THƯ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II GỬI PHỤ NỮ

09/03/2025
19
Header


THƯ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II GỬI PHỤ NỮ



WHĐ (08/3/2025) - Ngày 29 tháng 6 năm 1995, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có một bức thư gửi đến chị em phụ nữ trên toàn thế giới. Sau đây là toàn văn Việt ngữ bức thư của ngài.

 

THƯ CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỬI PHỤ NỮ

Chị em phụ nữ trên toàn thế giới rất thân mến!

1. Tôi viết thư này cho từng người trong chị em như một dấu chỉ chia sẻ và biết ơn, đang khi Hội nghị Thế giới lần thứ IV về Phụ nữ sắp diễn ra tại Bắc Kinh vào tháng Chín tới đây.

Trước hết, tôi muốn ngỏ lời với Liên hiệp quốc rằng tôi hết sức tán thành sáng kiến lớn lao mà Tổ chức này đã thực hiện. Giáo hội cũng muốn góp phần vào việc bảo vệ phẩm giá, vai trò và những quyền lợi của phụ nữ, không chỉ qua việc Tòa Thánh cử Phái đoàn chính thức tham dự Hội nghị ở Bắc Kinh, nhưng còn bằng việc trực tiếp nói với con tim và trí óc của mọi người nữ. Mới đây, khi bà Gertrude Monella, Tổng thư ký của Hội nghị, đến thăm tôi vì Hội nghị này, tôi đã trao cho bà một Sứ điệp trình bày một số giáo huấn căn bản của Giáo hội liên quan đến các vấn đề về phụ nữ. Sứ điệp ấy, ngoài những hoàn cảnh cụ thể truyền cảm hứng để được viết ra, còn liên quan đến một góc nhìn rộng hơn về tình hình và các vấn đề của phụ nữ nói chung, trong nỗ lực cổ võ chính nghĩa của phụ nữ trong Giáo hội và trong thế giới ngày nay. Vì thế, tôi đã cho chuyển tiếp Sứ điệp này đến tất cả các Hội đồng Giám mục, để nó được phổ biến rộng rãi nhất có thể.

Tiếp tục các chủ đề tôi đã đề cập trong Sứ điệp ấy, giờ đây tôi muốn nói trực tiếp với mọi phụ nữ, để cùng họ suy ngẫm về những vấn đề và triển vọng trong việc trở thành một người phụ nữ đúng nghĩa trong thời đại chúng ta. Đặc biệt tôi muốn xem xét vấn đề chính yếu về phẩm giá và quyền của phụ nữ, theo ánh sáng Lời Chúa.

“Cuộc đối thoại” này thật sự cần phải bắt đầu bằng một lời cảm ơn. Như tôi đã viết trong Tông thư Mulieris Dignitatem, Giáo hội “muốn cảm tạ Ba Ngôi Chí Thánhvì ‘mầu nhiệm người nữ’ và vì mọi phụ nữ – vì tất cả những gì làm nên chiều kích vĩnh cửu của phẩm giá phụ nữ, vì ‘những kỳ công của Thiên Chúa’ mà suốt lịch sử nhân loại, đã được hoàn tất trong và nhờ người nữ (số 31).

2. Lời tạ ơn này dâng lên Chúa vì kế hoạch mầu nhiệm của Ngài về ơn gọi và sứ mệnh của phụ nữ trên thế giới đồng thời cũng là lời tạ ơn cụ thể và trực tiếp gửi đến phụ nữ, đến mọi người nữ, vì tất cả những gì họ thể hiện trong đời sống nhân loại.

Xin cảm ơn chị em, là người nữ trong vai trò làm mẹ. Chị em đã cưu mang con người trong lòng mình với trải nghiệm độc đáo vừa vui mừng vừa gian khổ. Trải nghiệm này làm cho chị em trở thành nụ cười của Chúa cho em bé sơ sinh, thành người hướng dẫn con mình đi những bước đầu tiên, giúp con lớn lên và là điểm tựa cho con trên đường đời.

Xin cảm ơn chị em, là người nữ trong vai trò làm vợ; chị em đã thủy chung gắn bó đời mình với cuộc đời của một người nam, trong mối tương quan trao hiến cho nhau, để phục vụ tình hiệp thông và sự sống.

Xin cảm ơn chị em, là người nữ trong vai trò làm con và làm chị, làm em; chị em đã đem đến cho tổ ấm gia đình và cho cuộc sống xã hội đầy phức tạp nét phong phú về tính nhạy cảm của chị em, về trực giác, về lòng quảng đại và kiên nhẫn của chị em.

Xin cảm ơn chị em, là những người nữ đang làm việc! Chị em hiện diện và hoạt động trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, chính trị. Theo đó chị em đã có những đóng góp thiết yếu để phát triển một nền văn hóa nối kết lý trí và tình cảm, một lối sống luôn mở ra với ý nghĩa của “mầu nhiệm”, và để thiết lập các cấu trúc kinh tế và chính trị ngày càng xứng đáng hơn với con người.

Xin cảm ơn chị em, là người nữ sống đời thánh hiến. Theo gương người phụ nữ vĩ đại nhất, Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong vâng phục và trung thành, chị em mở lòng mình ra với món quà tình yêu của Thiên Chúa. Chị em giúp Giáo hội và toàn thể nhân loại sống mối tương quan “phu thê” với Thiên Chúa, là mối tương quan diễn tả cách tuyệt vời tình bạn mà Thiên Chúa muốn thiết lập với các thụ tạo của Người.

Xin cảm ơn chị em, tất cả những người nữ, đơn giản vì chị em là người nữ! Qua trực cảm vốn thuộc về bản chất phụ nữ, chị em làm phong phú thêm sự hiểu biết của thế giới và giúp cho các mối tương quan giữa con người trở nên trung thực và chân thực hơn.

3. Tất nhiên tôi biết rằng chỉ nói lời cảm ơn là không đủ. Thật không may, chúng ta là những người thừa hưởng một lịch sử, vốn ràng buộc chúng ta khá chặt chẽ. Điều đó đã cản trở sự tiến bộ của phụ nữ, mọi nơi và mọi thời. Phẩm giá của phụ nữ thường không được nhìn nhận và các đặc quyền của họ bị hiểu sai; họ thường bị đẩy ra bên lề xã hội và thậm chí bị hạ xuống thành nô lệ. Điều này đã ngăn cản phụ nữ được thực sự là chính họ và kết quả là sự nghèo nàn tinh thần của nhân loại. Về chuyện này chắc chắn không dễ quy lỗi, khi xét đến nhiều khuôn mẫu văn hóa đã định hình cách suy nghĩ và hành động của con người trong nhiều thế kỷ. Và nếu lỗi khách quan, đặc biệt trong những bối cảnh lịch sử cụ thể, không chỉ thuộc về một vài thành viên của Giáo hội, thì tôi thực sự xin lỗi. Mong rằng sự hối lỗi này sẽ được toàn thể Giáo hội biến thành một cam kết canh tân lòng trung thành với nhãn quan Tin mừng. Khi nói đến việc giải phóng phụ nữ khỏi mọi hình thức bóc lột và thống trị, Tin mừng chứa đựng một thông điệp luôn hợp thời, xuất phát từ thái độ của chính Chúa Giêsu Kitô. Vượt ra khỏi các chuẩn mực văn hoá được quy định vào thời của Ngài, Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ bằng sự cởi mở, tôn trọng, đón nhận và dịu dàng. Như thế, Ngài đã tôn vinh phẩm giá vốn có của phụ nữ theo kế hoạch và trong tình yêu của Thiên Chúa. Khi nhìn về Chúa Kitô vào cuối Thiên niên kỷ thứ hai này, chúng ta tức khắc tự hỏi: sứ điệp của Người đã được lắng nghe và thi hành đến đâu rồi?

Phải, đã đến lúc phải can đảm duyệt xét lại quá khứ, chân thành thừa nhận trách nhiệm khi nhìn lại dòng lịch sử nhân loại. Phụ nữ đã đóng góp vào lịch sử đó cũng nhiều như nam giới, và thường thì họ đã làm như vậy trong những điều kiện khó khăn hơn nhiều. Tôi đặc biệt nghĩ đến những phụ nữ yêu thích văn hóa và nghệ thuật đã cống hiến cả cuộc đời cho văn hóa nghệ thuật mặc dù họ thường phải chịu bất lợi ngay từ đầu, bị loại khỏi các cơ hội giáo dục bình đẳng, bị đánh giá thấp, bị phớt lờ và không được ghi nhận những đóng góp của họ về mặt trí tuệ. Đáng buồn thay, có rất ít thành tựu của phụ nữ trong quá khứ được lịch sử ghi nhận. Nhưng dù cho thời gian có thể đã chôn vùi bằng chứng tài liệu về những thành tựu đó, thì ảnh hưởng hữu ích của họ vẫn có thể được cảm nhận như một sức mạnh đã định hình cuộc sống của nhiều thế hệ kế tiếp, cho đến tận thế hệ chúng ta. Đối với “truyền thống” lớn lao và vĩ đại này của phụ nữ, nhân loại mắc một món nợ không bao giờ có thể trả hết. Tuy thế, biết bao phụ nữ lại đã và vẫn bị đánh giá về dáng vẻ bên ngoài hơn là về kỹ năng, về tính chuyên nghiệp, về khả năng trí tuệ, và về sự nhạy cảm sâu sắc của họ; nói tóm lại, về chính phẩm giá của con người họ!

4. Và chúng ta sẽ nói gì về những trở ngại mà ở rất nhiều nơi trên thế giới vẫn ngăn cản không cho phụ nữ hòa nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội, chính trị và kinh tế? Chúng ta chỉ cần nghĩ đến việc ân huệ làm mẹ thường bị coi là hình phạt thay vì là phần thưởng, mặc dù nhân loại mắc nợ chính món quà sự sống này. Chắc chắn, vẫn còn nhiều việc phải làm để ngăn chặn sự phân biệt đối xử với những người đã chọn làm vợ và làm mẹ. Về quyền cá nhân, điều cấp bách là phải đạt được sự bình đẳng thực sự trong mọi lãnh vực: trả cùng mức lương cho cùng một công việc, bảo vệ các bà mẹ đi làm, công bằng trong thăng tiến nghề nghiệp, bình đẳng giữa vợ chồng liên quan đến quyền gia đình và nhìn nhận mọi thứ thuộc về quyền và nghĩa vụ của công dân trong một Nhà nước dân chủ.

Đây là vấn đề công lý nhưng cũng là vấn đề cần thiết. Phụ nữ sẽ ngày càng có vai trò trong việc giải quyết các vấn đề nghiêm trọng của tương lai: thời gian rảnh rỗi, phẩm chất cuộc sống, di cư, dịch vụ xã hội, an tử, ma túy, chăm sóc sức khỏe, sinh thái, v.v… Trong tất cả các lãnh vực này, việc phụ nữ hiện diện đông đảo trong xã hội sẽ chứng tỏ là điều rất quý giá, vì sẽ giúp bộc lộ những mâu thuẫn hiện có khi xã hội chỉ được tổ chức theo tiêu chí hiệu quả và năng suất, và sẽ buộc các hệ thống phải được thiết kế lại theo cách đem lại lợi ích cho các tiến trình nhân hóa ghi dấu “nền văn minh tình thương”.

5. Và rồi, khi nhìn vào một trong những khía cạnh nhạy cảm nhất của tình hình phụ nữ trên thế giới, làm sao chúng ta lại không nhắc đến lịch sử lâu dài và đáng xấu hổ, mặc dù thường là lịch sử “ngầm”, của bạo lực đối với phụ nữ trong lãnh vực tình dục? Ở ngưỡng cửa của Thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta không thể mãi thờ ơ và cam chịu trước hiện tượng này. Đã đến lúc phải mạnh mẽ lên án các loại bạo lực tình dục thường nhắm vào phụ nữ, và phải thông qua các đạo luật bảo vệ họ khỏi bạo lực như vậy một cách hiệu quả. Nhân danh sự tôn trọng con người, chúng ta cũng không thể không lên án nền văn hóa khoái lạc và thương mại đang lan tràn, khuyến khích việc khai thác tình dục một cách có hệ thống và làm hư hỏng cả những cô gái còn rất trẻ khi sử dụng thân xác của họ để kiếm lợi nhuận.

Ngược lại với những kiểu đồi trụy này, chúng ta phải dành sự trân trọng lớn lao biết bao cho những phụ nữ có một tình yêu anh hùng, vẫn tiếp tục cưu mang đứa con mà họ đã thụ thai do bị hiếp dâm cách bất công. Ở đây chúng ta nghĩ đến những hành động tàn bạo không chỉ trong những hoàn cảnh chiến tranh, vẫn còn xảy ra rất nhiều trên thế giới, mà cả trong những xã hội may mắn được thịnh vượng và hòa bình nhưng lại thường bị tha hóa bởi một nền văn hóa buông thả theo chủ nghĩa khoái lạc khiến cho xu hướng hung hăng của nam giới càng thêm trầm trọng. Trong những trường hợp này, lựa chọn phá thai luôn là tội trọng. Nhưng trước khi đổ lỗi cho người phụ nữ, phải quy tội ác này cho nam giới và sự đồng lõa của môi trường xã hội nói chung.

6. Vì thế lời cảm ơn của tôi với phụ nữ cũng là lời chân thành kêu gọi mọi người, đặc biệt là các quốc gia và các tổ chức quốc tế, nỗ lực hết sức để trả lại cho phụ nữ sự tôn trọng đầy đủ phẩm giá và vai trò của họ. Ở đây, tôi không thể không bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với những phụ nữ thiện chí đã cống hiến cả cuộc đời để bảo vệ phẩm giá phụ nữ bằng cách đấu tranh cho các quyền cơ bản về xã hội, kinh tế và chính trị của mình, đã can đảm đưa ra sáng kiến vào lúc mà sự dấn thân của họ bị coi là không tuân thủ luật, là dấu chỉ của sự thiếu nữ tính, là biểu hiện của chủ nghĩa phô trương, và thậm chí là tội lỗi!

Trong Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm nay, tôi đã lưu ý rằng khi nhìn vào tiến trình lớn mạnh của việc giải phóng phụ nữ, có thể nói đây là “con đường đầy khó khăn và phức tạp, và đôi khi không phải là không có những sai lầm. Nhưng về cơ bản, đó là một hành trình tích cực, mặc dù vẫn chưa hoàn thành, vì ở nhiều nơi trên thế giới vẫn còn những cản trở, không công nhận, tôn trọng và đánh giá cao phụ nữ trong phẩm giá đặc biệt của họ” (số 4).

Cần phải tiếp tục hành trình này! Nhưng tôi tin rằng bí quyết để tiến nhanh đến mục tiêu tôn trọng hoàn toàn phụ nữ và bản sắc của họ không chỉ đơn thuần là lên án sự phân biệt đối xử và bất công, mặc dù có thể đó là điều cần thiết. Sự tôn trọng như vậy trước hết và trên hết phải đạt được bằng một chiến dịch hiệu quả và thông minh nhằm thăng tiến phụ nữ, tập trung vào mọi lãnh vực của cuộc sống phụ nữ và bắt đầu bằng sự nhìn nhận của mọi người về phẩm giá phụ nữ. Mặc dù còn nhiều hạn chế về mặt lịch sử, chúng ta có thể nhận ra phẩm giá này khi sử dụng chính lý trí, vốn có khả năng hiểu được luật của Chúa được ghi khắc trong trái tim của mỗi con người. Hơn bất cứ điều gì khác, lời Chúa mới giúp chúng ta hiểu được rõ ràng nền tảng nhân học tối hậu của phẩm giá phụ nữ, khi chỉ ra rằng điều đó nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

7. Chị em thân mến, chúng ta hãy cùng nhau suy ngẫm lại đoạn văn tuyệt vời trong Kinh thánh mô tả việc tạo dựng loài người và đề cập nhiều điều về phẩm giá và sứ mệnh của chị em trên thế giới.

Sách Sáng thế tóm lược sự sáng tạo, bằng ngôn ngữ thi ca và tượng trưng, nhưng hết sức chân thực: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Người sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa; Người sáng tạo họ có nam có nữ” (St 1,27). Hành động sáng tạo của Thiên Chúa diễn ra theo một kế hoạch chính xác. Trước hết, Kinh thánh nói rằng con người được tạo dựng “theo hình ảnh và giống Thiên Chúa” (x. St 1,26). Cách nói này ngay lập tức cho thấy rõ con người khác với các thụ tạo khác như thế nào.

Rồi Kinh thánh nói, ngay từ đầu, con người đã được tạo dựng “có nam có nữ” (St 1,27). Chính Kinh thánh đưa ra lời giải thích: mặc dù có vô số các thụ tạo khác bao quanh, con người vẫn thấy mình cô đơn (x. St 2,20). Thiên Chúa liền can thiệp để giúp con người thoát khỏi cảnh cô đơn ấy: “Con người ở một mình thì không tốt; Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Vì thế, ngay từ ban đầu việc tạo ra người phụ nữ đã mang dấu ấn của nguyên tắc trợ giúp, trợ giúp không phải là một chiều mà là hỗ tương. Người nữ bổ sung cho người nam, cũng như người nam bổ sung cho người nữ: người nam và người nữ bổ sung cho nhau. Nữ tính thể hiện “con người” cùng một mức độ như nam tính, nhưng theo cách khác và bổ sung cho nhau.

Khi Sách Sáng Thế nói đến “trợ giúp”, thì không chỉ nói về hành động, mà cả về hữu thể nữa. Nữ tính và nam tính bổ sung cho nhau không chỉ theo quan điểm thể chất và tâm lý, mà còn theo quan điểm hữu thể học. Chỉ nhờ tính lưỡng diện “nam” và “nữ” mà “con người” mới được thể hiện trọn vẹn.

8. Sau khi tạo dựng người nam và người nữ, Thiên Chúa nói với cả hai: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1,28). Không chỉ ban cho họ quyền sinh sản như một phương tiện để duy trì nòi giống loài người qua các thời đại, Người còn ban cho họ trái đất, giao cho họ quyền sử dụng các nguồn tài nguyên của nó một cách có trách nhiệm. Là một hữu thể có lý trí và tự do, con người được kêu gọi biến đổi bộ mặt trái đất. Trong nhiệm vụ này, về cơ bản là nhiệm vụ thuộc về văn hóa, người nam và người nữ đều có trách nhiệm như nhau ngay từ đầu. Trong mối tương quan vợ chồng để sinh sôi phát triển, trong nhiệm vụ chung là thực hiện quyền thống trị trái đất, người nữ và người nam không phản ánh sự bình đẳng tĩnh tại và ngang hàng, cũng không phải sự khác biệt mang tính xung đột không thể hòa giải và không thể tránh khỏi. Mối tương quan tự nhiên nhất của họ, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, là “cả hai nên một”, là tương quan “tuy hai mà một”, cho phép mỗi người trải nghiệm mối tương quan liên vị và hỗ tương như một ơn ban làm phong phú và trao phó trách nhiệm cho họ.

Với mối tương quan “cả hai nên một” này, Chúa đã giao phó không chỉ công việc sinh sản và đời sống gia đình, mà còn cả việc làm nên lịch sử. Trong khi Năm Quốc tế Gia đình 1994 tập chú vào phụ nữ với tư cách là những người mẹ, thì Hội nghị Bắc Kinh, với chủ đề “Hành động vì Bình đẳng, Phát triển và Hòa bình”, cung cấp cơ hội tốt để nâng cao nhận thức về nhiều đóng góp của phụ nữ đối với đời sống của toàn thể các xã hội và các quốc gia. Những đóng góp này chủ yếu là về mặt tinh thần và văn hóa, nhưng cũng về mặt xã hội-chính trị và kinh tế nữa. Chắc chắn các lãnh vực khác nhau của xã hội, quốc gia và nhà nước, cũng như sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, đều phải mang ơn phụ nữ về những đóng góp của họ một cách sâu nặng!

9. Người ta thường có xu hướng đo lường tiến bộ theo các tiêu chí của khoa học và công nghệ. Theo quan điểm này, đóng góp của phụ nữ cũng không phải là không đáng kể. Mặc dù vậy, đây không phải là thước đo tiến bộ duy nhất, và trên thực tế, cũng không phải là thước đo chính. Quan trọng hơn nhiều là chiều kích xã hội và đạo đức, liên quan đến các mối tương quan của con người và các giá trị tinh thần. Trong lãnh vực này, vốn thường phát triển theo cách không dễ nhận ra, bắt đầu từ các mối tương quan hằng ngày giữa mọi người, đặc biệt là trong gia đình, chắc chắn xã hội rất nặng nợ đối với “thiên tư của phụ nữ”.

Ở đây, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt với những người phụ nữ tham gia trong nhiều lãnh vực giáo dục khác nhau bên ngoài gia đình: nhà trẻ, trường phổ thông, đại học, cơ quan dịch vụ xã hội, giáo xứ, hiệp hội và phong trào. Bất cứ nơi nào cần đến công tác giáo dục, chúng ta có thể thấy phụ nữ luôn sẵn sàng và mong muốn cống hiến hết mình cho người khác, đặc biệt là phục vụ những người yếu đuối nhất và những người không có khả năng tự vệ. Trong công việc này, phụ nữ thể hiện một kiểu tình mẫu tử đầy tình cảm, văn hóa và tinh thần, có giá trị vô song đối với sự phát triển của cá nhân và tương lai của xã hội. Lúc này đây, làm sao tôi lại không nhắc đến chứng tá của rất nhiều phụ nữ Công giáo và các Dòng tu nữ ở mọi châu lục đã lấy giáo dục, đặc biệt là công tác giáo dục thiếu nhi nam và nữ, làm hoạt động tông đồ chính của mình? Làm sao tôi lại không nghĩ đến và biết ơn tất cả những người nữ đã và đang làm việc trong lãnh vực chăm sóc sức khỏe, không chỉ tại các cơ sở có tổ chức quy củ mà cả trong những hoàn cảnh rất bấp bênh, ở những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, qua đó thể hiện tinh thần phục vụ không ít lần gần như tử đạo?

10. Vì vậy, các chị em thân mến, tôi mong rằng các chị em sẽ suy ngẫm thấu đáo về ý nghĩa của “thiên tư của người nữ”, không chỉ để thấy được trong cụm từ này một phần cụ thể của kế hoạch của Thiên Chúa cần được đón nhận và tôn trọng, mà còn để cho thiên tư này được thể hiện đầy đủ hơn trong toàn đời sống xã hội, cũng như trong đời sống của Giáo hội. Chủ đề này đã được thường xuyên đề cập trong Năm Thánh Mẫu và chính tôi đã nghiền ngẫm kỹ vấn đề này trong Tông thư Mulieris Dignitatem (1988). Ngoài ra, năm nay, trong bức Thư vẫn thường được gửi cho các linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh, tôi đã mời gọi các linh mục đọc lại Mulieris Dignitatem và suy ngẫm về những vai trò quan trọng mà phụ nữ đã đảm nhận trong cuộc sống của họ như những người mẹ, người chị em và những người cộng tác trong công tác tông đồ. Đây là một khía cạnh khác – không giống như khía cạnh vợ chồng, nhưng cũng quan trọng – của “sự trợ giúp” mà theo Sách Sáng Thế, người nữ được mời gọi mang lại cho người nam.

Giáo hội nhìn thấy nơi Đức Maria biểu hiện cao nhất của “thiên hướng nữ giới” và gặp được nơi Mẹ nguồn cảm hứng bất tận. Đức Maria tự gọi mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Nhờ vâng phục Lời Chúa, Mẹ đã chấp nhận ơn gọi cao cả mặc dầu không hề dễ dàng là làm vợ và làm mẹ trong gia đình Nazareth. Khi đặt mình phục vụ Chúa, Mẹ cũng đặt mình phục vụ người khác: phục vụ tình yêu. Chính qua việc phục vụ này, Đức Maria đã sống kinh nghiệm “trị vì”, vừa mầu nhiệm vừa đích thực. Không phải ngẫu nhiên mà Mẹ được tôn xưng là “Nữ vương trời đất”. Toàn thể cộng đồng tín hữu kêu cầu Mẹ như thế; nhiều quốc gia và dân tộc gọi Mẹ là “Nữ vương” của mình. Đối với Mẹ, “trị vì” là phục vụ, phục vụ là “trị vì”!

Đó là cách hiểu về quyền bính trong gia đình, trong xã hội và cả trong Giáo hội. Ơn gọi cơ bản của mỗi người được tỏ lộ trong việc “trị vì” này, vì mỗi người đã được tạo dựng theo “hình ảnh” của Đấng là Chúa của trời đất và được kêu gọi trở thành dưỡng tử của Người trong Chúa Kitô. Con người là thụ tạo duy nhất trên trái đất “mà Thiên Chúa muốn vì chính nó”, như Công đồng Vatican II dạy; hơn nữa Công đồng còn nhấn mạnh rằng con người “chỉ có thể gặp lại bản thân một cách trọn vẹn khi chân thành trao ban chính mình” (Gaudium et Spes, 24).

Hình thức “trị vì” như một người mẹ của Đức Maria hệ tại điều này. Mẹ đã là một món quà cho Con của Mẹ với toàn thể con người mình, thì Mẹ cũng trở thành món quà cho những người con – nam và nữ – của tất cả nhân loại, khi khơi lên lòng tín thác sâu xa nơi những ai đến với Mẹ để được hướng dẫn trên con đường nhọc nhằn hướng về vận mệnh chung cuộc và siêu việt đời mình. Mỗi người đạt được mục tiêu cuối cùng này khi trung thành với ơn gọi của mình; mục tiêu này đem lại ý nghĩa và hướng đi cho những công việc ở trần thế của cả người nam và người nữ.

11. Theo quan điểm này về “phục vụ” – vốn diễn tả “vương quyền” đích thực của con người, nếu được thực hiện với tự do, tính hỗ tương và tình yêu – chúng ta cũng có thể chấp nhận việc có nhiều vai trò khác nhau mà không hề gây thiệt hại cho phụ nữ, miễn là sự đa dạng này không phải là kết quả của áp đặt độc đoán, mà là thể hiện nét đặc trưng của người nam và của người nữ. Điều này cũng được áp dụng đặc biệt trong Giáo hội. Nếu Đức Kitô – bởi sự chọn lựa tự do với quyền tối cao của Ngài, như Tin Mừng và Truyền thống liên tục của Giáo hội đã chứng thực cách rõ ràng – đã chỉ ủy thác cho người nam nhiệm vụ trở nên “hình ảnh” của gương mặt “mục tử” của Ngài và “chàng rể” của Giáo hội qua việc thực thi chức linh mục thừa tác, thì điều đó không hề làm giảm thiểu vai trò của người nữ, cũng như của những thành viên khác của Giáo hội không có chức thánh, bởi vì mọi người đều chia sẻ cùng một phẩm giá của “chức tư tế chung” đặt nền tảng nơi bí tích Rửa Tội. Chúng ta không nên coi những vai trò khác biệt ấy theo tiêu chí chức năng thường thấy trong xã hội loài người. Nhưng phải hiểu theo những tiêu chí đặc biệt của nhiệm cục bí tích, nghĩa là nhiệm cục của các “dấu chỉ” đã được Thiên Chúa tự do chọn để hiện diện giữa loài người.

Hơn nữa, chính khi suy nghĩ theo nhiệm cục các dấu chỉ này, ngay cả ngoài lãnh vực bí tích, việc sống “nữ tính” theo gương mẫu tuyệt vời của Đức Maria vẫn hết sức ý nghĩa. Thật vậy, nơi “nữ tính” của người nữ tín hữu, và đặc biệt của người nữ sống đời “thánh hiến”, có một thứ “ngôn sứ” nội tại (x.Mulieris Dignitatem, 29), một biểu trưng có sức khơi động mạnh mẽ, một “tính cách biểu tượng” sâu sắc, được hiện thực hóa trọn vẹn nơi Đức Maria và cũng diễn tả chính xác bản chất của Giáo hội như một cộng đồng được thánh hiến với một trái tim “trinh nữ” toàn vẹn để trở thành “hiền thê” của Chúa Kitô và “mẹ” của các tín hữu. Nếu xem xét tính bổ sung “mang tính biểu tượng” của các vai trò nam và nữ, chúng ta sẽ thấy rõ hơn hai chiều kích chính yếu của Giáo hội: nguyên lý “Maria” và nguyên lý “Tông đồ Phêrô” (xem ibid. số 27).

Đàng khác – như tôi đã viết cho các linh mục trong bức Thư Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay – chức linh mục thừa tác, trong ý định của Đức Kitô, “không phải là biểu hiện của quyền thống trị, mà là biểu hiện của sự phục vụ” (số 7). Trong việc hằng ngày tự làm mới mình theo ánh sáng Lời Chúa, Giáo hội cần cấp bách nhấn mạnh thực tế này ngày càng rõ nét hơn, bằng cách phát triển tinh thần hiệp thông cũng như quan tâm thúc đẩy mọi phương tiện tham dự riêng của Giáo hội, đồng thời tôn trọng và cổ võ nhiều đặc sủng cá nhân và cộng đoàn được Thần Khí Chúa khơi dậy để xây dựng cộng đoàn Kitô hữu và phục vụ con người.

Trong lãnh vực rộng lớn của việc phục vụ ấy, lịch sử hai ngàn năm của Giáo hội, mặc dù còn nhiều hạn chế, vẫn thật sự nhìn nhận “thiên tư của người nữ”; trong lòng Giáo hội đã thấy xuất hiện những phụ nữ xuất sắc, họ để lại dấu ấn quan trọng và hữu ích trong lịch sử. Tôi nghĩ đến vô số người nữ là các vị tử đạo, các vị thánh và những nhà thần bí lừng danh. Đặc biệt, tôi nghĩ đến thánh Catêrina Sienna và thánh Têrêsa Avila, đã được Đức giáo hoàng Phaolô VI phong tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Và làm sao chúng ta lại không nhắc đến biết bao nhiêu người nữ, được đức tin thôi thúc, đã dấn thân cho những sáng kiến xã hội hết sức quan trọng, để phục vụ những người nghèo nhất trong những người nghèo? Đời sống của Giáo hội trong thiên niên kỷ thứ ba chắc hẳn sẽ không thiếu những biểu hiện mới mẻ và đáng ngưỡng mộ của “thiên tư nữ giới”.

12. Bởi vậy, chị em thân mến, chị em có thể thấy rằng Giáo hội có nhiều lý do để hy vọng Hội nghị sắp tới của Liên hiệp quốc tại Bắc Kinh sẽ nêu bật sự thật trọn vẹn về người nữ. Cần phải nhấn mạnh đến “thiên tư của người nữ”, không chỉ bằng cách kể đến những phụ nữ quan trọng và nổi tiếng ở thời quá khứ hay thời nay, mà cả những phụ nữ bình thường đã thể hiện nữ tính của mình khi phục vụ người khác trong đời thường. Vì chính khi hằng ngày phục vụ người khác, người nữ thực hiện ơn gọi sâu xa của mình. Có lẽ còn hơn cả người nam, người nữ thừa nhận con người, bởi vì người nữ nhìn bằng con tim. Người nữ không bị lệ thuộc vào những hệ thống ý thức hay chính trị khi nhìn người khác. Người nữ nhìn người khác trong nét cao cả cũng như trong những giới hạn của họ, người nữ đến với họ để giúp đỡ họ. Bằng cách ấy, kế hoạch căn bản của Đấng Tạo Hóa được thực hiện trong lịch sử nhân loại; và một vẻ đẹp không ngừng bộc lộ nơi nhiều ơn gọi khác nhau; một vẻ đẹp không chỉ là tự nhiên, mà nhất là vẻ đẹp thiêng liêng – mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã ban cho con người và đặc biệt cho người nữ.

Cùng với lời cầu nguyện xin Chúa ban cho cuộc gặp gỡ quan trọng tại Bắc Kinh đạt được kết quả tốt đẹp, tôi cũng mời gọi các cộng đoàn giáo hội hãy biến năm nay thành cơ hội thành tâm cảm tạ Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ trần gian đã ban cho chúng ta kho tàng lớn lao này, là chính người phụ nữ. Theo tất cả mọi ý nghĩa, phụ nữ thuộc về di sản tạo thành nhân loại và chính Giáo hội.

Nguyện xin Mẹ Maria là Nữ Vương tình yêu đoái nhìn đến các người nữ và sứ mạng của họ trong việc phục vụ nhân loại, phục vụ hòa bình và mở rộng Vương quốc của Thiên Chúa!

Tôi chúc lành cho chị em.

Vatican, ngày 29 tháng 6 năm 1995,

Lễ trọng, kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô

Gioan Phaolô II

Giáo hoàng

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 143 (Tháng 9 & 10 năm 2024)