Một cái nhìn thật khác về phụ nữ Mỹ hiện nay và việc họ tìm hiểu đời sống thánh hiến

08/08/2019
1003
Ai cũng coi xu hướng thế tục hóa là một sự kiện tất yếu của lịch sử và càng ngày càng có nhiều thăm dò cho thấy giới trẻ hiện nay càng ngày càng xa rời các tôn giáo định chế, kể cả các niềm tin tôn giáo, để chạy theo những thứ như chiêm tinh (astrology) và trái cầu phalê (crystals)1. Thế nhưng trên HuffPost2, Eve Fairbanks, một người Do Thái Giáo, lại có một tường trình và nhận định khác: “Behold, the millennial nuns: More and more young women are being called to the religious life, after 50 straight years of decline. What on earth is going on?” (Hãy chú ý, các nữ tu thiên niên kỷ: Ngày càng có nhiều phụ nữ được kêu gọi sống cuộc sống tu trì, sau suốt 50 năm xuống dốc. Chuyện gì đang diễn ra trên trái đất đây?)

Theo tác giả, ở cuối những năm trung học chuyên về khoa học thuộc thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, bà bỗng nhận ra một hiện tượng mới lạ: một số bạn cùng lớp của bà chuyển sang đức tin Công Giáo. 

Điều ấy làm bà ngạc nhiên. Vì trường trung học của bà rất thế tục, thế tục một cách đầy phô trương. Họ có một bức tượng thép dựng trên bãi cỏ phía trước mô tả chiến thắng của luận lý toán học. Chủ tịch lớp cao cấp của bà mặc một bộ trang phục máy tính khổng lồ để dự các trận bóng đá. Khi lớp học về chính phủ của bà tổ chức một cuộc tranh luận về phá thai, chỉ có hai trong số 18 học sinh tình nguyện tranh luận cho chính nghĩa “phò sự sống”.

Và gần cuối những năm 2000, một nửa tá bạn cũ vốn là những người hoài nghi một cách có luận lý và những người sành internet theo xu hướng cấp tiến đã trở nên người tôn giáo sâu sắc. Một số người trong số này vốn chỉ nhận được một nền giáo dục Công Giáo lỏng lẻo. Họ viết blog. Họ viết bài đăng trên Facebook nói về việc họ trở lại và chia sẻ các điều người ta vốn tương truyền về kế hoạch hóa gia đình không dùng biện pháp tránh thai. 

Một bạn cùng lớp Công Giáo đi mở một trang trại hữu cơ với chồng và bảy đứa con của mình, đồng thời vận động cho những thứ phe tả rất thích, như sữa chua con nít không biến đổi gen (GMO) để tưởng nhớ Chánh án tối cao Antonin Scalia và những bức hình pizza tự chế có hoa văn nước sốt cà chua nhằm giống như các vết thương của Chúa Giêsu trên thập giá. 

Meg, bạn của bà, người được mọi người chú ý tại các cuộc vui chơi ở trường, bắt đầu tự gọi mình là một “Kẻ đi rong vì Chúa Kitô” (hobo for Christ). Cô ấy đi du lịch khắp thế giới và kiếm tiền từ những bài phát biểu trên blog mà ý chính là việc truyền giảng Tin Mừng sâu sắc. Cô ta viết trong một bài rằng “Thiên Chúa đang yêu cầu một thứ môn đệ triệt để”. Cô ta cũng nghĩ đến việc trở thành một nữ tu Công Giáo.

Hiện trạng Đạo và giới trẻ

Những người này làm bà tò mò, vì bà nghĩ họ không thích hợp với những chuyện họ đã hoặc đang hướng tới. Theo bà, Hoa Kỳ đang trên đà từ từ trôi dạt về phía cấp tiến. Các cuốn sách được xuất bản về vận mệnh nhân khẩu học của Hoa Kỳ thích cảnh báo những người tôn giáo phải nên sợ giới trẻ. Suy nghĩ này cho rằng mỗi thế hệ nối tiếp nhau đều muốn thực thi nhiều sự lựa chọn hơn về những gì họ ăn, về cách họ sống, về người họ yêu, về các giấc mơ của họ, về cả các sự thật của họ nữa. Giới trẻ không quan tâm đến truyền thống hoặc ràng buộc đạo đức.

Đạo Công Giáo dường như đặc biệt lạc bước đối với cuộc sống đương thời của người Mỹ. Đạo Thệ Phản dễ dàng thoả hiệp với hiện đại hơn và với một Chúa Giêsu thân thiện, huấn luyện người ta sống đời (life coach-esque). Và cả các cộng đồng Công Giáo cấp tiến cũng yêu cầu phải phục tùng một vị giáo hoàng đội vương miện vàng, người mà về mặt thần học vốn không thể sai lầm và là người được chọn bởi hơn một trăm người đàn ông, chỉ toàn đàn ông. 

Dường như vì thế mà Đạo Công Giáo gặp khủng hoảng. Một cuộc thăm dò của Trung tâm nghiên cứu Pew năm 2008 cho thấy, vào cuối thế kỷ 20, Đạo Công Giáo mất nhiều tín hữu hơn bất cứ tôn giáo nào khác ở Hoa Kỳ. Khoảng một phần ba người Mỹ được nuôi dạy trong đức tin Công Giáo báo cáo rằng họ đã lìa bỏ Giáo Hội.

Sự co cụm ảnh hưởng đến cả các nhân viên Giáo Hội – hàng linh mục và cộng đồng nữ tu của Giáo hội. Năm 1965, nước Mỹ có 180,000 nữ tu Công Giáo vĩnh khấn, một thuật ngữ chỉ các phụ nữ đã cam kết sống cuộc sống khiết tịnh, nghèo đói, vâng lời và phục vụ Giáo Hội. Đến năm 2010, con số đó đã giảm xuống dưới 50,000. Năm 2009, nhiều nữ tu Công Giáo ở Mỹ ngoài 90 tuổi hơn là dưới 60 tuổi.

Tình hình thay đổi...

Nhưng tình hình ấy dường như bắt đầu được đảo ngược ngay vào khoảng thời gian bà bắt đầu chú ý đến niềm tin đang nảy nở nơi các bạn học cấp ba của mình. Sau 50 năm suy sụp, số lượng phụ nữ trẻ tuổi “đang biện phân cuộc sống tu trì” - hay trải qua một diễn trình lâu dài để trở thành nữ tu Công Giáo - đang tăng lên đáng kể. Năm 2017, 13 phần trăm phụ nữ từ 18 đến 35 tuổi trả lời một cuộc thăm dò thống thuộc Đại học Georgetown về người Công Giáo Mỹ báo cáo rằng họ đã cân nhắc việc trở thành nữ tu Công Giáo. Như thế là hơn 900,000 phụ nữ trẻ, đủ để tái cung cấp dân số cho quân đoàn “nữ tu” trong một vài thập niên tương lai, ngay cả khi chỉ một phần trong số họ thực sự trở thành nữ tu.

Và những người khao khát trở thành nữ tu không như những người xưa cũ. Họ đa dạng hơn: 90% nữ tu sĩ Mỹ năm 2009 được nhận dạng là người da trắng; năm ngoái, ít hơn 60 phần trăm những người mới nhập tu viện đã được nhận diện như thế. Họ cũng trẻ hơn: Độ tuổi trung bình để thực hiện bước cuối cùng trong đời sống tu trì cách đây một thập niên là 40. Ngày nay, tuổi ấy là 24. Họ là những đứa con của giai cấp trung lưu một cách bất cân xứng, đôi khi có tham vọng cao và đạt thành tích cao. Những câu chuyện biện phân điển hình trên blog hoặc trên báo chí Công Giáo bắt đầu bằng những dòng như “cô ấy chơi môn lacrosse (môn thể thao dùng vợt để bắt và ném bóng) và đi học ở Đại học Rutgers” hay cô ấy là “một sinh viên tốt nghiệp Harvard với một người bạn trai tuyệt vời”.

Bạn sẽ tìm thấy những người tuổi 20 này, giống như những người tuổi 20 khác, khắp trên Instagram và YouTube. Một số thăm dò thứ dòng tu nào để tham gia trên một trang mạng gọi là VocationMatch.com, về căn bản có thể coi như một ứng dụng hẹn hò dành cho các nữ tu. Bạn có cảm thức rằng những phụ nữ trẻ này hết còn những mối lắng lo kiểu những người đàn bà có tác phong, kiểu cách có thể dự đoán được mà người ta vốn gọi là basic bitch như đăng hình thực phẩm trên Instagram, các môn thể thao đại học hoặc khuôn mặt có râu của Benedict Cumberbatch. Ngược lại, họ chỉ quan tâm viết những “tweets” chắc nịch kiểu “Không có các bí tích, cái chết của bạn được coi như không được chuẩn bị”.

Những phụ nữ trẻ này có một bất ngờ cuối cùng: Họ có xu hướng bảo thủ về mặt tín lý hơn nhiều so với những người đi trước. Nếu bạn đi sâu hơn vào các nguồn cung cấp dữ liệu truyền thông xã hội của họ, qua những bức ảnh lập dị của các nữ tu mặc tu phục nhưng làm dấu (thánh giá) cách lỏng lẻo, bạn sẽ tìm thấy một lòng sùng mộ vững vàng đối với các niềm tin Công Giáo có tính truyền thống nhất. Họ nhiệt tình phản đối việc phá thai. Họ ca tụng đức đồng trinh không phải như một điều cần thiết để có thời gian rảnh rỗi phục vụ Thiên Chúa, cách mà một số nữ tu “cấp tiến” vốn nghĩ, nhưng như một điều gì đó tự nó thánh thiện. Nó là một lối sống khắc nghiệt thực sự phủ mờ thứ chủ nghĩa lạy Chúa ơi phải hưởng tối đa (OMG maximalism) đang thống trị các phương tiện truyền thông xã hội.

Patrice Tuohy, nhà xuất bản các tài liệu hướng dẫn những người đang xem xét cuộc sống tu trì, trong đó có VocationMatch.com, nói với tác giả rằng cách đây không lâu, họ chỉ nhận được khoảng 350 truy vấn mỗi năm qua điện thoại và trực tuyến. Năm ngoái, con số họ nhận được đã lên tới 2,600. Và 60 phần trăm những người phụ nữ đó, Tuohy nói, hỏi rõ ràng xem liệu họ có thể tham gia một dòng buộc họ phải mặc tu phục hay không (hiện nay, chỉ có khoảng 20 phần trăm nữ tu ở Mỹ mặc tu phục). Tuohy cho rằng những phụ nữ trẻ này muốn được lãnh đạo dù họ thích tự do. 

Biện phân đời sống tu trì, một diễn trình rơi vào đường tình

Tác giả kể thêm: hai năm trước Meg, kẻ đi rong vì Chúa Kitô, giới thiệu tác giả trên Facebook với một người bạn của cô tên là Tori. Tori vừa đang biện phân để trở thành nữ tu vừa phục vụ trong Quân đội. Là một trung úy, cô chỉ huy những người đàn ông lớn tuổi hơn cô, nhưng khi cô nói chuyện với tác giả qua Skype từ một căn cứ ở Hàn Quốc, trông cô trẻ hơn 23 tuổi. Bộ dã chiến màu xanh lá cây rộng thùng thình trên thân hình gầy gò của cô, mái tóc nâu nhạt của cô nhuộm vàng ở phía dưới, được vén khỏi khuôn mặt bị cháy nắng trở thành một mái tóc đuôi ngựa mỏng manh. Cô ấy nói “ranh mãnh” khá nhiều, thỉnh thoảng chửi tục và tự gọi mình là một “người nhảy dù siêu lừa đảo!” với một cái nháy mắt và giơ ngón tay cái lên chế giễu. Tác giả cho rằng chỉ nói với cô ta vài phút đủ để nghĩ: Người phụ nữ này mà muốn trở thành một nữ tu sao? Lúc còn ở trường trung học, cô nổi tiếng ham nhẩy, nhẩy như điên, không hạn chế trong các tiệc vui. Cô vẫy xe xin đi quá giang dọc đường, chèo thuyền và giỏi túc cầu đến độ giành được một vị trí trong đội ngũ phát triển chuyên nghiệp. Trên trang Facebook của mình, người ta nhìn thấy những bức ảnh trong đó cô lén xuất hiện (photobombing) giữa một nhóm đang đi trượt tuyết, lè lưỡi trước máy ảnh. Cô luôn cho rằng mình sẽ kết hôn, có con và làm việc như một chuyên gia dinh dưỡng.

Khi tác giả hỏi Tori điều gì đã khiến cô đi trệch hẳn con đường đó để trở thành một nữ tu, toàn bộ thái độ của cô đã thay đổi. Khuôn mặt cô trở nên đỏ hơn, và cô trông gần như e lệ. Cô muốn đọc cho tác giả nghe toàn bộ câu chuyện của cô từ cuốn nhật ký cầu nguyện. Một điều quá quan trọng như thế này không thể thảo luận một cách tùy hứng được.

Vào một buổi chiều kia, khi cô còn là một học sinh cấp ba tại trường trung học toàn nữ, Tori thấy mình bị lôi cuốn đến nhà nguyện. Lúc lớn lên, cô không mấy có tinh thần tôn giáo, và nhà nguyện là nơi cô thường tránh né: nhỏ, tối và im lặng, với những chiếc ghế cầu nguyện cao đến đầu gối khó chịu. Nhưng vào ngày hôm đó, khi cô ngồi cầu nguyện, một ý nghĩ đã xuất hiện với cô, đó là điều bất ngờ nhưng mạnh mẽ đến nỗi cô đứng dậy khỏi chỗ ngồi và thực sự bỏ chạy. Chạy ra khỏi nhà nguyện. Vì sợ quá. Ý nghĩ đó là: phải mặc y phục của một nữ tu sẽ ra sao?

Cô giải thích cô không muốn làm nữ tu. Nhưng trong những năm sau đó, cô không thể xua đuổi thị kiến ấy khỏi đầu óc. Bất cứ ở đâu, trên sân cỏ, lúc mặc những chiếc váy không có quai để khiêu vũ, cô vẫn thấy mình trong chiếc khăn trùm màu đen.

Và rồi một ngày nọ, tại một nhà nguyện trong khuôn viên trường đại học của cô, cô nghe thấy giọng nói của Người.

Tác giả hỏi cô: “giọng nói đó nghe như thế nào?”

Cô trả lời “Không giống như bất cứ điều gì. Tôi chỉ biết đó là Người”. Và sứ điệp của Người rất rõ ràng: “hãy đi rao giảng Tin Mừng”.

Tori đặt cuốn nhật ký cầu nguyện xuống, nhìn lên và bắt đầu cười. Cô nói cô mong câu chuyện này hẳn phải “khùng khùng” đối với tác giả. Cô không quan tâm. Cô giải thích: biện phân đời sống tu trì, là “một diễn trình si tình”.

Tác giả được Tori cho biết hoàn cảnh gia đình. Lúc lên bẩy, cha mẹ cô ly dị. Rất thương cha, nhưng cô phải sống với mẹ và anh trai. Hai anh em sống gần gũi nhau nhưng đến tuổi thiếu niên, anh trai cũng bỏ đi và nói những lời khó nghe như “tôi không yêu hai người!” và bỏ cả đi lễ. Rồi anh gia nhập quân đội. 

Về nhân cách, Tori là người cầu toàn, muốn hoàn hảo trong mọi điều mình làm. Mẹ cô nhiều khi bắt cô phải thư giã nhiều hơn, như coi truyền hình chẳng hạn, nhưng cô hét lại “Con không có thì giờ coi truyền hình!”

Rồi một ngày kia, cô bỗng nói với mẹ sẽ đi Phi Châu, muốn được giúp đỡ những người thiếu dinh dưỡng, muốn được làm việc tại 1 quốc gia đệ tam. Cô hy vọng các tài năng khiêm nhường của cô có thể hữu dụng hơn và được đánh giá nhiều hơn tại những nơi cần đến chúng hơn. 

Và cô cảm thấy lời mời gọi bước vào cuộc sống tu trì ngày một trở nên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, cô vẫn tiếp tục học đại học, ghi danh học các buổi huấn luyện Sĩ Quan Trừ Bị (ROTC= Reserve Officer Training Corps), chơi túc cầu, tham gia một ban nhạc. 

Nhiều lúc cô cảm thấy kiệt lực vì quá nhiều cam kết. Tuy nhiên, cầu nguyện đem lại cho cô một an ủi vô bờ. Sự yên tĩnh mà cầu nguyện mang đến không phải là cái yên tĩnh trong chiếc xe lái trở về sau khi tiễn Adam vào quân ngũ. Đây là một sự yên tĩnh chung chia với một người đồng hành đầy yêu thương, đó chính là Thiên Chúa. 

Có thế nào Thiên Chúa yêu thương ta thế ấy

Năm thứ hai, cô lái xe tám tiếng đồng hồ từ khuôn viên đại học đến một “khóa tĩnh tâm biện phân” tại Ann Arbor, Michigan dành cho hàng trăm phụ nữ trẻ. Một trong những nữ tu đã giảng cho các phụ nữ trẻ này. Bà nói: Một người phụ nữ có đức tin đã rất tuyệt vời rồi. Cô không cần phải chứng minh chi nữa. “Các chị đẹp cả rồi”, bà nói với họ như thế. Thiên Chúa vốn yêu thương họ, yêu cái bản ngã hiện hữu, bất toàn của họ, bởi vì Người đã dựng nên họ như thế. Cách họ không lành lặn (broken) chính là cách Thiên Chúa cố ý muốn họ xuất hiện như không lành lặn, vì các mục đích riêng của Người.

Tori cảm thấy vui vì hiểu ra rằng không phải mọi sự tùy thuộc ở mình. Mình không hoàn toàn chịu trách nhiệm phải trả lời những câu hỏi như, “Sự hiện hữu của tôi có ý nghĩa gì không?” Một đêm kia, trằn trọc không ngủ được, cô trở dậy và ghi vào nhật ký “ngươi được yêu thương vô điều kiện”, sau đó rơi vào một giấc ngủ vùi cô chưa từng thấy.

Tác giả là một phụ nữ Do Thái, nên bà cho rằng các ý niệm như đồng trinh hay cuộc sống độc thân chưa bao giờ xuất hiện ngang qua trí tưởng tượng của bà. Nhưng khi đọc 1 cuốn sách do chính những người phụ nữ tham dự cùng một khóa tĩnh tâm với Tori đưa cho, tức cuốn “And You Are Christ’s” với tiêu đề phụ “The Charism of Virginity and the Celibate Life” của linh mục Thomas Dubay, bà cảm thấy bị đánh động. Trong tác phẩm này, linh mục Dubay viết rằng sống trong xã hội hiện đại, con người dường như hiến mình cho đủ thứ chuyện: nghề nghiệp, giải trrí, người yêu, con cái, mà dường như chẳng ai lưu ý đến cái “ý niệm xúc cảm lao công”. Tuy nhiên, theo cha Dubay, có một người luôn tưởng thưởng các cố gắng của chúng ta: Đó là Chúa Kitô. Người phụ nữ yêu mến Người, người nữ tu, có một ơn gọi xứng đáng với sự hiến thân hoàn toàn của nàng và điều này tôn vinh sự hy sinh của nàng “gấp nhiều lần”, như Thánh Luca nói. Nàng tìm được “niềm đam mê” của nàng. Nàng được “nghỉ ngơi”, “thoả mãn”, “say mê”, “tròn đầy” những điều mà chính tác giả hết sức thèm muốn vì mệt mỏi trước cuộc sống.

Không hẳn "cool" mới ăn tiền

Nhân dịp nói về sách vở, học thuật này, tác giả cho thấy một khía cạnh không ngờ khác của tuổi trẻ ngày nay. Trung học St. Mary Mitch Ryken là một trường trung học Công Giáo ở vùng nông thôn Maryland. Các học sinh năm đầu thường ít lưu ý đến việc chiêm niệm Đấng Thần Linh. Bởi thế, một số linh mục đến trường trình chiếu những cuốn DVD nói về các linh mục “cool” (ta đây sành điệu): biết hát nhạc đại hội, biết nhẩy “hip hop”... Phản ứng bất ngờ là một số học sinh không thích. John Olon, một giáo sư thần học của trường và là người từng mời các tu huynh và tu muội đến nói chuyện về ơn gọi, thuật lại có lần một vị linh mục “nghiêm khắc” hơn (sterner) đến lớp của ông, mình vận áo dài đen với cổ cồn rôma cứng ngắc, phán những lời đại loại: “các anh các chị (trường hỗn hợp cả nam cả nữ) được kêu gọi nên thánh. Các anh các chị được kêu gọi trở thành các vị thánh”. 

Olon thuật lại: “lúc ấy tôi đang ngồi ở bàn làm việc, nhăn mặt” nghĩ “ôi, không phải những đứa trẻ này đâu ạ. Chúng ta nên nói vừa thôi”. Và rồi, “một em, một tay chơi môn lacrosse, rất đặc trưng, dừng lại hỏi tôi, ‘Vị đó có trở lại vào tuần tới hay không?’”

Olon trấn an cậu “ồ, không, đừng lo”.

“Nhưng em muốn vị ấy trở lại”, Olon nhớ y câu nói của người cầu thủ môn lacrosse. Các bạn học khác cũng đồng ý như thế. 

Chính tác giả gặp một học sinh của trường tên Mackenzie, 15 tuổi, đã cảm thấy “không có gì thoả mãn tôi. Tôi đau lòng muốn có một điều gì đó để an định”: từng đợt khát khao được gần gũi một ai đó, bất cứ ai đó, vốn áp đảo cô vượt quá cả tầm kiểm soát của cô, nhưng những hẹn hò vốn thành thói quen giữa đám bạn bè của cô ấy dường như chỉ là một giải pháp trống rỗng.

Thế rồi, năm 16 tuổi, cô học lớp của Olon. Cô yêu cách ông nói về cuộc tìm kiếm nhân đức của các thánh, và cô quyết định chịu phép rửa. Ba năm sau, cô tham gia một chuyến đi hành hương của giáo xứ địa phương đến các địa điểm Công Giáo linh thiêng ở châu Âu. Đến thăm nhà thờ bằng đá cẩm thạch khổng lồ của Đức Mẹ Fátima ở Bồ Đào Nha, Mackenzie không thể không dừng lại nhìn chằm chằm vào nữ tu trung niên trong một tu phục màu xanh xám dẫn đầu chuyến tham quan. “Bà quả có sự thanh thản quanh con người của bà”, Mitch Mackenzie nhớ lại. “Và thứ bình an này. Và niềm vui này. Và nó không hề hời hợt, đúng không? Và tôi như thể muốn nói, ‘Cái quái gì thế này? Làm thế nào ngươi đạt được điều đó? Vì tôi cảm thấy mình cách xa điều đó quá’”. Rồi bỗng nhiên, cô nghĩ, “mình có thể là một nữ tu”. Cô đã lẻn ra ngoài một mình và ngồi trên những bậc thang của nhà thờ và hít thở thật sâu.

Mấy năm sau, tác giả gặp lại Mackenzie tại một tiệm bánh kếp (pancake) ngay bên ngoài Washington D.C. Lúc ấy, cô bắt đầu tình nguyện với dòng của Mẹ Teresa, Dòng Truyền giáo Bác ái. Cô rất hạnh phúc. Cô nói với tác giả rằng cuối cùng cô đã tìm được điều cô từng tìm kiếm suốt tuổi trẻ của mình. Cô yêu việc các nữ tu “sống các lời khấn của họ một cách triệt để”. Họ làm việc chăm chỉ hơn hầu hết mọi người cô từng gặp, và họ không sở hữu gì ngoài tu phục của họ. Họ tắm từ xô nước. Họ rõ ràng chấp nhận điều đó, vì họ tin rằng “người phối ngẫu của họ là Chúa”. Họ tin chắc Người có kế hoạch dành cho họ.

Con người thời đại vẫn khao khát tôn giáo

Nhân dịp này, tác giả quay vào chính mình. Bà bảo: lúc còn là 1 thiếu niên, cha của bà, một nhà học thuật chuyên nghiên cứu Friedrich Nietzsche. Cụ cho rằng ngay lúc bà còn sống, thế giới này, nhất là Hoa Kỳ, sẽ quay trở về với các hình thức tôn giáo bảo thủ và vụ luân lý hơn. 

Một nhà tâm lý trị liệu ở Oregon, Satya Doyle Byock, nói với tác giả rằng “chúng ta được dưỡng dục trong một nền văn hóa định lượng (quantitative) với các mục tiêu định lượng”. Bà vốn làm việc với những người trẻ tin rằng xã hội đã dành cho họ mọi dụng cụ, mọi kỹ thuật và khoa học cần thiết để xây dựng một cuộc sống lý tưởng. Nhưng họ vẫn cảm thấy thất bại. Và họ cảm thấy xấu hổ vì đã cảm thấy như thế, và do đó họ bị mắc kẹt trong một cái cũi kép chắc như sắt. Việc tuyên bố rằng tất cả mọi điều đều có thể đạt được có xu hướng đào cả một hố sâu đau buồn nơi con người vì nó ngụ ý nói rằng bất cứ vấn đề nào chúng ta gặp phải đều là kết quả của việc chúng ta tính toán sai lầm. 

Tác giả nhận định rằng theo Nietzsche, xã hội phương Tây đã giết chết Thiên Chúa, thay thế Người bằng chính chúng ta. Nhưng ông tri nhận: dưới đó, vẫn âm ỉ một lòng khao khát đối với tôn giáo. Vì các hữu thể vô hình, những đấng đặt tiêu chuẩn cho chúng ta và sự hoàn hảo của các ngài - và sự quan tâm của các ngài đối với chúng ta bất kể các thiếu sót của chúng ta - đã giải tỏa nhu cầu chúng ta phải luôn luôn kiểm soát mình.

Tác giả cho rằng Hoa Kỳ khởi đầu bằng một câu truyện tôn giáo, một kinh thành trên đồi. Đối với tuổi trẻ, xã hội này vẫn là một xã hội đang cố gắng nắm bắt tôn giáo và họ nhìn thấy điều đó ở khắp nơi.

Nước Mỹ bắt đầu với một câu chuyện kể về tôn giáo, thành phố trên một ngọn đồi và một khi bạn hình dung về nó, vẫn như một xã hội nắm bắt tôn giáo, bạn sẽ thấy nó ở khắp mọi nơi. Cơn thịnh nộ đạo đức đụng đâu đánh đó (free-floating moral rage), nhắm vào các mục tiêu như những anh chàng dại gái (cucks) hay danh hài Aziz Ansari hoặc các chính trị gia phe tả (libtards) hoặc những người cuồng tín MAGA (Make America Great Again = Hãy Làm Nước Mỹ Vĩ Đại Một Lân Nữa). Khi nói đến khí hậu hoặc sự mất mát các giá trị của chúng ta, niềm xác tín cho rằng thế giới chắc chắn sẽ bị hủy hoại vì tội lỗi của chúng ta. Những thứ như Goop (công ty sức khỏe tự nhiên do nữ tài tử Gwyneth Paltrow sở hữu) và phong trào không dùng gluten trong căn bản là các tôn giáo thẳng thừng, hứa hẹn đổi mới tinh thần và chữa lành mọi bệnh tật, chỉ có điều coi trái trứng bằng ngọc bích (jade yoni egg) như Bí tích Thánh Thể. Chúng ta bị ám ảnh bởi chủ nghĩa tối giản (minimalism) và tự thanh tẩy, bất kể bằng các phương pháp của Marie Kondo (nhà siêu tổ chức ngăn nắp) hoặc Hộp thư trống không (Inbox Zero=phương thức nghiêm ngặt giữ cho hộp e-mail lúc nào cũng trống không) hay Jordan Peterson, người mà sự nổi tiếng ít dựa vào việc hiểu biết về Carl Jung hoặc về sinh học tôm hùm cho bằng vào ý tưởng cho rằng cuộc sống chỉ cần tới 12 quy tắc hay giới răn.

Thích bàn thờ sơn son thiếp vàng

Nhìn chung, các tôn giáo có tổ chức ở Mỹ vẫn đang mất dần các thành viên. Nhưng xem ra những người trẻ nào tìm kiếm tôn giáo đều bị lôi cuốn vào một hình thức tôn giáo nghiêm ngặt hơn, theo lối cũ hơn. Do Thái giáo chính thống đang trở nên phổ biến với giới trẻ Mỹ ngày nay hơn các giáo phái Do Thái tự do khác. Phần lớn người Mỹ gốc Do Thái thuộc phái cải cách hoặc bảo thủ đều trên 50 tuổi, trong khi đa số người Do Thái Chính thống ở đây đều dưới 40. Không phải chỉ vì gia đình Do Thái Chính thống đông con hơn. Tỷ lệ ở lại và trở lại Do Thái giáo chính thống cao hơn nhiều so với hai thập niên trước đây. Các thành viên của các giáo phái Thệ Phản “cấp tiến” như giáo phái Luthêrô đang già đi nhanh chóng trong khi các hệ phái Kitô giáo chuộng tín điều hơn như giáo phái Báptít, các Kitô hữu Chính thống, có các tín hữu trẻ hơn. Một nghiên cứu đáng lưu ý cho thấy: lớp tuổi Thiên niên kỷ (Millennials), dù là Thệ Phản hay vô thần, đã bị thu hút bởi các Giáo Hội có những bàn thờ mạ vàng kiểu xưa và phong cách thờ phượng cổ điển hơn các kiểu hiện đại. Người Mỹ trẻ tuổi thường có sác xuất nhiều hơn những người cao niên của họ tin vào các yếu tố cốt lõi của niềm tin tôn giáo truyền thống như thiên đàng và hỏa ngục, phép lạ và thiên thần, và những người trẻ tuổi có tôn giáo có nhiều sác xuất hơn những người lớn tuổi trong việc khẳng định rằng đức tin của họ là “con đường duy nhất thực sự dẫn đến sự sống vĩnh cửu”.

Các nhà thăm dò dư luận cũng đã quan sát thấy rằng những người trẻ tuổi ở Mỹ có vẻ cởi mở hơn cha mẹ hoặc ông bà của họ đối với chủ nghĩa độc đoán, như thể họ có một mong muốn tiềm ẩn muốn được cai trị, để được nhẹ nhõm. Năm 2016, gần một phần tư thanh niên Mỹ nói với các nhà nghiên cứu của Harvard rằng dân chủ là điều “xấu” đối với đất nước - năm 1995, chỉ có khoảng 10 phần trăm thanh niên nói điều đó - và họ nhất quán có nhiều sác xuất hơn những người lớn tuổi hơn họ nói nhà kỹ trị hoặc các nhà lãnh đạo mạnh mẽ nên điều hành nước Mỹ, ngay cả khi điều đó có nghĩa là loại bỏ các cuộc bầu cử. Bạn của tác giả tên Josh, một người mới trở lại Công Giáo, nói với bà rằng anh ta bị lôi kéo vào Giáo Hội chính vì Giáo Hội không “tổ chức bỏ phiếu để xác định sự thật”.

Một số người cho tác giả hay nói rằng người Mỹ sẽ trở nên tôn giáo hơn là điều không đúng sự thật. Họ trích dẫn các cuộc thăm dò cho thấy Thế hệ Z là thế hệ ít tín điều và vô thần nhất từ trước đến nay. Nhưng sự thật là rất khó hiểu người trẻ Mỹ. Bạn có thể tìm thấy các cuộc thăm dò và câu chuyện tin tức cho thấy họ có mềm dẻo hơn về phái tính, nhiều cam kết hơn đối với các vai trò phái tính truyền thống, nổi loạn hơn, câu nệ hơn và đạo đức hơn về ma túy và tình dục, tốt hơn với tiền bạc, lười biếng hơn. Điều này có thể phản ánh các mâu thuẫn nội tâm, loại mâu thuẫn khiến một số phụ nữ trẻ mà tác giả hân hạnh được gặp đi tìm một câu trả lời đơn giản hơn.

Có người trẻ cho tác giả hay: cô từng đưa ra một loạt quyết định, đôi khi được những vị cao niên hay bạn bè khuyến khích, nhưng khi cô vừa cảm thấy thoải mái trong đó, thì một biến cố nào đó đến làm cô khựng lại, làm cô nôn mửa, rồi lại phải bắt đầu làm lại...

Trở lại với Tori. Tác giả cho hay năm ngoái, Tori được chẩn đoán mắc chứng động kinh và được giải ngũ sớm. Cô coi việc chẩn đoán này như một dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn cô di chuyển nhanh hơn, và trong vài tháng, cô chuyển đến “một nhà biện phân” gần thành phố Kansas được thành lập cho những phụ nữ trẻ muốn biết làm một nữ tu là như thế nào. Được tài trợ bởi các giáo phận Công Giáo khắp nước, những nhà này thường là bước đầu tiên trước khi chính thức bước vào một cộng đồng tu trì. Tại Gratia Plena, nhà biện phân của Tori, các phụ nữ trẻ sống gần như không có tài sản có trước nào, bốn phòng ngủ, hai người nằm trên một chiếc giường đôi. Họ làm những việc thường ngày trong khi dành thời gian với các nữ tu vào ban đêm.

Tori đang xem xét dòng Phanxicô, là các cộng đồng khó khăn trong đó, các nữ tu hàng ngày phải đọc một loạt những lời cầu nguyện kéo dài hàng giờ. Khi họ không tôn thờ Chúa Kitô, các nữ tu thường lau chùi tu viện, phục vụ người nghèo bằng cách làm việc tại bếp nấu súp hoặc bệnh viện, chuẩn bị bữa ăn – các bữa tối có thể là hai lát bánh mì, phô mai, trái cây và một tách trà lúa mạch, hoặc chơi các trò chơi với nhau. Thánh Phanxicô thành Assisi, Thánh Quan thầy của họ, đã tận hiến sống khó nghèo đến nỗi đôi khi ngài cho hết tài sản và chỉ sống bằng củ cải; còn các nữ tu Phanxicô thì mặc những chiếc áo chùng thắt bằng sợi dây, gọi là “dây lưng người nghèo”. 

Tori nói với tác giả: “tôi rất phấn khích. Tôi hết sức mong mỏi điều này. Tôi không muốn gì hơn là thoát khỏi mọi thứ”.

Đức vâng lời mới khó khăn 

Tác giả tự hỏi liệu các nữ tu lớn tuổi hơn Tori có trải nghiệm cuộc sống giống như Tori không. Nên bà đã tìm gặp các vị này, những vị đã dành nhiều năm làm nữ tu Công Giáo, một số vị đã cả một phần tư thế kỷ nay. Họ háo hức muốn nói - ít nói về mối quan hệ của họ với Đấng thần thiêng hơn là về những thăng trầm hàng ngày của thân phận nữ tu.

Những người đàn bà trên nhấn mạnh họ vốn không sẵn sàng trong việc chuyển tiếp từ “cuộc sống bình thường” của họ. Dì Mary Jo Curtsinger, quê ở Chicago, nhớ lại: “Tôi nhớ không phải đi mua thức ăn cho mình vì một chị khác đã làm “chị tạp hóa” rồi. Bà chưa bao giờ thực sự nhận ra mình đã thìch hành động nhỏ bé, tự lập đến mức nào khi đi siêu thị một mình: “tôi muốn nhìn mọi thứ và quyết định điều mình muốn”. Nữ tu Patrice Colletti, ở Nam Dakota, nói với tác giả rằng bà nhận được một khoản trợ cấp khoảng 85 đô la một tháng cho các nhu yếu phẩm: vớ, giày, dầu gội, kem đánh răng, hoặc một vài chuyến đi xem phim ảnh. Còn muốn theo đuổi một hoạt động tự phát triển như yoga, bà phải giải thích trong một bài luận ngắn với cấp trên về việc nó mang lại lợi ích như thế nào cho bà: “Tôi đã tham dự một chương trình sống đúng mốt (nifty) với giá 110 đô la và chi 10 đô la cho một tấm thảm yoga”. Lớp học rất tốt và bà tiếp tục tập yoga hàng đêm sau khi lớp học đã kết thúc.

Mary Gautier, một giám đốc nghiên cứu của Georgetown về đời sống Công Giáo, nói rằng “Một điều tôi được nghe đi nghe lại từ các nữ tu lớn tuổi là sống độc thân là lời khấn dễ giữ. Lời khấn khó giữ chính là đức vâng lời”. Có nhiều lớp lang trong phẩm trật: Những người phụ nữ được bầu làm “bề trên” có quyền gây ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Các bề trên này có thể chỉ định bạn được đào tạo lại để trở thành một y tá dù bạn đã có bằng luật hoặc chuyển bạn từ thành phố này sang thành phố khác. Khi các thành viên trong gia đình của Nữ Tu Patrice góp tiền mua cho bà một chiếc xe đạp mới, bà được yêu cầu hỏi bề trên tỉnh xem mình có thể nhận nó hay không. Dì Susan Francois kể với tác giả rằng dì phải xin phép để tham dự đám cưới anh trai của dì. Trước khi trở thành nữ tu, dì từng là nhân viên bầu cử của Portland, Oregon. Khi bắt đầu làm nữ tu, dì hầu như không yêu cầu bất cứ điều gì cả, vì thật là nhức nhối khi phải nghe những lời nói trẻ con phát ra từ cửa miệng mình: “dạ thưa, con mua cà rem được không ạ?”

Trong mỗi cộng đồng cá thể, có một cam kết đối với việc ra quyết định của nhóm, một việc rất sôi nổi. Nhà dòng của Dì Patrice Order tổ chức các cuộc họp kéo dài để “biện phân” các lựa chọn, thí dụ như việc phải lựa nhãn hiệu giấy vệ sinh nào các nữ tu nên sử dụng. Dì nhận xét “Sau vài năm sống như một người phụ nữ độc thân, sống độc lập, tự cung tự cấp, một người tự sửa lấy xe, tự lắp ráp chiếc xe đạp của mình, làm việc trong một nghề nghiệp mình yêu thích và có một lô bạn bè và người quen”, Dì bước vào điều Dì mô tả như một sự kết hợp “của một ký túc xá đại học mà không có tiệc tùng vui chơi”, một phòng giam giữ bồi thẩm đoàn và một phiên tòa – của chính Dì. Dì giải thích: một phần của việc tham gia một cộng đồng tu trì là việc bị các nữ tu hiện tại phán kết mình có “xứng hợp” không. Dì nói: “Chị hãy tưởng tượng là 24 giờ /7 ngày /365 ngày phải tham gia vào một cuộc đánh giá hiệu suất không chỉ về công việc chị làm, mà về toàn bộ cuộc sống của chị”.

Điều giúp nhiều phụ nữ này, ngay từ đầu, là sức mạnh ơn gọi của họ. Với thời gian, họ cho hay: cuối cùng họ đã tiến đến chỗ xem các khía cạnh xuơng xẩu, phàm nhân của việc làm một nữ tu như một phước lành to lớn. Cộng đồng của Dì Patrice trở nên giống như gia đình, hỗ trợ dì vượt qua sự đau khổ do cái chết của mẹ dì mang lại. Dì Susan thấy mình xúc động bất ngờ lúc mừng kỷ niệm 80 năm sống với dòng của một nữ tu. Vị nữ tu cao niên này thực sự sống ở Anh và dì Susan chỉ mới gặp vị ấy một lần trước đây, nhưng vì vị ấy thuộc dòng của dì, nên dì cảm thấy như một người thân yêu. Dì Susan nhớ lại “Khuôn mặt của bà sáng lên khi nhìn thấy tôi”.

Khi tác giả hỏi dì Mary Jo xem dì có tin một ai đó có thể thoát ra khỏi các bất an và đau lòng của thế giới phàm tục khi trở thành một nữ tu hay không, Dì chỉ cười. Cuộc sống tu trì không phải là một lối thoát khỏi thế giới chi đâu. Dì thấy Giáo Hội tương tự như các định chế to lớn khác - như nuớc Anh, mới đảo điên vì Brexit – theo nghĩa cũng phải đối mặt với cùng nỗi lo lắng xao xuyến, tranh luận và thăng trầm nội bộ mà mọi bến lành an toàn về lý thuyết ở mọi nơi trên trái đất đều phải kinh qua. Dì nói với tác giả một cách thẳng thừng “Tôi có cảm thấy an toàn không? An ninh không? Không. An ninh lớn nhất của tôi nằm trong tình yêu của Thiên Chúa, nhưng tôi không biết [dòng của tôi] sẽ như thế nào trong 15 năm tới” - dù Dì tin chắc nó sẽ thực hiện cam kết ‘yêu thương người lân cận của mình”. Khi Dì có tuổi, và những người mới tham gia đã đạt được cân bằng về con số trong cộng đồng của Dì, họ có thể chọn dẫn đưa nó - và cả Dì nữa - theo một hướng hoàn toàn khác.

Dì Patrice cũng đã trải qua những khủng hoảng về đức tin. Dì được phân công dạy tại một trường trung học trong một khu của người Mỹ bản địa bị tàn phá bởi nạn thiếu niên tự tử, buộc Dì phải đối đầu gay gắt với các giới hạn của sức mạnh Thiên Chúa và của chính dì. Và sau khi bị thương cột sống dẫn đến chứng đau dây thần kinh liên tục, vẫn đang ngăn trở bước đi của dì, dì rơi vào trầm cảm sâu xa đến nỗi, dì viết cho tác giả, dì cảm thấy “khá chắc chắn mình muốn 'thoát khỏi' mọi thứ, không chỉ là việc làm nữ tu”. Nay, Dì cảm thấy đức tin của mình ngày càng sâu sắc, bén rễ sâu xa hơn trong cảm thức thấy Thiên Chúa muốn dì trân quí “cuộc sống thực tế” với mọi thú vui và khó khăn của nó. Việc giáp mặt này là một phần trong “ơn cứu rỗi của Người”. Dì nói, Dì không quan tâm đến việc “không bao giờ có những đoàn thiên thần ca hát” lúc dì cầu nguyện, hay những ngọn nến đạo hạnh bỗng sáng lên.

Không phải chỉ do xúc cảm

Một năm sau khi gặp Mackenzie, người thiếu nữ ở Maryland, người đã thực tập với Dòng của Mẹ Teresa, tác giả gọi cho cô để kiểm tra tiến trình tu trì của cô. À, về điều này, cô cho hay. Cô đã tham dự một khóa tĩnh tâm biện phân, trong đo, cô nói với một trong các nữ tu rằng cô muốn nhập dòng ngay tức khắc. Cô nói với một phụ nữ lớn tuổi hơn “con biết đây là điều con muốn làm. Hãy ban cho con tu phục ngay bây giờ”. Vị nữ tu khuyên cô từ từ thôi. Mackenzie nhớ lại, “Vị ấy nói rằng tôi cần phải cầu nguyện nhiều hơn và dành vài năm cho việc ấy” vì đây là một sự lựa chọn thực sự lớn lao. “Thoạt đầu, tôi rất buồn. Tôi muốn một phần trong cuộc đấu tranh của tôi sớm kết thúc. Nếu bố chị hoặc bất cứ ai bảo chị tạm hoãn, chị hẳn sẽ không nghe. Nhưng vì lý do nào đó, khi một nữ tu nói với chị điều gì đó, chị như thể, OK. Thế là, tôi đã chờ”.

Cô trở về Ave Maria, trường đại học của cô ở Florida, một khuôn viên tôn giáo nhấn mạnh việc cầu nguyện hàng ngày. Cô định bám lấy con đường biện phân, nhưng một ngày nọ, vào đầu năm học, một cậu trai đặt khay nhựa của cậu xuống cạnh cô trong phòng ăn. anh thú nhận Anh vốn đã để mắt đến cô quanh khuôn viên trường từ lâu.

Cô nói “Chúng tôi nối kết ngay. Chúng tôi có mối liên kết này, một điều tôi không nghĩ chị có thể kiểm soát được”. Họ nói giỡn với nhau. Họ nghe nhạc và nói về mối quan tâm của họ đối với thần học. Chàng trai là một anh chàng nghiêm túc, lên lịch trình nói chuyện để hàn huyên về các cảm xúc của họ, và điều làm cô ngạc nhiên là cô hết sức yêu thích việc này. Cô không biết một con người nhân bản nào lại có thể có ý hướng đến thế, một phẩm chất mà cô chủ yếu gán cho Thiên Chúa. Chẳng mấy chốc, họ quyết định hẹn hò nhau.

Cô lo lắng: Liệu đây có phải là một mối liên hệ quá rối rắm hay không? Còn việc biện phân của cô thì sao? Cô cũng cảm thấy thường hay thất vọng ở người bạn trai. Thỉnh thoảng “chàng lại nói những điều tôi muốn chàng nói đúng lúc. Và chàng lại thẳng thừng, gần như là một lỗi lầm”. Khi cô và bạn trai cãi nhau, cô không biết chắc chắn chàng có quay trở lại hay không. Điều đó làm cô điếng hồn. Nhưng lúc riêng tư, cô bắt đầu cảm thấy ấm áp trước bí ẩn yêu một con người cũng có các thương tích và khuyết điểm như mình. Cô đã trải nghiệm niềm vui trong lòng không hẳn là bất chấp các bất trắc, nhưng chính vì những bất trắc này. 

Sau khi mô tả vẻ đẹp của mối liên hệ ấy trong 20 phút, Mackenzie báo tin ngay rằng cô và bạn trai của cô gần đây đã chia tay nhau. Cô nói cô đã giật mình thấy mình đã nghĩ về mối liên hệ ấy cách quá tích cực. Cô thừa nhận cô thực sự đau lòng. “Nhưng sau khi tôi có mối liên hệ này với người này, mặc dù chúng tôi đã chia tay nhau, và chia tay thật khó khăn, niềm mong muốn kết hôn vẫn còn ở lại. Cái lòng mong muốn được yêu ấy. Nó giống như thể, ‘chà, tôi muốn điều này. Tôi muốn có một gia đình’”. Cô không còn lưu ý tới các dòng tu nữa. Cô vừa nói vừa cười qua đường dây điện thoại: Dù vẫn còn yêu mến Thiên Chúa, cô tìm thấy “sự phấn khích” bất ngờ trong việc giữ được niềm hy vọng tìm thấy một điều trần tục và bất toàn. Cô hỏi tác giả “Há đây không phải là một loại đức tin điên khùng hơn hay sao, theo cái lối suy nghĩ lạ đời này?”

Mặc cả trước một quyết định mênh mông

Một số lần trong suốt các cuộc gặp gỡ của tác giả với Tori, bà nghĩ bà nghe thấy một dấu hiệu lo lắng trong giọng nói của Tori trước sự mênh mông trong những gì cô dự tính. Ngày tác giả gặp cô và Rachael, người bạn cũng rất thông minh của Tori, nhưng lận đận đường tình, có lúc muốn đi tu “vì hận” nhưng lại thôi và tiếp tục hy vọng tìm được người tình lý tưởng, Tori sắp đi làm tóc như đã hẹn. “Dĩ nhiên do tính phù phiếm của mình, nhưng điều tôi không mong muốn chút nào là từ bỏ mái tóc của tôi”, Tori nói thế. Một số dòng tu cô đang cân nhắc đòi các nữ tu của họ cạo trọc đầu. Và mặc dù cô cho tác giả hay cô sẵn sàng chấp nhận ý tưởng từ bỏ một người chồng và những đứa con – “tôi không còn có cùng mong muốn có gia đình như tôi quen có trước đây” - cô thú nhận, cô vẫn cảm thấy nhói tim khi nhìn thấy các bé thơ.

Sau khi cảm thấy Chúa gọi vào đời tu trì, Tori xin Người hai điều. Cô cầu nguyện “Lạy Chúa, khi Chúa cầu hôn, con xin Chúa làm cho con yêu Chúa mê mệt và trọn vẹn”. Cô muốn Chúa gửi cho cô một dấu hiệu cuối cùng, cho thấy trở thành một nữ tu là điều cô nên làm với cuộc sống của cô...

Cô cũng yêu cầu được gặp người bạn trai lý tưởng trước khi bước vào đời tu. Cô muốn cảm thấy chắc chắn rằng mình không cam kết vì những lý do mà Rachael đã có, cô đơn và hận đời. Cô cầu nguyện “Lạy Chúa, Chúa có thể vui lòng trước nhất ban cho con người đàn ông hoàn hảo được không? Con sẽ không bao giờ còn nghi ngờ nữa”.

Tuy nhiên, sau đó, cô đã rút lại yêu cầu đó. Cô đã không tìm được người đàn ông hoàn hảo, nhưng cô nhận ra rằng cô “hoàn toàn ích kỷ” khi đặt bất cứ điều kiện tiên quyết nào lên việc tận hiến cho Thiên Chúa. Nếu chị mong đợi Người yêu chị vô điều kiện, thì chị cũng phải yêu kế hoạch của Người dành cho chị không cần bất cứ điều kiện nào.

Điều nghịch lý là, khi đã trở nên cứng cáp hơn trong việc biện phân của mình, những người bạn của Tori bắt đầu tìm tới cô để xin lời khuyên về liên hệ. Là nữ tu sĩ tương lai, thế mà cô lại có thể trình bầy các sứ điệp duy nữ nhất về tình yêu, với rất ít cảnh giác. Về các bạn trai của họ, bạn bè của cô thường hỏi: “chị có nghĩ việc anh ta làm là vô lý không?” Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ bỏ rơi một anh chàng có vấn đề và sau đó không tìm được một người nào khác? Điều gì sẽ xảy ra nếu chấp nhận những điều không hợp lý là một phần của việc làm người trưởng thành? Các câu trả lời của Tori lên sức mạnh cho họ. Cách các bạn trai đôi khi đối xử với họ thường vô lý và không hợp tình hợp lý. Cô biết tình yêu vô điều kiện giả thiết phải như thế nào.

Tất nhiên, câu hỏi khó trả lời vẫn còn đó: Người yêu của Tori có thực sự ở đó không? Hay Người cũng chỉ là một phiên bản khác của người tình thơ mộng (bae) giả tưởng, được hỗ trợ bởi một định chế đáng nể với một lịch sử lâu dài? Đôi khi điều xem ra như một cách giải quyết vấn đề thực sự lại có thể tăng bội vấn đề ấy, và đôi khi tác giả tự hỏi liệu những phụ nữ trẻ mà bà nói chuyện với có muốn trở thành nữ tu hay không vì họ nhận ra sự bất lực tự mình xây dựng cuộc sống hoàn hảo của mình - hoặc có phải ta vốn không có cách nào triệt để hơn để nhắm đến sự hoàn hảo đó. Dù chúng ta rất nhỏ bé trong tầm mắt của Thiên Chúa, nhưng việc chấp nhận ý tưởng cho rằng Người cầm chịch chương trình không có nghĩa là những gì chúng ta làm đều là một sự lãng phí thời gian không thể cứu vãn.

Khoảng cuối buổi chiều tác giả nói chuyện với Tori và Rachael, một người bạn khác của họ, người có tên là Natalie, ghé qua. Rachael nhân dịp này nói với Natalie về một người bạn trai mới tuyệt vời, đó là người anh trai Adam của Tori, người đã sưởi ấm lại mối liên hệ thân thiết với Tori. Tori đã sắp xếp cho hai người. Ở hành lang, Natalie reo lên và vỗ tay. "Ôi trời ơi! Chị có hạnh phúc không?"
Rachael nói một cách đồng loã “Chúng tôi rất hạnh phúc”, và vội vàng chạy tới Natalie để khoe các tấm hình chụp hai người trên điện thoại.

Natalie nhận xét: “Chị trông thật xinh đẹp”.

Tori, tha thẩn ở bàn nhà bếp, nói đùa với tác giả rằng đôi khi cô ước ao có thể đăng hình Chúa Giêsu, người yêu dấu của mình lên Facebook như cách bạn bè của cô kỷ niệm mối liên hệ của họ. Cô nói với tác giả: “Tôi không muốn mang máy ảnh vào cung thánh giáo đường. Nhưng đôi khi tôi như muốn nói, ‘Nhìn kìa! Nhìn vị hôn thê đẹp trai của tôi kìa’”.

Cô lớn tiếng nói với các bạn. Cô bảo “Bạn trai của tôi đã viết cho tôi bức thư tình tuyệt nhất. Cả một cuốn sách. Kinh thánh đó”. Hai cô gái kia cười chiếu lệ, rồi quay lại xem các bức hình của Rachael.

Tori phải từ bỏ rất nhiều để trở thành một nữ tu. Cô nói khi lái xe trở về nhà mẹ “Tôi phải công nhận rằng đây không phải là một việc chuyển tiếp dễ dàng. Đây là một việc chuyển tiếp khó khăn, nhưng là một chuyển tiếp tôi sẵn sàng chấp nhận”. Giọng nói của cô ấy rất rõ ràng từng tiếng và cô chằm chằm nhìn về phía trước, gần như thể đang nhấn mạnh một lời khấn hứa với chính mình.

Trước đây một tháng, tác giả gửi email cho Tori để hỏi xem sự việc diễn tiến ra sao tại nhà biện phân ở Kansas. Cô nói với tác giả đã thực sự bỏ nhà đó. Cô nói rằng trải nghiệm ở đó có những “khoảnh khắc khó khăn và những khoảnh khắc vui tươi”. Nhưng cô vẫn còn cần nhiều sự rõ ràng hơn nữa về tương lai của mình. Vì vậy, cô đã cất đồ đạc của mình vào kho và lên đường từ Núi Katahdin ở Maine để đi quá giang xe dọc Đường mòn Appalachian. Ở đấy, sẽ chỉ có cô, thiên nhiên và Thiên Chúa.

Lần đầu khi nghe kế hoạch đó, một ngày trước khi cô ấy lên đường, tác giả khá giật mình. Sự tiến triển của cô ấy đối với việc trở thành một nữ tu đã rất kiên định. Nhưng rồi, khi tác giả nghĩ nhiều hơn về nó, bà thấy đó dường như cũng là sự lựa chọn hoàn hảo đối với người phụ nữ mà tác giả có dịp quen biết – vừa nhất quyết trèo cao hơn để tìm kiếm vị Thiên Chúa mà cô yêu thương, vừa không chắc chắn.

Vũ Văn An

(1)
xem https://www.latimes.com/health/la-he-millennials-religion-zodiac-tarot-crystals-astrology-20190710-story.html
(2) (https://www.huffpost.com/highline/article/millennial-nuns/July 11, 2019)