Hạnh Linh Mục Gioan ĐOÀN VIẾT ĐẠT (1765-1798)

06/11/2018
3916
 
http://giaophanthanhhoa.org/uploads/imgnews/1321802979.jpg
“Tôi không sợ chết đâu, mặc dù có lúc con người tôi cũng tiếc vì phải chết;
nhưng tôi ao ước được làm trọn Thánh ý  Chúa”.

 
Cha thánh Gioan Đoàn Viết Đạt, sinh năm 1765 tại làng Khê Cầu, xứ Trung Lương (cũng gọi là xứ Đồng Chuối), huyện Bình Lục, tỉnh Thanh Hóa. Mồ côi cha từ nhỏ, được mẹ gửi vào ở với cha Loan, xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, được vào học tại chủng viện, sau đó đi giúp xứ một thời gian.

Tháng 04/1798, thầy Gioan thụ phong linh mục và được sai đến hai giáo xứ Hảo Nho, Thần Phù để làm mục vụ. Trong thời gian ở đây, cha Gioan đã thể hiện tinh thần mục tử cách sốt sắng. Thừa sai Le Roy Lan – cha Chính địa phận Tây Đàng Ngoài đã nhận xét : "Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức vâng phục và thanh bần. Cha luôn chu toàn bổn phận nên Đức Cha và các thừa sai đều quí mến. Lời cha giảng có sức thuyết phục và cảm hóa lòng người".

Mới thi hành tác vụ linh mục được một thời gian ngắn, vua Cảnh Thịnh ra lệnh bắt đạo gắt gao hơn trước. Quan trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng khắp nơi. Cha Đạt phải trốn lên rừng, nhưng vẫn thường lén về để thăm nom giáo dân và ban các Bí tích...

Một hôm, có người ở xứ Thần Phù qua đời, cha về dâng lễ an táng tại tư gia. Vừa xong mọi sự, thì bị quan quân bao vây, ập vào truy bắt, giáo dân chỉ kịp đưa cha ra sau nhà đi trốn, quên cả dọn chén thánh và đồ lễ. Với bằng chứng còn đấy, nhưng không thấy đạo trưởng đâu, quân lính đã tra tấn chủ nhà, ông trùm Mới và một số giáo dân. Không cầm lòng khi thấy con cái của mình chịu khổ, cha Đạt đã ra trình diện và tự nhận : "Vẫn biết là tôi có thể trốn thoát được, nhưng như thế anh chị em còn phải đau khổ nhiều".

Quân lính trói cha, đánh đạp tàn nhẫn cùng với thầy Tâm và ba người trong hàng quí chức giáo xứ. Các giáo hữu lúc ấy, cậy đông người định dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha biết ý, ngăn họ lại: "Cứ để tôi vâng theo thánh ý Chúa, anh chị em ở lại bình an, kiên trung giữ đạo và nhớ cầu nguyện cho tôi được vững đức tin tới cùng".

Trên đường áp giải về Thanh Hóa, khi đi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người thương cầm nón đưa cho cha đội, vì đi giữa trời nắng nóng, nhưng lính giật và vứt đi.

Hai tháng ở nhà từ Đình Đang, cha đã làm cho mọi người bỡ ngỡ, vì thấy trong hoàn cảnh ấy mà cha vẫn bình tĩnh, vui vẻ và độ lượng. Các giáo hữu đến thăm, thương khóc lóc, ưu sầu, cha khích lệ họ "tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người, nếu được phúc tử đạo, tôi mừng lắm". Ông Thiềng – cai ngục, tỏ lòng quý mến cha đã nói : "tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa lắm, ngặt vì cụ bị kết án tử rồi. Nên khi chết tôi sẽ biếu cụ một cỗ quan tài để tỏ lòng tôn quý mến cụ". Một thiếu phụ lòng ngay đưa cho cha một chai độc dược để kết liễu cuộc đời khổ đau trong tù ngục. Cha từ chối và giải thích : "Người Công Giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không chấp nhận việc tự tử".

Trong thời gian ở tù, quan quân đã áp dụng nhiều hình thức tra tấn dã man, bị ép bỏ đạo, bắt bước qua Thánh Giá nhưng đều thất bại. Ông Hoàng Đệ Nguyễn Quang Thùy, em vua Cảnh Thịnh, có hôm ông yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống cầm lấy ảnh và hôn kính cách sốt sắng.

Trung tuần tháng 10, Nguyễn Quang Thùy đưa cha ra công đường tuyên án tử. Ông tưởng nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ cha lại tỏ ra hân hoan khác thường thì khen "thầy ở tuổi đang xuân mà can đảm hơn đại tướng quân. Thầy thật xứng đáng là thầy dậy dân". Về trại giam cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin mừng đến với cha. Cha Huấn xứ Bạch Bát giả làm cụ đồ đến thăm bạn cũ, nhờ thế Cha Đạt được lãnh nhận bí tích hòa giải và chịu Mình Thánh Chúa.

Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ mưa như trút. Cha Đạt, cổ đeo gông nặng trĩu, phải theo lính dưới cơn mưa tầm tã tiến ra pháp trường Chợ Rạ. Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa để đón tiếp ngài. Trước khi chịu hành hình, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện cách sốt sắng. Khi các quan cho phép, tín hữu ùa đến bên cha để lãnh phép lành cuối cùng. Cha khuyên họ: "Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa".

Một hồi chiêng nổi lên, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can đảm. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28.10.1798, khi đó cha Đạt mới 33 tuổi, chưa đầy một năm phục vụ trong thiên chức linh mục.

Đời sống cha Thánh Gioan là mẫu gương sáng ngời về tình yêu. Yêu lý tưởng, cha hiến thân tu hành ; yêu anh em, cha tự nguyện nộp mình ; và yêu Thiên Chúa, cha hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài cha Thánh được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Gioan Đạt lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900 và ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.