Cha Cố Raphael Đỗ Đình Vượng - Một chứng nhân hy vọng

05/09/2025
67


CHA CỐ RAPHAEL ĐỖ ĐÌNH VƯỢNG MỘT CHỨNG NHÂN HY VỌNG

Năm 2025, toàn thể Giáo hội đang cử hành Năm Thánh với chủ đề: “Những người hành hương của hy vọng”. Nhân dịp lễ giỗ chẵn 20 năm Cha cố Raphael Đỗ Đình Vượng, con xin được giới thiệu với Quý Đấng Bậc và tất cả mọi người về cuộc đời của Cha cố Raphael, như một CHỨNG NHÂN CỦA HY VỌNG.

Cha cố Raphael sinh năm 1936 tại làng Bồng Trung – quê hương của Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm – vị anh hùng tử đạo của Giáo hội Việt Nam, là con thứ tám trong gia đình ông Lê-ô Đỗ Văn Sâm và bà Agata Trần Thị Hằng - một gia đình công giáo truyền thống của giòng tộc Họ Đỗ, một giòng họ có người theo đạo rất sớm từ thời vua Lê Anh Tông vào năm 1571, đó là ông Đỗ Hưng Viễn. Và một hậu duệ sau này là ông Đỗ Viên Mãn đã chịu phép rửa tội với nhà truyền giáo thời danh là Cha Alexandre de Rhodes hay còn gọi là Cha Đắc Lộ vào năm 1627 tại Cửa Bạng Ba Làng mà lịch sử Giáo Hội Việt Nam đã ghi nhận.

Với một gia đình và cộng đoàn giáo họ có đức tin truyền thống đó, cùng gương chứng nhân tử đạo của Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm, nên ngay từ nhỏ Cha cố Raphael đã được nuôi dưỡng lòng đạo đức, ý chí kiên cường, tinh thần can trung nghĩa đảm, để dù cuộc đời của Cha cố có phải đối diện muôn ngàn nghịch cảnh, thì ngài vẫn sống trọn niềm tín thác vào Chúa như MỘT CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM HY VỌNG.

Thật vậy, ngay từ những ngày đầu dâng mình cho Thiên Chúa (1946), Chú Vượng đã nhìn thấy thánh giá lấp ló nơi cuộc đời của mình. Khi được gửi vào Chủng viện Ba Làng - Thanh Hóa để học, thì chỉ ít ngày sau, Chú Vượng được trả về cho Cha Đaminh Trần Khắc Hoan, với lý do là Chủng Viện không nhận nuôi trẻ, bởi vì Chú Vượng mới 10 tuổi (sinh 1936) và gầy ốm. Dầu vậy, Chú Vượng không nản chí, thất vọng nhưng tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì hy vọng, nên Chú Vượng tiếp tục con đường của Chú đã lựa chọn. Chú Vượng được Cha nuôi (Đaminh Trần Khắc Hoan) gửi về chỗ Cha Micae Trần Khắc Vinh ở xứ Quần Xá để được học tập, chờ ngày về lại Chủng Viên. Vào năm 1950, Chú Vượng trở về Chủng Viện Thánh Giuse Thanh Hóa. Rồi những năm sau đó, Chú tiếp tục học tại Chủng Viện Hà Nội. Trong khoảng thời gian này, có những lúc Chú Vượng tưởng chừng như con đường tu trì của mình bị khép lại, vì Chủng Viện bị nhà nước đóng cửa. Mùa hè năm 1960 Chủng Viện Hà Nội bị đóng cửa không thời hạn, Thầy Vượng được Bề Trên Giáo phận sai về giúp cha Alexandre Lê Thành Thục – chính xứ Kẻ Bền, Giáo phận Thanh Hóa. Nhưng cũng chỉ được ít ngày, Thầy Vượng bị chính quyền trục xuất về gia đình. Sống với gia đình được thời gian, ngày 07 tháng 12 năm 1963, Thầy Vượng nhận được giấy triệu tập của Công An huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa với lý do là một chủng sinh Công giáo. Sáng hôm sau, Thầy Vượng bị áp giải về trại giam Cầu Cao, Thanh Hóa. Ít ngày sau khi Thầy Vượng bị bắt, thì người anh trai là ông Gioan Baotixita Đỗ Mạnh Hùng cũng bị bắt đưa về trại giam TW số 5, Lam Sơn, Thanh Hóa với lý do làm Quản Giáo của Giáo họ Bồng Trung. Đầu năm 1964, Thầy Vượng được đưa về trại cải cải tạo TW số 5 này. Trong thời gian bị giam tại đây, có lần chỉ vì đọc kinh kính mừng mà Thầy Vượng bị cùm gần một năm trời (từ 13-06-1964 đến 10-07-1965). Sau thời gian bị cùm, Thầy Vượng được chuyển về giam tại trại giam Hỏa Lò. Ngày 19 tháng 07 năm 1965, Thầy Vượng lại được đưa tới trại giam Vĩnh Tiến. Tại đây, có lúc Thầy Vượng bị giam cách ly gần 3 tháng. Ngày 24 tháng 11 năm 1968, Thầy Vượng lên đường về trại giam Phố Lu. Tù đầy ở đây được gần 4 năm, Thầy Vượng một lần nữa lại phải chuyển đến một trại giam khác, đó là trại giam Phong Quang và sau đó là trại giam Cổng Trời. Ngày 06 tháng 11 năm 1969, một tin đau buồn được thông báo cho Thầy, đó là người anh trai Gioan B. Đỗ Mạnh Hùng đã chết tại trại tù TW số 5, Lam Sơn. Đến ngày 05 tháng 09 năm 1977, Thầy Vượng được trả tự do trở về sống với gia đình. Thời gian sống tại gia đình cũng không phải là quãng đời tự do hoàn toàn, mà Thầy vẫn bị theo dõi. Dù sức khỏe không được tốt, nhưng Thầy vẫn được sắp xếp vào đội thủy lợi của Hợp Tác Xã quê nhà.

Lại cũng là 14 năm sống tại địa phương, lần đi trong đêm tối của đức tin, nhưng Thầy Vượng vẫn trung thành với ơn gọi mà mình đã lựa chọn. Thầy luôn tin tưởng vào tình thương sự quan phòng của Thiên Chúa. Dù hoàn cảnh lịch sử có đen tối thế nào đi nữa, thì Thầy vẫn luôn HY VỌNG là có ngày mình sẽ được làm Linh mục của Chúa. Khi đã là linh mục, có lần tôi hỏi ngài rằng : “lúc ở tù hay khi ở nhà, có bao giờ Cha nghĩ mình sẽ làm linh mục không ? ngài trả lời với tôi rằng : trong tù, tôi vẫn tập làm lễ, vẫn tập giảng…”. Chính câu Lời Chúa trong Thánh vịnh 73 mà ngài tâm niệm và chọn làm châm ngôn sống cho mình, đã giúp ngài vững tin và hy vọng vào sự an bài của Thiên Chúa, ngõ hầu vượt qua mọi chông gai, thử thách của cuộc đời :

“Thật con ở với Chúa luôn

Tay con Ngài nắm chẳng buông chẳng rời

Dắt dìu khuyên nhủ bao lời

Một mai đưa tới rạng ngời vinh quang”.

(Tv 73, 23 – 24)

         Quãng thời gian sống tại quê nhà, Thầy Vượng đã giúp bà con giáo họ Bồng Trung thăng tiến về mọi mặt, nhất là về việc học hỏi Giáo lý và Lời Chúa. Nhờ có sự dìu dắt, dậy dỗ của Thầy mà mọi người đều phấn khởi nổ lực sống đạo, để xứng đáng là con cháu của Cha thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm. Bên cạnh đó, phải kể đến việc Thầy Vượng ra sức sửa sang lại khuôn viên Đền Thánh, phù hợp với điểm hành hương kính viếng Cha thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm mỗi ngày một đông hơn. Đặc biệt, Thầy đã cho đắp tượng Cha Thánh và xây đôn đặt trước mặt tiền Đền Thánh. Tượng Cha Thánh được làm với kích thước cao hơn 2m, đôn cao hơn 3m. Dù biết sẽ gặp rất nhiều khó khăn, có khi sẽ bị bắt tập trung trở lại, nhưng Thầy Vượng vẫn tin tưởng vào sự bầu cử của Cha Thánh, nên vẫn quyết tâm thực hiện. Giai đoạn làm tượng Cha Thánh đúng vào lúc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chuẩn bị phong hiển thánh cho 117 vị thánh tử đạo Việt Nam, trong đó có Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm. Không hiểu Thầy Vượng có biết trước về việc phong thánh hay không, mà Thầy đã cho khởi công đắp tượng Cha Thánh vào ngày 18 – 10 – 1987. Vì hoàn cảnh khó khăn, nên tượng Cha Thánh được làm vội vàng trong vòng 11 ngày, mà phải làm tại phòng áo của Đền Thánh. Nhưng rồi sự việc cũng bị phát giác. Và ngày 21 – 04 – 1988, tượng Cha Thánh bị chính quyền địa phương tịch thu và đưa về Uỷ Ban xã Vĩnh Tân. Thầy Vượng nói với giáo dân là Cha Thánh lại bị bắt và nhốt tại Uỷ Ban, nên bà con hãy ra đó đọc kinh vào các buổi sáng tối hằng ngày. Sau gần một tháng, thì cấp trên đã lệnh cho chính quyền địa phương phải trả lại tượng Cha Thánh cho giáo họ Bồng Trung. Tối ngày 10 – 05 – 1988, toàn thể giáo dân họ Bồng Trung đã hân hoan đi rước Cha Thánh trở về Đền Thánh trong tiếng ca vui sướng. Ngày 01 – 09 – 1988, tượng Cha Thánh được làm phép cách trọng thể tại cung thánh của Đền Thánh. Đầu năm 1989, tượng Cha Thánh được đưa ra ngoài sân thượng chờ ngày đưa lên đôn. Chỉ vọn vẹn có 3 ngày, phần đôn được xây dựng xong. Đến ngày 27 – 02 – 1989, tượng Cha Thánh được đưa lên đôn, đứng sừng sững trước mặt tiền Đền Thánh như sẵn sàng phù hộ cho những ai đến cầu xin. Sau khi tượng Cha thánh được đưa lên đôn, chính quyền lại một lần nữa đến sách nhiễu và bắt phải hạ xuống. Lúc này, Thầy Vượng lại phải đương đầu với thử thách. Cuối cùng thì việc Chúa đã khởi sự, Người sẽ cho hoàn thành. Vài tháng sau đó, Thầy Vượng còn cho khởi công xây dựng hang đá lộ đức để tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria, người mà Thầy đã gắn bó và chọn làm Đấng Bầu Cử cho cuộc đời mình. Việc làm này cũng khiến Thầy phải nhiều phen chao đảo, vì sự sách nhiễu của chính quyền. Nhưng tất cả đều phải khuất phục trước tình yêu và lòng mến của Thầy.

         Đúng như xác tín của Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại : “ Ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Như có lời chép : chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng : cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35 – 39). Cuộc đời của Thầy Vượng cũng đã thể hiện niềm xác tín đó.

         Bên cạnh đó, vì khuôn viên Đền Cha Thánh Năm quá chật hẹp, nên Thầy Vượng đã cùng với Ban Hành Giáo họ Bồng Trung mua thêm các gia đình xung quanh, với sự chấp thuận của cha chính xứ Kẻ bền lúc bấy giờ là cha Alex. Lê Thành Thục. Từ diện tích ban đầu khoảng 800m2, đến năm 2003 khuôn viên Đền Thánh xấp xỉ được 1,500m2.

Ngoài những điều trên đây, Thầy Vượng còn kêu gọi và khích lệ nhiều người tiếp bước theo Chúa Giêsu trong đời sống tu trì, để tận hiến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Chỉ tính riêng trong giáo họ Bồng Trung nhỏ bé với 250 giáo dân, đã có 12 người nữ tu và một linh mục. Thầy còn là chốn tựa nương của những ai gặp rủi ro trong cuộc sống, như ốm đau, bệnh tật, có khi là những bệnh nan y mà các bác sỹ đã bó tay, hay khi họ bị mất của cải. Tất cả đều đến cùng Thầy, để xin Thầy khấn cùng Cha Thánh Giacôbê Đỗ Mai Năm. Không ai là người phải ra về tay không mỗi khi đến cậy nhờ Thầy khấn xin. Về những sự lạ, xin được để trình bày vào một dịp khác, vì có nhiều chứng cứ mà Thầy Vượng để lại.

         Những ngày hè năm 1991 là những ngày đau đớn thể xác mà Thầy Vượng phải vật lộn với cơn bệnh sốt rét. Gần 2 tháng trời nằm trên giường bệnh, lúc tỉnh lúc mê, Thầy Vượng tưởng như mình sẽ không qua khỏi. Nhưng rồi ơn Chúa được ban xuống cho Thầy, có lẽ nhờ lời cầu nguyện của mọi người, nhất là người mẹ khổ đau – yêu quý của Thầy. Lúc Thầy Vượng đỡ bệnh cũng là lúc Thầy được Bề Trên địa phận gọi về Tòa Giám Mục với sự chấp thuận của Chính Quyền. Dù sức khỏe chưa ổ định trở lại, nhưng Thầy Vượng vẫn mau mắn lên đường với lòng hân hoan, vui sướng. Vì không còn lý do gì để chần chừ nữa. Lý tưởng ấp ủ bấy lâu, nay sắp được thành toàn. Ngày 20 tháng 08 năm 1991, Thầy Vượng từ giã Mẹ già dấu yêu cùng anh em, cháu, chắt để lên đường về Tòa Giám Mục Thanh Hóa. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, chỉ một tháng thôi, sự đau thương hay gọi là thử thách lại đến với Thầy. Người Mẹ già với hơn 90 tuổi, chăm lo cho 9 người con ruột và 2 người con nuôi, với bao lần khóc thương tiễn đưa con mình : đứa thì chết khi vừa lọt lòng mẹ ; người khi mới lên 12 ; kẻ thì mới cưới vợ ; người khác thì mất khi tuổi đời con gái đang tuổi đôi mươi - mà lại là đứa con gái duy nhất ;  kẻ khác thì bỏ xác ở trại tù TW số 5 – Lam Sơn ; ngay cả người chồng cũng bỏ bà ra đi để lại lũ cháu đàn con, khi ông mới 43 tuổi đời. Người Mẹ già ấy đã bao lần lặn lội vượt suối băng rừng, hàng trăm cây số để thăm và tiếp tế cho hai đứa con yêu quý ở trong chốn lao tù vì đạo Chúa. Nay người Mẹ đó đã an nghỉ trong Chúa. Mẹ an nghỉ trong Chúa là phúc cho Mẹ, nhưng chỉ thương cho Thầy. Tiếc rằng người Mẹ đó không được trông thấy ngày Thầy mặc phẩm phục Linh Mục – lom khom bước lên bàn thánh Chúa. Song, đó có khi lại là điều Thiên Chúa muốn. Chúa muốn cho Mẹ được nhìn thấy con tiến lên lãnh nhận thiên chức linh mục không phải từ dưới trần gian, mà là từ trên Thiên Quốc.

         Ngày hạnh phúc đã đến. Ngày mà Thầy Vượng đã chờ đợi gần 30 năm qua trong gian lao, khốn khổ. Ngày 23 – 12 – 1992, Thầy Raphael Đỗ Đình Vượng được Đức Cha cố Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm phong chức linh mục, trong niềm hân hoan vui sướng của hàng ngàn người con dân Thanh hóa đang hiện diện và cả giáo phận nói chung, cách riêng cho gia đình thân tộc của Thầy. (Lúc bấy giờ, Đức cha cố Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lam đang làm Giám mục chính toà Giáo phận Đà Lạt, nhưng sắp được Toà Thánh thuyên chuyển về coi sóc Giáo phận Thanh hoá. Đến ngày 24-06-1994, Đức cha Bart. Nguyễn Sơn Lâm về nhận địa phận. Đức Cha cố Bart. Nguyễn Sơn Lâm cũng là người anh linh tông của Cha cố Raphael).

         Sau khi Thầy Vượng thụ phong linh mục, Bề Trên địa phận đã sai ngài về giúp cha già Phaolô Nguyễn Thái Bá tại giáo xứ Tam Tổng. Rồi khi địa phận đã có Đức cha Bart. Nguyễn Sơn Lâm làm Giám mục chính tòa, Cha Raphael đã được đặt làm linh mục chính xứ Giáo xứ Hữu Lễ, một giáo xứ phía Tây của giáo phận, giáp danh với nước Lào anh em, có nhiều người dân tộc thiểu số… với số giáo dân xấp xỉ 10,000 người. Với 4 năm phục vụ tại đây, Cha Raphael đã xây dựng được một cộng đoàn hiệp nhất. Nhiều hội đoàn đã đi vào sinh hoạt nề nếp. Mọi người đều biết mở và đọc Kinh Thánh. Khi đã ổn định cho một giáo xứ gần 10,000 giáo hữu, Cha Raphael lại được lệnh lên đường về nhận một nhiệm sở mới, đó là giáo xứ Kẻ Rừa. Đây là một Giáo xứ kỳ cựu, trải qua nhiều đời cha coi sóc, có tới 12 giáo họ ở cách xa Nhà thờ xứ. Vì thế, nhiệm vụ của Cha Raphael là gìn giữ những công trình mà các vị tiền nhiệm đã dày công xây đắp, đồng thời phải biết giúp Giáo xứ học hỏi và đi theo đường hướng của Công Đồng Vatican II, nhất là thực thi ý muốn của Đức Giám Mục khả kính. Với hơn 7 năm phục vụ giáo hữu xứ Kẻ Rừa, Cha Raphael cũng đã làm được nhiều việc cho người giáo dân cũng như lương dân. Ngài không chỉ chăm lo đời sống đạo hạnh, giữ gìn gia phong – lễ nghĩa cho giáo hữu, mà còn quan tâm đến nhu cầu đời sống thể xác của họ, sự học hành, sức khỏe của con cái họ…Ngoài những việc đó, Cha Raphael cũng đã sửa sang, trùng tu, để rồi mời Đức Cha giáo phận về cung hiến ngôi nhà thờ xứ Kẻ Rừa. Nhiều ngôi nhà thờ giáo họ cũng đã được tái tạo cho xứng nơi thờ phượng Thiên Chúa. Đặc biệt, với nhiều công sức bỏ ra, cộng với sự nhẫn nại, Cha Raphael đã thành công trong việc xin đất và xây dựng ngôi thánh đường mang nét văn hóa Á Đông, để kính thánh Annê Lê Thị Thành, tại thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chỉ tiếc một điều là ngài chưa hoàn thành được ước nguyện của mình, đó là hoàn thành ngôi thánh đường trên. Bên cạnh đó, cha Raphael cũng đã tư vấn và giúp cho cha phó Phaolo Ngân Nguyễn Ngọc Ngân thi công ngôi nhà thờ họ Đa Nam mà nay đã thành Giáo xứ Đa Nam.

Sau những năm tháng miệt mài với sứ vụ mục tử tại giáo xứ Kẻ Rừa, một lần nữa Cha Raphael lại được lệnh lên đường đi nhận nhiệm sở mới, mặc cho còn nhiều việc dở dang ; những ngôi thánh đường đang xây dựng : Đức Tâm (Bỉm Sơn), Đa Nam ; những dự án chưa hoàn thành : nhà thờ họ Đông Sơn, Chợ Huyện, Ngọc Lâu thuộc xứ Kẻ Rừa, con đường bê tông trước nhà thờ xứ Kẻ Rừa….Tất cả đều để lại phía sau, mau mắn lên đường theo bài sai của Đức Giám Mục giáo phận.

Nhiệm sở mới mà ngài phải đến là giáo xứ Sầm Sơn, một giáo xứ ở giữa một thị xã du lịch đầy thử thách. Như những nơi phồn hoa đô thị khác trên thế giới, đồng tiền có một sức mạnh vạn năng, sai khiến lòng người trở nên mù quáng. Nơi nào tiền bạc lên ngôi thì lòng đạo đức sẽ xuống dốc. Vì thế, mà Chúa Giêsu đã chẳng nói : “ Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24). Suy gẫm Lời Chúa trên và cộng với trách nhiệm của người mục tử, nên lòng Cha Raphael luôn khắc khoải lo cho phần rỗi các linh hồn mà mình vừa được Bề Trên địa phận trao phó. Những tha thiết mong mỏi của Cha, không những chỉ cho giáo dân mình coi sóc mà cả những tông đồ tương lai của Giáo Hội là những Chủng sinh – Linh mục, vì ngài làm chủ tịch uỷ ban ơn gọi của Giáo phận. Tất cả những sứ vụ đó đã đè nặng trên con người già yếu của Cha, một con người vốn đã mang trong mình nhiều bệnh tật do những năm tháng tù đầy để lại. Vì thế, vào thứ 7, ngày 03-09-2005, Cha cố Raphael phải đi đường mệt nhọc để đưa các thầy Thanh hoá vào nhập học tại Đại Chủng Viện Vinh – Thanh, và một đêm mất ngủ vì lo âu, sáng Chúa nhật, ngày 04-09 cha cố lại phải dâng lễ sáng sớm cho người lớn, dâng lễ cho thiếu nhi và rửa tội cho trẻ mới sinh, làm sổ gia đình…..Làm xong bấy nhiêu việc bổn phận, vào lúc 12h50 Chúa nhật, ngày 04-09-2005, Cha Raphael đã ra về cùng Chúa, Đấng mà suốt đời Cha Raphael trung tín tôn thờ. Lần này Cha Raphael cũng được lệnh lên đường, nhưng không phải là di dời không gian trong trần thế, mà là lên đường về Nhà Cha của chúng ta, Nhà Cha trên Nước Trời, nơi đó Cha được gặp lại tất cả những người thân yêu và là nơi an nghỉ trong Chúa muôn đời. Chúng ta xin chúc mừng ngài, tri ân ngài.

         Sau cái chết của Cha Raphael, mọi người ghi nhận những công đức của ngài. Người thì nhắc lại sự tận tụy, lòng trung thành của Cha, người thì khẳng định về sự thánh thiện, lòng mến yêu Hội Thánh là những nét nỗi bật trong cuộc đời của Cha. Tất cả đều dành cho ngài một sự kính trọng đặc biệt, một sự ngưỡng mộ về một người mục tử mà là người mục tử như lòng Chúa mong ước. Ai cũng cảm thấy tiếc thương. Tiếc thương cho Hội Thánh Chúa, cho Đức Cha giáo phận, cho linh mục đoàn, nhất là cho hàng con cái linh tông và huyết tộc. Vì từ nay, họ mất đi một người cha, một người thầy đáng kính, là chỗ dựa vững chắc cho đời họ. Khắp nơi trong giáo phận đều bày tỏ lòng thương tiếc. Các nhà thờ ở những Giáo xứ mà Cha cố đã từng phục vụ đều có thánh lễ cầu nguyện cho ngài. Người người thay nhau lên thắp những nén nhang tưởng nhớ đến ngài. Cuộc đời của ngài được mọi người nhìn nhận và đánh giá chân thật về tất cả những gì mà ngài đã sống, đã thi hành. Từ Đức Hồng Y Giuse Phạm Đình Tụng, Đức Cha Giáo phận Giuse Nguyễn Chí Linh, đến những người bạn của ngài như Cha Giuse Nguyễn Quang Huy, Cha Phêrô Vũ Tiến Phúc, anh em nhà Gioan Hà Nội, linh mục đoàn giáo phận cùng mọi giáo hữu trong hay ngoài giáo phận – những người đã một lần gặp ngài, và ngay cả những người lương dân ở quê hay những nơi mà Cha Raphael đến phục vụ, tất cả đều ghi nhận tấm gương nhân đức của ngài. 

         Qua tất cả những điều trên, chúng con nhận thấy cuộc đời của CHA CỐ RAPHAEL LÀ MỘT CHỨNG NHÂN HY VỌNG.


Bồng trung, ngày 04-09-2025

Ngày lễ giỗ chẵn 20 năm Cha cố Raphael Đỗ Đình Vượng
Lm. Raphael Đỗ Minh Tuấn
Hình ảnh lễ giỗ cha cố Raphael