Cầu nguyện trong đời sống người Ktiô Hữu

17/11/2025
509


CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU

Cầu nguyện là gì?

Trong tiếng Pháp, có hai từ dùng để chỉ mối tương quan yêu thương có ý thức và thân mật giữa con người và Thiên Chúa: prièreoraison. Từ “prière” xuất phát từ động từ Latin precor, nghĩa là xin xỏ, đi đến gần ai đó khi ở trong tình trạng yếu thế để xin một điều lợi. Từ “oraison” xuất phát từ danh từ Latin oratio, nghĩa là lời nói, bài diễn văn, ngôn ngữ.

Các định nghĩa về cầu nguyện thường phản ánh những khác biệt tinh tế mà chúng ta vừa tìm hiểu về thuật ngữ này. Ví dụ, thánh Jean Damascène xem cầu nguyện là “sự nâng lên của linh hồn hướng về Thiên Chúa hoặc là lời xin Thiên Chúa ban những điều tốt lành thích hợp”[1]; trong khi đó, với thánh Jean Climaque, cầu nguyện là “cuộc đối thoại thân mật và sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa”. Riêng thánh nữ Têrêsa Avila định nghĩa cầu nguyện là “một sự bùng lên của con tim, một ánh nhìn đơn giản hướng lên trời, một tiếng kêu của sự biết ơn và yêu mến, trong thử thách cũng như trong niềm vui”[2].

Nội dung của cầu nguyện, cũng như bất kỳ cuộc đối thoại yêu thương nào, có thể rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, có một số nội dung đặc biệt quan trọng cần được nhấn mạnh.

1.     Lời tạ ơn

Sự nhận biết những điều tốt lành đã nhận được và qua đó, sự vĩ đại và lòng thương xót của Thiên Chúa, thúc đẩy tâm hồn hướng về Ngài để tuyên xưng những hồng ân và tạ ơn Ngài. Thái độ tạ ơn tràn ngập Kinh Thánh và lịch sử tâm linh từ đầu đến cuối. Cả hai đều cho thấy rằng khi thái độ này ăn sâu trong tâm hồn, nó tạo ra một tiến trình dẫn đến việc nhận ra toàn bộ những gì xảy ra như là một món quà thiêng liêng, không chỉ những điều mà kinh nghiệm trực tiếp xác nhận là dễ chịu, mà cả những điều có thể dường như tiêu cực hoặc bất lợi.

Ý thức rằng các sự kiện nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, người tin biết rằng tất cả đều góp phần vào điều tốt lành cho những người (mỗi người) là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa ( Rm 8,28). “Hãy tập quen dần với việc nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa trong sự tạ ơn, thường xuyên trong ngày. Vì Người ban cho con cái này hay cái kia. Vì con đã bị hạ nhục. Vì con không có những gì con cần, hoặc vì con có. Vì Mẹ của Người, cũng là Mẹ con, Người đã muốn Mẹ đẹp đến thế. Vì Người tạo ra mặt trời và mặt trăng, và con vật này, cây này. Vì Người ban cho người này tài hùng biện và cho con chỉ khả năng lí nhí... Hãy tạ ơn Người vì mọi sự, vì mọi sự đều tốt đẹp”[3] (Chemin, 268).

2.     Sự thờ phượng và tán dương

Một phần thiết yếu của cầu nguyện là nhận ra và tuyên xưng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự viên mãn trong bản thể của Ngài, sự vô tận của lòng tốt và tình yêu của Ngài. Ta có thể bắt đầu tán dương qua việc ngắm nhìn vẻ đẹp và sự vĩ đại của vũ trụ, như trong nhiều đoạn Kinh Thánh ( Tv 19; 42, 15-25; Dnl 3, 32-90) và trong nhiều lời cầu nguyện truyền thống Kitô giáo; hoặc bằng cách nhìn thấy những công trình lớn lao và kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu độ, như được diễn tả trong kinh Magnificat (Lc 1, 46-55) hay trong các bài thánh ca của thánh Phaolô (Ep 1, 3-14); hoặc những hành động nhỏ bé, dù có vẻ tầm thường, nơi mà tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ.

Dù sao, điều làm nên đặc trưng của lời tán dương là ánh mắt hướng trực tiếp về Thiên Chúa, chính Ngài như Ngài vốn là, trong sự hoàn hảo vô hạn và vô cùng của Ngài. “Lời tán dương là hình thức cầu nguyện nhận ra một cách trực tiếp nhất rằng Thiên Chúa chính là Thiên Chúa.  Ca ngợi Ngài vì chính Ngài, tôn vinh Ngài vượt trên tất cả những gì Ngài làm, vì Ngài TỒN TẠI”[4]. Do đó, Lời tán dương gắn bó mật thiết với sự thờ phượng, sự nhận thức không chỉ về trí tuệ mà còn về sự hiện hữu, về sự nhỏ bé của mọi sáng tạo so với Đấng Tạo Hóa, và vì thế là sự khiêm nhường, chấp nhận sự bất xứng cá nhân trước Đấng vượt xa ta vô tận; sự ngạc nhiên vì Thiên Chúa, Đấng mà các thiên thần và cả vũ trụ đều tôn kính, đã không chỉ hướng nhìn về con người mà còn ngự trong con người, làm người.

Thờ phượng, tán dương, xin và tạ ơn tóm tắt những thái độ căn bản chi phối toàn bộ cuộc đối thoại giữa con người và Thiên Chúa. Dù nội dung cụ thể của lời cầu nguyện là gì, người cầu nguyện luôn làm điều đó, dù cách này hay cách khác, rõ ràng hay ngầm hiểu, bằng cách thờ phượng, tán dương, cầu xin, van nài hay tạ ơn Thiên Chúa mà người ta kính trọng, yêu mến và tin tưởng. Đồng thời, cần nhắc lại rằng nội dung cụ thể của cầu nguyện có thể rất đa dạng. Đôi khi, cầu nguyện được dùng để suy ngẫm về các đoạn Kinh Thánh, để đào sâu sự hiểu biết về một chân lý Kitô giáo, để sống lại cuộc đời của Đức Kitô, để cảm nhận sự gần gũi của Mẹ Maria... Những lúc khác, cầu nguyện bắt nguồn từ chính cuộc sống của ta để chia sẻ với Thiên Chúa những niềm vui và nỗi buồn, những hy vọng và những khó khăn gặp phải trong cuộc sống; để tìm sự nâng đỡ hay an ủi; để xét lại hành vi của chính mình trước Thiên Chúa và đi đến những quyết định, những cam kết; hoặc đơn giản là để trò chuyện về những sự kiện trong ngày với Đấng mà ta biết yêu thương ta.

Là cuộc gặp gỡ giữa người tin và Thiên Chúa mà người ta nương tựa và biết mình được yêu thương bởi Ngài, cầu nguyện có thể đề cập đến tất cả các tình huống của cuộc sống và tất cả những cảm xúc mà con tim có thể trải qua. Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng nói về điều gì?’ Về điều gì? Về Ngài, về con: niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại, những khát vọng cao đẹp, những lo lắng hằng ngày, những yếu đuối! Những lời tạ ơn và cầu xin, tình yêu và sự đền bù. Tóm lại, là biết Ngài và biết con: “giao tiếp với nhau!”[5].

Dù trường hợp nào, cầu nguyện luôn là một cuộc gặp gỡ thân mật và con thảo giữa con người và Thiên Chúa; nó làm tăng cảm giác gần gũi với Thiên Chúa và dẫn dắt người ta sống mỗi ngày trước mặt Ngài.

3.     Lời cầu xin

Việc nhắc đến lời nguyện xin được ghi rất thường xuyên trong toàn bộ Kinh Thánh, bao gồm cả lời của Chúa Giêsu, Người không chỉ sử dụng mà còn mời gọi chúng ta xin với một lời cầu nguyện đơn sơ và tin tưởng. Truyền thống Kitô giáo đã nhiều lần nhắc lại lời mời gọi này qua nhiều cách thực hành khác nhau: xin ơn tha thứ cho chính mình và cho người khác, cho Hội Thánh và công cuộc truyền giáo, cho những nhu cầu đa dạng khác.

Thực ra, lời nguyện xin là một phần của kinh nghiệm tôn giáo phổ quát. Sự nhận thức, dù đôi khi mơ hồ, về sự hiện diện của Thiên Chúa, làm phát sinh khuynh hướng hướng về Ngài, xin Ngài bảo vệ và giúp đỡ. Cầu nguyện không chỉ đơn thuần là cầu xin, nhưng lời xin là một biểu hiện quyết định của cầu nguyện, vì nó công nhận và bày tỏ điều kiện hữu hạn của con người cũng như sự lệ thuộc tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng mà đức tin giúp ta nhận biết trọn vẹn tình yêu của Ngài [6].

Các biểu hiện và hình thức của cầu nguyện

Về các cách thức và hình thức mà lời cầu nguyện được biểu đạt, các tác giả thường đề xuất nhiều dạng khác nhau: cầu nguyện bằng lời nói và cầu nguyện trong tâm trí; cầu nguyện chung và cầu nguyện cá nhân; cầu nguyện mang tính trí tuệ hay phản tỉnh và cầu nguyện mang tính cảm xúc; cầu nguyện theo khuôn phép và cầu nguyện tự phát, v.v. Trong những dịp khác, các tác giả cố gắng phác thảo một sự phân cấp về cường độ của lời cầu nguyện bằng cách phân biệt cầu nguyện trong tâm trí, cầu nguyện cảm xúc, cầu nguyện thanh thản, sự chiêm niệm, cầu nguyện hiệp nhất.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo cấu trúc phần trình bày bằng cách phân biệt “ba biểu hiện chính của đời sống cầu nguyện: cầu nguyện bằng lời nói, sự suy niệm, và cầu nguyện thâm sâu. Một đặc điểm căn bản chung cho cả ba là sự tập trung của trái tim. Sự tỉnh thức giữ lấy Lời Chúa và luôn hiện diện trước mặt Thiên Chúa làm cho ba biểu hiện này trở thành những thời khắc quan trọng trong đời sống cầu nguyện”[7]. Phân tích văn bản cho thấy Giáo lý không nói đến ba cấp độ của đời sống cầu nguyện mà đúng hơn là hai con đường: cầu nguyện bằng lời nói và sự suy niệm, cả hai đều được trình bày như dẫn đến đỉnh cao của đời sống cầu nguyện là sự chiêm niệm. 

Cầu nguyện bằng lời nói

Cụm từ “cầu nguyện bằng lời nói” chỉ một câu được diễn đạt bằng âm thanh, tức là bằng các từ ngữ được phát ra hoặc thốt ra. Dù cách hiểu này đúng nhưng chưa đi sâu vào bản chất của vấn đề. Thực tế, mọi đối thoại nội tâm, dù có thể chủ yếu là trong trí óc, đều liên quan đến ngôn ngữ; và đôi khi là ngôn ngữ được phát ra to nhỏ, ngay cả khi ở trong phòng riêng. Hơn nữa, cầu nguyện bằng lời nói không chỉ là vấn đề của các từ ngữ mà quan trọng hơn là tư tưởng và trái tim. Do đó, chính xác hơn khi nói cầu nguyện bằng lời nói là cầu nguyện được thực hiện bằng các công thức đã có sẵn, dài hoặc ngắn (như lời kinh ngắn), lấy từ Thánh Kinh (Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng…).

Tất cả những điều này, rõ ràng, với điều kiện những biểu hiện hoặc công thức được đọc thành lời là một lời cầu nguyện thực sự, nghĩa là người đọc không chỉ dùng miệng mà còn với tâm trí và trái tim. Chính vì thế, thánh Josémaria đã nói: “Nhẹ nhàng thôi. Hãy suy nghĩ những gì con nói, ai nói và nói với ai. Vì lời nói vội vàng, không dành chỗ cho suy nghĩ, chỉ là tiếng vang vô nghĩa. Và tôi sẽ nói với con, theo lời thánh Teresa Avila, rằng tôi không gọi đó là cầu nguyện, dù con có cử động môi thật nhiều”[8].

Cầu nguyện bằng lời nói đóng vai trò quyết định trong việc giáo dục cầu nguyện, nhất là khi bắt đầu mối quan hệ với Thiên Chúa. Thực tế, khi học dấu Thánh Giá và các lời cầu nguyện bằng lời nói, trẻ em, và thường cả người lớn, được khởi đầu trải nghiệm đức tin cụ thể và vì thế là đời sống cầu nguyện. Tuy nhiên, vai trò và tầm quan trọng của cầu nguyện bằng lời nói không chỉ giới hạn ở khởi đầu mà còn đồng hành với đời sống tâm linh suốt quá trình phát triển.

Suy niệm

Suy niệm có nghĩa là áp dụng tư tưởng vào việc xem xét một thực tại hay ý tưởng với mong muốn hiểu biết sâu sắc và hoàn hảo hơn. Ở người Kitô hữu, sự suy niệm thường được gọi là cầu nguyện trong tâm trí, bao gồm việc hướng suy nghĩ về Thiên Chúa như Ngài đã mặc khải qua lịch sử Israel và hoàn toàn trong Đức Kitô. Và, với cái nhìn của Thiên Chúa, nhìn lại chính sự tồn tại của mình để đánh giá và điều chỉnh theo mầu nhiệm sự sống, sự hiệp thông và tình yêu mà Thiên Chúa đã cho biết.

Suy niệm có thể phát triển tự phát trong những khoảnh khắc yên lặng trước hoặc sau các lễ nghi phụng vụ hoặc sau khi đọc một đoạn Kinh Thánh hay tác phẩm tâm linh. Ở những lúc khác, nó có thể là những thời gian dành riêng cho mục đích đó. Dù sao, rõ ràng nhất là lúc đầu nhưng không chỉ lúc đầu suy niệm đòi hỏi nỗ lực, khát khao hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa và ý muốn Ngài, cũng như sự cam kết cá nhân thực sự để cải thiện đời sống Kitô hữu. Theo nghĩa này, ta có thể nói rằng “suy niệm là một sự tìm kiếm”[9], tuy nhiên phải nói thêm rằng đó không phải là tìm kiếm một điều gì đó, mà là tìm kiếm một Ai đó. Mục đích của sự suy niệm Kitô giáo không chỉ là để hiểu điều gì đó (rốt cuộc là hiểu cách Thiên Chúa hoạt động và tỏ mình ra) mà là để gặp gỡ Ngài và, sau khi gặp gỡ, đồng thuận với ý muốn Ngài và hiệp nhất với Ngài.

Cầu nguyện chiêm niệm

Sự phát triển của trải nghiệm Kitô giáo, và trong đó có cầu nguyện, dẫn đến một sự giao tiếp ngày càng liên tục, cá nhân và thân mật hơn giữa chúng ta và Thiên Chúa. Chính trong bối cảnh này mà lời cầu nguyện được Giáo lý mô tả là chiêm niệm, kết quả của sự trưởng thành trong kinh nghiệm thần học, từ đó nảy sinh cảm giác sâu sắc về sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa; do đó, mối quan hệ với Thiên Chúa trở nên trực tiếp, thân mật và tin cậy hơn, và thậm chí vượt lên trên lời nói và suy nghĩ phản tỉnh, người ta sống trong sự hiệp thông thân mật với Ngài.

“Cầu nguyện là gì?” Giáo lý Hội Thánh Công giáo hỏi ngay đầu phần nói về cầu nguyện chiêm niệm, đồng thời trả lời ngay rằng, theo lời thánh Teresa Avila, đó không gì khác hơn “là sự giao tiếp thân mật của tình bạn, nơi ta thường trò chuyện một mình với Thiên Chúa mà ta biết Ngài yêu thương mình”. Cụm từ cầu nguyện chiêm niệm, như được sử dụng trong Giáo lý và nhiều tác phẩm khác trước và sau, đề cập đến đỉnh cao của sự chiêm niệm, tức là khoảnh khắc nhờ ân sủng mà tâm hồn được đưa đến ngưỡng cửa thần linh, vượt lên trên mọi thực tại khác. Nhưng rộng hơn, đó là sự tăng trưởng sống động và chân thành của sự hiện diện Thiên Chúa và khao khát hiệp thông sâu xa với Ngài. Điều này đúng không chỉ trong những lúc dành riêng cho cầu nguyện mà còn trong toàn bộ cuộc sống. Cầu nguyện, nói chung, được mời gọi bao gồm toàn bộ con người, trí tuệ, ý chí và cảm xúc  để chạm tới trung tâm trái tim, thay đổi tâm trạng, làm cho toàn bộ đời sống Kitô hữu trở thành một con người mới trong Đức Kitô (Gl 2,20).

Với cụm từ “chiêm niệm giữa đời thường”, thánh Josémaria đã tóm tắt một trong những đặc điểm cơ bản, khẳng định rằng người Kitô hữu bình thường, được gọi để nên thánh giữa đời thường, có thể đạt tới sự viên mãn của sự chiêm niệm mà không cần phải từ bỏ đời sống thế tục của mình. Theo thánh Josémaria, người Kitô hữu bình thường được gọi để chiêm niệm ngay trong và qua đời sống bình thường, vì sự chiêm niệm không giới hạn trong vài khoảnh khắc nhất định trong ngày (những lúc dành riêng cho cầu nguyện cá nhân hay phụng vụ, tham dự Thánh lễ, v.v.), mà có thể lan tỏa suốt ngày, trở thành một lời cầu nguyện liên tục, nơi linh hồn “cảm nhận và biết mình luôn được Thiên Chúa yêu thương nhìn đến từng phút từng giây”[10].

 Vì thế ngài nói: “Tôi muốn chúng ta một lần cho mãi mãi nhận thức được sự cần thiết chuẩn bị để trở thành những tâm hồn chiêm niệm, ngay giữa đường phố, trong công việc của mình, giữ cuộc đối thoại với Thiên Chúa không ngừng suốt ngày. Đó là con đường duy nhất nếu ta muốn đi theo chân Thầy một cách trung thành”[11].

Điều kiện và đặc điểm của việc cầu nguyện

Việc cầu nguyện, cũng như mọi hành động mang tính cá nhân trọn vẹn, đòi hỏi sự chú ý và ý định, nhận thức về sự hiện diện của Thiên Chúa và một cuộc đối thoại hiệu quả, chân thành với Ngài. Điều kiện để tất cả những điều này có thể xảy ra là sự tĩnh tâm. Từ “tĩnh tâm” chỉ hành động mà qua đó ý chí, nhờ khả năng làm chủ tất cả các yếu tố cấu thành bản chất con người, cố gắng kiềm chế xu hướng phân tán, từ đó tạo điều kiện cho sự bình an và yên tĩnh nội tâm. Thái độ này rất cần thiết trong những lúc đặc biệt dành cho cầu nguyện, khi ta tạm ngưng các công việc khác và cố gắng tránh những sự xao nhãng. Nhưng nó không nên chỉ giới hạn trong những lúc đó: nó phải mở rộng thành sự tĩnh tâm thường xuyên, được nhận diện như một đức tin và tình yêu tràn đầy trong lòng, dẫn dắt ta cố gắng sống mọi hành động của mình với Thiên Chúa làm trọng tâm, dù là rõ ràng hay ngấm ngầm.

Một điều kiện khác của việc cầu nguyện là lòng tin cậy. Không có lòng tin cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, sẽ không có cầu nguyện, cầu nguyện chân thành có khả năng vượt qua thử thách và khó khăn. Điều này không chỉ là tin tưởng rằng một lời cầu xin sẽ được đáp lại, mà là sự chắc chắn vào Đấng mà ta biết Ngài yêu thương và thấu hiểu ta, và với Ngài ta có thể mở lòng mình mà không giữ lại điều gì[12].

Đôi khi, cầu nguyện là một cuộc đối thoại dễ dàng trào dâng, thậm chí với niềm vui và sự an ủi, phát xuất từ sâu thẳm tâm hồn; nhưng có những lúc, có lẽ nhiều hơn, nó đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực; sự nản lòng có thể len lỏi và dẫn đến việc nghĩ rằng thời gian dành cho mối quan hệ với Thiên Chúa là vô nghĩa. Trong những lúc như vậy, tầm quan trọng của một đức tính khác trong cầu nguyện hiện rõ: đó là sự kiên trì. Mục đích của cầu nguyện không phải để nhận được lợi ích, cũng không phải để tìm kiếm sự thỏa mãn, khoái cảm hay sự an ủi, mà là để hiệp thông với Thiên Chúa; do đó sự cần thiết và giá trị của kiên trì trong cầu nguyện luôn tồn tại, dù có niềm hăng say và niềm vui hay không, đó vẫn là một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa[13].

Một đặc điểm đặc trưng và căn bản của cầu nguyện Kitô giáo là tính cách Ba Ngôi. Đây là kết quả của hoạt động của Chúa Thánh Thần, người ban và kích thích đức tin, hy vọng và tình yêu, dẫn đến sự trưởng thành trong sự hiện diện của Thiên Chúa, đến mức ta biết rằng mình vừa có mặt trên trần gian này, nơi ta sống và làm việc, vừa hiện diện trên trời nhờ ân sủng trong lòng mình. Người Kitô hữu sống trong đức tin biết rằng mình được mời gọi thiết lập mối quan hệ với các thiên thần và các thánh, với Đức Maria và đặc biệt với Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, trong nhân tính Ngài, ta nhận biết được thần tính của Ngài. Và theo con đường đó, nhận ra thực tại của Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn của Ngài, đồng thời ngày càng sâu sắc hơn trong mối quan hệ tin cậy với Ngài.

Cầu nguyện Kitô giáo vì thế là một lời cầu nguyện của người con. Lời cầu nguyện của một đứa trẻ, bất cứ lúc nào trong niềm vui hay trong nỗi buồn, trong lao động hay trong nghỉ ngơi đều hướng về Cha mình với sự đơn giản và chân thành để trao gửi trong tay Ngài những lo lắng và cảm xúc ta đang trải nghiệm trong lòng, với niềm chắc chắn rằng nơi Ngài ta sẽ tìm thấy sự thấu hiểu và đón nhận. Và hơn thế nữa: một tình yêu trong đó mọi thứ đều có ý nghĩa.

Sự cần thiết của cầu nguyện Kitô giáo

Theo những gì ta đã thấy, rõ ràng cầu nguyện không phải là điều tùy ý trong đời sống tâm linh, mà là một nhu cầu sống còn, như Giáo lý Hội Thánh Công Giáo xác nhận: “Cầu nguyện là một nhu cầu sống còn, nếu chúng ta không để Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta sẽ rơi vào ách nô lệ của tội lỗi ( Ga 5,16-25). Thánh Thần làm sao có thể là ‘Cuộc sống của chúng ta’ nếu lòng chúng ta cách xa Ngài? Không gì bằng cầu nguyện; cầu nguyện làm cho điều không thể trở nên có thể, làm cho điều khó trở nên dễ”[14]. Người cầu nguyện thì không thể phạm tội. Ai cầu nguyện chắc chắn sẽ được cứu; ai không cầu nguyện chắc chắn sẽ bị hư mất.

Chính vì thế, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo đã dùng cụm từ “lời mời gọi cầu nguyện phổ quát” trong tiêu đề chương đầu tiên của phần thứ tư của Giáo lý (phần dành riêng cho cầu nguyện): “Mạc khải về cầu nguyện. Lời mời gọi cầu nguyện phổ quát”. Mặc dù cụm từ này chưa phổ biến lắm, nhưng nó gắn chặt với một cụm từ quen thuộc hơn: “Lời mời gọi nên thánh phổ quát trong Hội Thánh,” tiêu đề chương năm của Hiến chế Tín lý Lumen Gentium của Công đồng Vatican II. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, khi nhắc lại các giáo huấn của Công đồng Chung cuối cùng, đã muốn nhấn mạnh sự cần thiết của cầu nguyện để đạt được sự thánh thiện Kitô giáo.

Chính vì lý do này mà các thánh luôn nhấn mạnh sự cần thiết của cầu nguyện để có một đời sống tâm linh và tiến triển trong đời sống đó. Ví dụ, Thánh Têrêsa Avila đã viết: “Cách đây không lâu, một nhà thông thái lớn đã nói với tôi rằng các linh hồn không có cầu nguyện giống như một thân thể què quặt hoặc tật nguyền, dù có tay có chân nhưng không thể điều khiển được chúng”. Và Thánh Phanxicô Salê đã giảng trong một bài thuyết: “Chỉ có súc vật mới không cầu nguyện, vì vậy những ai không cầu nguyện thì giống như chúng”[15]. Còn Thánh Josémaria Escrivá thì nói: “Một vị thánh mà không cầu nguyện? Tôi không tin vào sự thánh thiện đó”[16].

 

                                                                                               Linh mục Giuse Phan Cảnh

ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa


-----------------------------

[1] Thánh Jean Damascène, De fide orthodoxa, III, 24.

[2] SainteThérèse d’Avila, Le château intérieur. Premières demeures, 1, 6. Edition espagnole dans Obras completas, « B. A. C., 212”, Madrid 1986, p. 474.

[3] Saint Josémaria, Chemin, 268.

[4] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2639.

[5] Saint Josémaria, Chemin, 91.

[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2635.

[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2699.

[8] Saint Josémaria, Chemin, 85.

[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2705.

[10] Saint Josémaria, Amis de Dieu, 307.

[11] Saint Josémaria, Amis de Dieu, 238.

[12] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2734 - 2741.

[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2746 - 2751.

[14] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2744.

[15] Saint François de Sales, Œuvres de Saint François de Sales, Évêque et Prince de Genève et Docteur de l'Église. Édition complète, Annecy 1892-1964, vol. 9, p. 62.

[16] Saint Josémaria, Chemin,107.