả đều được mời gọi trở thành những người viết sống động của Tin Mừng, trở thành những người đem Tin Mừng tới cho mọi người nam nữ ngày nay. Chúng ta có thể làm điều đó, khi thực hiện các công việc của lòng thương xót thể lý và tinh thần, là kiểu sống của cuộc đời kitô. Qua các cử chỉ đơn sơ và mạnh mẽ, đôi khi vô hình đó, chúng ta có thế thăm viếng những người có nhu cầu, bằng cách đem đến cho họ sự dịu hiền và ủi an của Thiên Chúa. Và như thế chúng ta tiếp tục điều Chúa Giêsu đã làm trong ngày Phục Sinh, khi Ngài đổ vào con tim các môn đệ đang sợ hãi lòng thương xót của Thiên Chúa Cha, và ban cho các vị Chúa Thánh Thần, tha thứ tội lỗi và trao ban niềm vui.

Tuy nhiên, trong trình thuật Phúc Âm chúng ta cũng tìm thấy sự mâu thuẫn hiển nhiên: một đàng là sự sợ hãi của các môn đệ đóng kín cửa nhà; đàng khác là sứ mệnh đến từ Chúa Giêsu, là Đấng gửi họ vào lòng thế giới để loan báo ơn tha thứ. Sự mâu thuẫn này cũng có thể có nơi chúng ta, một cuộc chiến nội tâm giữa sự đóng kín con tim và lời mời gọi của tình yêu mở rộng cửa và đi ra khỏi chính mình. Chúa Kitô, Đấng vì tình yêu, đã vào qua các cửa đóng kín của tội lỗi, cái chết và âm phủ, cũng ước ao vào từng người trong chúng ta để mở toang các cánh cửa đóng kín của con tim chúng ta. Với sự phục sinh Ngài đã chiến thắng sự sợ hãi giam cầm chúng ta, Ngài muốn mở toang các cánh cửa đóng kín của chúng ta và gửi chúng ta ra đi. Con đường, mà vị Thầy phục sinh chỉ cho chúng ta, chỉ có một chiều: ra khỏi chính mình để làm chứng cho sức mạnh chữa lành của tình yêu, mà Ngài đã chinh phục cho chúng ta. Chúng ta thường thấy trước mắt một nhân loại bị thương tích và sợ hãi, một nhân loại mang trên mình các vết thương của khổ đau và không chắc chắn. Trước tiếng kêu đau đớn của lòng thương xót và hoà bình, hôm nay chúng ta cũng cảm thấy lời mời gọi được hướng tới từng người trong chúng ta, mời gọi tin tưởng nơi Chúa Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (c. 21).

Mọi tật nguyền có thể tìm thấy sự cứu giúp hữu hiệu nơi lòng thương xót của Thiên Chúa. Thật thế, lòng thương xót của Ngài không ngừng lại ở xa: Ngài ước ao đến gặp gỡ tất cả mọi nghèo nàn và giải thoát khỏi biết bao hình thức nô lệ, gây khổ đau cho thế giới chúng ta. Ngài muốn tới với các vết thương của từng người, để chữa lành chúng. Là các tông đồ của lòng thương xót có nghĩa là sờ mó và vuốt ve các vết thương ngày nay cũng hiện diện trên thân xác và trong tâm hồn của biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta. Khi săn sóc các vết thương đó, chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu, chúng ta khiến cho Ngài hiện diện sống động, chúng ta cho phép các người khác sờ mó được lòng thương xót của Ngài với bàn tay và nhận biết Ngài là “Chúa và Thiên Chúa” (c. 28) như tông đồ Toma đã làm. Và đó là sứ mệnh được uỷ thác cho chúng ta. Có biết bao nhiêu người xin được lắng nghe và cảm thông! Tin Mừng của lòng thương xót cần loan báo và viết ra trong cuộc sống, tìm kiếm những người có con tim kiên nhẫn và rộng mở, tìm “các người samaritano nhân hậu” biết cảm thương và im lặng trước mầu nhiệm của người anh chị em. Nó đòi hỏi các phục vụ quảng đại và tươi vui yêu thương một cách nhưng không, mà không đòi hỏi bất cứ gì đổi lại.

“Bình an cho các con” là lời chào Chúa Kitô đem đến cho các môn đệ Ngài, đó cũng là lời chào mà con người thời đại chúng ta chờ đợi. Đây không phải là một hoà bình được thương thuyết, không phải là việc ngưng cái gì đó không ổn; Nó là hoà bình của Chúa, hoà bình đến từ con tim của Đấng Phục Sinh, hoà bình đã chiến thắng tội lỗi, cái chết và sự sợ hãi. Đó là hoà bình không chia rẽ, nhưng hiệp nhất; đó là hoà bình không để cho cô đơn, nhưng làm cho cảm thấy được lắng nghe và yêu thương; đó là hoà bình kéo dài trong đau khổ và làm cho hy vọng nở hoa. Như trong ngày Phục sinh, hoà bình này nảy sinh và tái sinh luôn mãi từ sự tha thứ của Thiên Chúa, cất đi nỗi sợ hãi khỏi con tim. Là những người đem hoà bình của Chúa là sứ mệnh Giáo Hội giao cho chúng ta trong ngày lễ Phục Sinh. Chúng ta đã sinh ra trong Chúa Kitô như là dụng cụ của hòa giải, để đem tới cho tất cả mọi người sự tha thứ của Thiên Chúa Cha, để vén mở gương mặt chỉ có tinh yêu của Ngài trong các dấu chỉ của lòng thương xót.

Trong thánh vịnh chúng ta đã công bố “Tinh yêu Ngài tồn tại luôn mãi” (Tv 117, 2). Đúng thế, lòng thương xót của Thiên Chúa vĩnh cửu, không kết thúc, không cạn kiệt, không đầu hàng trước các khép kín, và không bao giờ mệt mỏi. Trong cái luôn mãi đó chúng ta tìm thấy sự nâng đỡ trong những lúc thử thách và yếu đuối, bởi vì chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta: Ngài luôn mãi ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì tình yêu cao cả mà chúng ta không thể hiểu được như thế. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ mệt mỏi kín múc lòng thương xót của Thiên Chúa Cha và đem nó tới cho thế giới; chúng ta hãy xin cho chính chúng ta biết thương xót và phổ biến khắp nơi sức mạnh của Tin Mừng.

Nguồn: archivioradiovaticana.va

 

Đức Phanxicô, Huấn dụ Chúa nhật 2 Phục sinh năm C (07/4/2013) - Hãy luôn luôn tín thác nơi Lòng Chúa Thương Xót

Anh chị em thân mến,

Vào ngày Chúa Nhật này, khi tuần Bát nhật của Lễ Phục sinh kết thúc, tôi nhắc lại với mọi người những lời chúc tốt đẹp của tôi trong lễ Phục sinh bằng chính những lời của Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với các tông đồ: "Bình an cho các con" (Ga 20:19, 21, 26). Đây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là một ơn, là ơn quý trọng mà Chúa Kitô cống hiến cho các môn đệ sau khi đã đi qua cái chết và thế giới bên dưới.

Ngài trao ban bình an như đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Sự bình an này là hoa trái của chiến thắng tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ, nó là hoa trái của sự tha thứ. Và quả thật là như vậy: bình an thực sự, bình an sâu thẳm đến từ kinh nghiệm lòng xót thương của Thiên Chúa.

Hôm nay là Chúa Nhật Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, như Đức Gioan Phaolô II - người nhắm mắt tạ thế vào đêm trước của chính ngày này - đã mong muốn.

Phúc âm thánh Gioan kể rằng Chúa Giêsu đã hiện ra hai lần với các Tông Đồ đóng kín trong nhà Tiệc Ly: lần đầu ngay buổi chiều ngày sống lại, lần đó không có Tôma, là người đã tuyên bố: nếu tôi không trông thấy và sờ vào Chúa, thì tôi không tin. Lần thứ hai, tám ngày sau, cũng có cả Tôma nữa. Chúa Giêsu nói với Tôma, mời ông nhìn các vết thương của Ngài và sờ vào chúng, và Tôma kêu lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28), Chúa Giêsu nói: ”Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (c. 29). Những người đã không trông thấy nhưng đã tin đó là là các môn đệ, các người nam nữ khác của thành Giêsusalem, dù đã không gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, nhưng đã tin vào chứng tá của các Tông Đồ và các phụ nữ.

Đây là một lời nói rất quan trọng đối với đức tin, mà chúng ta có thể gọi là phúc thật của đức tin. ”Phúc cho những ai đã không thấy và đã tin”, đó là phúc thật của lòng tin. Trong mọi thời đại và tại mọi nơi phúc cho những ai, qua Lời Chúa được Giáo Hội rao giảng và các tín hữu kitô làm chứng, tin rằng Chúa Giêsu Kitô là tình yêu thương của Thiên Chúa nhập thể, là Lòng Thương Xót nhập thể. Và điều này có giá trị đối với từng người trong chúng ta!

Cùng với sự bình an của Ngài Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông Đồ để các vị có thể phổ biến trong thế giới ơn tha thứ tội lỗi, ơn mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban, và nó đã được trả bằng giá Máu của Con Thiên Chúa (x. Ga 20,21-23). Giáo Hội được Chúa Kitô phục sinh sai đi thông truyền cho con người ơn tha tội, và như thế làm cho Nước tình yêu được lớn lên, gieo vãi hòa bình trong các con tim, để nó cũng được vững mạnh trong các tương quan, trong các xã hội và các cơ cấu. Và Thần Khí của Chúa Kitô phục sinh xua đuổi sự sợ hãi khỏi trái tim các Tông Đồ và thúc đẩy họ đem Tin Mừng ra khỏi Nhà Tiệc Ly. Cả chúng ta nữa cũng hãy can đảm hơn để làm chứng cho đức tin nơi Chúa Kitô Phục Sinh! Chúng ta không được sợ hãi là tín hữu kitô và sống như kitô hữu! Chúng ta phải có lòng can đảm này, ra đi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh, bởi vì Ngài là sự bình an của chúng ta, Ngài đã trao ban cho chúng ta sự bình an với tình yêu thương cùng với sự tha thứ của Ngài, với máu và với lòng thương xót của Ngài.

Các bạn thân mến, chiều hôm nay tôi sẽ dâng thánh lễ tại Vương cung thánh đường thánh Gioan Laterano, là nhà thờ chính tòa của Giám Mục Roma. Chúng ta hãy cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ giúp chúng ta, Giám Mục và Dân Chúa, tiến bước trong đức tin và trong tình mến, luôn luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Đấng luôn chờ đợi chúng ta, yêu thương chúng ta, tha thứ cho chúng ta với máu của Ngài và tha thứ cho chúng ta mỗi khi chúng ta đến găp gỡ Ngài và xin ơn tha thứ. Chúng ta hãy tin tưởng nơi lòng Thương xót của Ngài.

Nguồn: archivioradiovaticana.va

 

Nguồn: hdgmvietnam.com