
THỰC HÀNH SỐNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA - ĐOẠN ĐỐI THOẠI THỨ HAI
WHĐ (14/12/2025) – Một nhà báo đã hỏi Đức Giáo hoàng Lêô XIV là nên đọc quyển sách nào ngoài sách về Thánh Augustine để hiểu ngài. Ngài nói rằng cuốn sách mô tả đời sống tâm linh của ngài trong nhiều năm đó là cuốn: “Thực hành sống sự hiện diện của Thiên Chúa - The practice of the presence of God”.
CUỘC ĐỐI THOẠI THỨ HAI
* Yêu thương là động lực của mọi sự.
* Xưa sợ hãi, nay hân hoan.
* Sự siêng năng và tình yêu. Sự giản dị là chìa khóa nhận lãnh ơn phù trợ của Thiên Chúa.
* Lo việc bên ngoài cũng như việc nhà dòng.
* Những giờ cầu nguyện và việc hãm mình không phải là cốt yếu của việc thực hành này.
* Tất cả những lo sợ được dâng lên cho Chúa
Thầy nói rằng thầy luôn được tình yêu dẫn lối mà không tìm kiếm vị kỷ bản thân. Và một khi đã quyết tâm để cho tình yêu Thiên Chúa là cứu cánh cho mọi hành động, thầy tìm được những lý do để hài lòng với phương pháp của mình. Thầy đã vui lòng cúi xuống đất nhặt một cọng rơm vì lòng yêu mến Thiên Chúa, tìm kiếm chính Ngài mà thôi, không tìm gì khác ngay cả những đặc ân.
Có một thời gian dài thầy bị giày vò trong tâm trí vì một niềm tin dai dẳng rằng thầy chắc chắn sẽ bị luận phạt đời đời. Không một ai trên đời có thể thuyết phục thầy nghĩ khác đi. Nhưng chính thầy đã tự tìm được lý lẽ cho điều này: “Tôi không bước vào đời tu vì bất cứ điều gì ngoài tình yêu Thiên Chúa. Tôi đã cố gắng làm mọi sự cho Người. Vậy thì, dù tôi được cứu hay bị hư mất, tôi cũng sẽ tiếp tục thực hiện mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Ít nhất tôi sẽ có được điều tốt đẹp này, là cho tới lúc chết, tôi biết rằng tôi đã hoàn thành tất cả trong tôi để yêu mến Người.” Thử thách ấy kéo dài bốn năm. Với thầy, đó là một khoảng thời gian đau khổ vô cùng.
Nhưng kể từ đó, Thiên Chúa đã cho thầy bước vào một đời sống hoàn toàn tự do và vui tươi liên lỉ. Thầy đặt tội lỗi của mình trước Chúa, như nó đã từng và nói với Ngài rằng thầy đã bất xứng với ân huệ Chúa ban nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục tuôn đổ trên thầy ân huệ dư tràn.
Để định hình một tập quán trò chuyện liên lỉ với Thiên Chúa, và quy hướng mọi việc về Ngài, ta phải khấn xin Chúa một chút chuyên cần. Khi ta chuyên chăm một thời gian, ta sẽ thấy tình yêu của Ngài từ bên trong thúc đẩy ta tìm đến Chúa một cách tự nhiên.
Thầy mong đợi rằng sau khi được Thiên Chúa ban cho những ngày dễ chịu thì tới lúc thầy cũng sẽ chịu tổn thương và đau khổ. Dù biết rõ điều đó, thầy cũng không hề lo lắng, vì thầy cũng chẳng thể tự mình làm gì. Bởi lẽ, Thiên Chúa sẽ ban cho thầy sức mạnh để chịu đựng điều đó.
Khi có cơ hội thực hành một nhân đức nào đó, thầy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con không thể làm điều này nếu Chúa không thêm sức cho con.”
Và thầy nói rằng mỗi lần như vậy, thầy luôn nhận được ơn đủ và dư. Khi thầy lỗi bổn phận, thầy chỉ thú nhận với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, nếu Chúa để con một mình, con sẽ chẳng bao giờ khá hơn được. Chính Chúa hãy giữ con khỏi ngã và sửa lại điều hư hỏng trong con.” Sau đó, thầy không để lòng mình băn khoăn nữa.
Thầy khuyên ta phải sống với Thiên Chúa trong sự đơn sơ tuyệt đối, nói với Ngài cách thẳng thắn, thân tình, xin Ngài trợ giúp trong mọi việc, dù nó như thế nào đi nữa. Thiên Chúa không bao giờ từ chối những lời khẩn cầu đơn sơ ấy, thầy đã nghiệm thấy biết bao lần.
Thầy kể rằng: Mới đây thầy được sai đi Burgundy để mua rượu cho nhà dòng, một nhiệm vụ mà thầy ngại đón nhận, vì thầy vốn không có khiếu buôn bán, đã vậy lại bị đau chân đến mức phải trườn mình qua các thùng rượu để di chuyển trong khoang thuyền. Nhưng thầy không lo lắng gì về sự bất tiện đó cũng như việc mua rượu. Thầy thưa với Chúa rằng đây chính là công việc của Chúa. Và cuối cùng mọi chuyện diễn tiến vô cùng suôn sẻ. Năm trước đó thầy cũng được sai đi Auvergne để làm việc tương tự. Thầy không biết mình xoay xở như thế nào, nhưng mọi thứ đã diễn ra rất tốt đẹp.
Cũng tương tự như thế với công việc bếp núc (điều mà thầy bình thường rất ngán ngẩm), thầy đã quen dần để làm mọi việc ở đó vì tình yêu Thiên Chúa. Và trong mọi hoàn cảnh, nhờ lời cầu nguyện, Thiên Chúa ban ân sủng cho thầy làm tốt mọi việc và quả thực, mọi sự đã trở nên dễ dàng trong suốt mười lăm năm thầy phục vụ tại đó.
Thầy rất hài lòng với bổn phận hiện tại, nhưng thầy cũng sẵn sàng từ bỏ nó như nhiệm vụ trước đây. Bởi lẽ thầy luôn tìm thấy sự thỏa lòng trong mọi hoàn cảnh, bằng cách làm những việc nhỏ bé vì lòng mến Chúa.
Với thầy, giờ cầu nguyện cũng chẳng khác gì giờ làm việc. Thầy lui về cầu nguyện theo sự sắp xếp của Bề trên, nhưng thầy không chủ ý tìm kiếm hay xin thêm giờ ấy, bởi lẽ ngay cả những công việc bận rộn nhất cũng chẳng thể tách thầy xa khỏi Chúa.
Thầy chia sẻ rằng: vì biết bổn phận của mình là yêu mến Chúa trong mọi sự, nên thầy không cần một người linh hướng dẫn dắt, nhưng thầy rất cần một cha giải tội để ban ơn tha thứ. Thầy ý thức rất rõ với những thiếu sót của mình nhưng không nản lòng. Thầy xưng thú với Thiên Chúa và không tìm cách biện minh. Khi đã xưng thú xong, thầy lại bình an và tiếp tục yêu mến và thờ phượng Người.
Thầy nói rằng trong những lúc khủng hoảng nội tâm, thầy chẳng hỏi ý kiến ai, mà chỉ nương theo ánh sáng đức tin rằng Thiên Chúa đang hiện diện. Thầy thỏa lòng với việc quy hướng mọi hành động về Thiên Chúa, và thực hiện chúng với ước ao làm đẹp lòng Người, mặc cho mọi sự ra sao thì ra.
Thầy khẳng định rằng những tư tưởng vô ích làm hư hỏng mọi sự; rắc rối bắt nguồn từ chính đó. Vì thế, ta phải gạt bỏ chúng ngay khi nhận thấy chúng chẳng dính dáng gì đến công việc đang làm hay ơn cứu độ của chúng ta, để quay về hiệp thông với Thiên Chúa.
Thuở ban đầu, thầy thường phải dành giờ cầu nguyện chỉ để xua đuổi những chia trí, rồi lại sa đà vào chúng. Thầy không thể rập khuôn lòng đạo đức của mình theo những phương pháp nhất định như người khác. Dù rằng lúc đầu thầy có thực hành suy niệm một thời gian, nhưng sau đó việc ấy tự nhiên dứt đi theo cách mà thầy cũng chẳng giải thích được tại sao.
Thầy cho rằng mọi việc hãm mình phạt xác hay các bài thực hành khác đều là vô ích, ngoại trừ việc chúng giúp ta kết hợp với Thiên Chúa qua tình yêu. Sau khi suy xét kỹ, thầy nhận ra con đường ngắn nhất để đến với Chúa chính là đi thẳng vào việc yêu mến Ngài và làm mọi sự vì Ngài.
Thầy nhấn mạnh sự cần thiết phải phân biệt giữa hoạt động của trí tuệ và hoạt động của ý chí. Những hoạt động của trí tuệ có giá trị chẳng là bao, trong khi những hoạt động của ý chí mới là tất cả.
Bổn phận duy nhất của chúng ta là yêu mến và tìm thấy niềm vui trong Thiên Chúa.
Mọi việc hãm mình nếu thiếu vắng tình yêu thì chẳng thể tẩy xóa nổi một tội mọn. Đừng băn khoăn lo lắng, chúng ta hãy nương nhờ Bửu Huyết Chúa Giêsu Kitô để xin ơn tha thứ, và hãy chỉ nỗ lực yêu mến Người hết lòng. Thiên Chúa dường như ban đặc ân lớn lao cho những kẻ tội lỗi nhất, như một cách biểu lộ lòng thương xót của Ngài.
Những đau khổ hay lạc thú của thế gian chẳng thể nào sánh được với những gì thầy đã nghiệm thấy trong đời sống thiêng liêng. Thầy chẳng hề bối rối hay sợ hãi gì, chỉ ước ao một mình Thiên Chúa mà thôi, và sợ nhất là làm mất lòng Ngài.
Thầy chia sẻ thêm: Tôi chẳng sợ hãi khi thấy mình lỗi bổn phận. Tôi sẵn sàng nhận lỗi và thưa với Chúa rằng: Con vốn dĩ là thế; nếu Ngài để mặc con một mình, con sẽ chẳng bao giờ làm khác được. Còn nếu tôi không sa ngã, tôi tạ ơn Chúa vì biết rằng sức mạnh ấy đến từ Ngài.
Tô Linh
Chuyển ngữ từ: basilica.ca







