MỘT CÁCH TIẾP CẬN CHÚA THÁNH THẦN TRONG MẦU NHIỆM BA NGÔI

08/02/2025
75


 

DẪN NHẬP

Hai Kinh Tin Kính nhắc đến Thánh Thần:

• Một nhắc đến đơn giản trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ, với những điều sau đây như là những lời tuyên xưng vào Chúa Thánh Thần: “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, vào Hội Thánh Công Giáo, vào sự hiệp thông của các thánh, vào sự tha thứ tội lỗi, vào sự sống lại của thân xác, vào sự sống đời đời”.

• Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople đề xuất một phát triển khá dài:  “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống; Ngài phát xuất từ Cha và Con, cùng với Cha và Con, Ngài nhận sự tôn thờ và vinh quang như nhau, Ngài đã phán qua các ngôn sứ…”. Sự phát triển này xuất phát từ công đồng Constantinople (381), chúng ta sẽ tìm hiểu những điểm sau về Thánh Thần.

1. Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh;

2. Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

3.  Những suy tư thần học về Chúa Thánh Thần.

4. Chúa Thánh Thần trong Niềm Tin của Công đồng Nicê-Constantinople.

1. Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh

Trong Kinh Thánh, ChúaThánh Thần được gọi là "ruah" (tiếng Hebrew), "pneuma" (tiếng Hy Lạp), "spiritus" (tiếng Latin), và đồng thời có nghĩa là "hơi thở", "gió".

• Như là "hơi thở", Chúa Thánh Thần liên quan đến hơi thở của sự sốngvà sự hô hấp. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao Biểu Tượng Nicée-Constantinople nói về Chúa Thánh Thần như là Đấng "ban sự sống", Đấng làm sống lại.

• Như là "gió", Chúa Thánh Thần biểu thị một sức mạnh mà chúng ta không kiểm soát được, không biết nguồn gốc hay mục đích. Đây là điều chúng ta thấy trong Tin Mừng Gioan (3, 8), khi Chúa Giêsu trò chuyện với Nicôđêmô về phép rửa: "Gió thổi đâu nó muốn và ngươi nghe tiếng của nó (sự thổi mạnh), nhưng ngươi không biết nó đến từ đâu và đi đâu" ( Ga 3,8 ).

a.    Cựu Ước

Cựu Ước nói đến Chúa Thánh Thần như là sức sống của Thiên Chúa qua đó Ngài hành động và làm cho người khác hành động:

• Ngài hành động xuyên suốt lịch sử Kinh Thánh:

 • Trước khi tạo dựng vũ trụ, Ngài bay lượn trên mặt nước, trên cơn hỗn loạn (St 2, 2).

• Ngài ban sự sống cho Ađam: "Thiên Chúa thổi vào mũi ông hơi thở sự sống và con người trở thành một sinh vật sống" (St 2, 7); Ngài là nguồn gốc của sự can thiệp của Thiên Chúa với con người.

• Ngài chiếm đoạt một số người để họ phục vụ Thiên Chúa:

 • Ngài đi cùng các quan tòa và thúc đẩy họ (Tl 3, 10; 6, 34; 11, 29; 13, 25);

• Ngài chọn vua Sa-ul và Đa-vít (1 Sm 10, 6.10; 16, 13);

• Ngài chọn các ngôn sứ (Ds 24, 2; Êd 11, 5);

Ngài tỏ mình như một sức mạnh chiếm lấy một số người và làm cho họ có khả năng thực hiện những hành động đặc biệt. Hành động của Ngài trở nên nội tâm hơn nơi các ngôn sứ vĩ đại, những người loan báo Đấng Mêsia mà Ngài sẽ ngự trên (Is 11, 2) và sự lan tỏa đến tất cả mọi người (Is 32,15; Giôen 3, 1-5). Cuối cùng, việc đổi mới dân Israel được thể hiện qua việc Thiên Chúa sẽ ban cho mỗi người một thần trí mới (Êd 11, 19), Ngài sẽ phục sinh dân tộc này, mang sự sống cho những xương khô (Êd 36, 26; 37, 5).

b.    Tân Ước

Theo Tân Ước, Chúa Thánh Thần là đối tượng của một sứ mệnh. Ngài đồng hành cùng Chúa Giêsu suốt cả cuộc đời Ngài:

 • Ngài là Đấng mà sức mạnh của Ngài đã khiến việc nhập thể của Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh nữ Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà".

 • Ngài ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình dáng một chim bồ câu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan (Lc 3, 22). Phép rửa này không phải là một cảnh tượng gọi mời, mà là sự tấn phong của Đấng Mêsia và sự trình diện của Thiên Chúa về Con Ngài, Đấng mà Ngài đã giữ kín;

• Sau đó Ngài dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa (Lc 4, 12).

Trong suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu không ngừng hành động trong Thánh Thần (Mt 4, 1; 12, 28; Lu-ca 4, 18) và hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ của Ngài (Ga 14, 16; 16, 7). Sau khi chết và phục sinh, Chúa Giêsu ban tặng Thánh Thần cho Giáo Hội (khi Ngài trao Thánh Thần trên thập giá; vào buổi tối Phục Sinh, khi Ngài ban Thánh Thần cho các môn đệ, liên kết sự ban tặng này với việc tha thứ tội lỗi). Ngài là sức mạnh đẩy Giáo Hội mới ra đi đến tận cùng trái đất; nghĩ đến những ngọn lửa bùng cháy trên đầu các tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thỉnh thoảng Ngài trực tiếp tác động lên người ngoại giáo (Cv 10, 44), chứng tỏ rằng Ngài là "Đấng vượt  trên mọi xác phàm" (Cv 2, 17); đôi khi Ngài sai đi những người Ngài chọn (Cv 8, 26). Nhưng Ngài không chỉ hiện diện từ đầu: Ngài đồng hành và hướng dẫn hành động của các tông đồ (Cv 16, 6), Ngài ban cho quyết định của họ thẩm quyền của Ngài (Cv 15, 28). Nếu Lời Chúa "tăng trưởng và phát triển" (Cv 6, 7), thì nguồn lực bên trong của sự thúc đẩy trong niềm vui chính là Chúa Thánh Thần (Cv 13, 52).

Chúa Thánh Thần vì vậy là một sức mạnh khiến sự sống không ngừng phát sinh và phục sinh. Ngài là Đấng đồng hành không mệt mỏi và cảm hứng những sự lựa chọn cho cuộc sống đối với những ai sẵn lòng lắng nghe Ngài. Đây là một sức mạnh của sự sống.

2. Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần xuất hiện như thế nào?

Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần là Đấng hành động trong lòng con người:

"Đức Ái của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta" (Rm 5, 5).

"Thật vậy, tôi nói với anh em, hãy để cho Thánh Thần dẫn dắt và anh em sẽ không làm theo những dục vọng của xác thịt... Hoa quả của Thánh Thần là tình yêu, vui mừng, bình an, nhẫn nại, phục vụ, nhân hậu, tín nhiệm vào người khác, dịu dàng, tự chủ... Vì Thánh Thần là sự sống của chúng ta, vậy Thánh Thần cũng giúp chúng ta hành động" (Ga 5, 16; 22-23; 25).

Dựa vào những đoạn Kinh Thánh này, có thể thấy rõ rằng Chúa Thánh Thần liên quan đến mầu nhiệm của tình yêu, vì chính Ngài là Đấng tạo ra tình yêu trong lòng con người và làm cho mọi tín hữu trở thành con cái của Thiên Chúa. Như thánh Augustinô đã khẳng định: "Chúa đã ban cho ngươi Thánh Thần của Ngài, làm sao ngươi biết được? Hãy hỏi chính trái tim ngươi: nếu trái tim ngươi đầy tình yêu, ngươi đã có Thánh Thần của Thiên Chúa" [1]. Và vì thế, nhiều nhà thần học Kitô giáo (như Augustinô, Bonaventure, Thoma Aquinô) đã hiểu và suy nghĩ về Chúa Thánh Thần như là tình yêu của Thiên Chúa được trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con, như là mối liên kết tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Cha là món quà vô giá và vô tận, là nguồn gốc ban phát không giới hạn; Chúa Con là sự đón nhận món quà đó mà không có sự kháng cự hay chướng ngại nào, Ngài là Con Vĩnh Cửu khi đón nhận hoàn toàn từ Chúa Cha; còn Chúa Thánh Thần là sự trao đổi yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, là nụ hôn của Chúa Cha và Chúa Con, là "chúng ta" của Ba Ngôi.

Chính thánh Augustinô là người mở ra con đường cho những suy tư như vậy. Theo Ngài, Chúa Thánh Thần được sở hữu chung bởi Chúa Cha và Chúa Con, Ngài là Thánh Thần duy nhất của cả hai [2]. Ngài là Thánh Thần của Chúa Cha, như được nhắc đến trong một số đoạn của Tân Ước:

"Chẳng phải các con nói, mà chính Thánh Thần của Cha các con sẽ nói trong các con" (Mt 10, 20; Rm 8, 11).

Nhưng Ngài cũng là Thánh Thần của Chúa Con: “Và bằng chứng các con là con cái Thiên Chúa là Chúa Giêsu đã sai Thánh Thần của Con Ngài vào trong lòng chúng ta, Thánh Thần kêu lên 'Abba, Cha ơi!” (Ga 4, 6).

Đối với thánh Augustinô, Chúa Thánh Thần là một thực tại chung của Chúa Cha và Chúa Con, đồng thời cũng khác biệt với mỗi Ngôi vị. Từ đó, thánh Augustinô nhìn nhận Ngài là tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu chung của Chúa Cha và Chúa Con:

·       “Tình yêu đến từ Thiên Chúa và chính là Thiên Chúa, chính là Chúa Thánh Thần: chính qua Ngài mà tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa vào trong lòng chúng ta, qua đó toàn thể Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta” [3].

·       “Chúa Thánh Thần không chỉ là Thánh Thần của Chúa Cha, cũng không chỉ là Thánh Thần của Chúa Con, mà là của cả hai: qua đó, Ngài dạy chúng ta tình yêu chung của Chúa Cha và Chúa Con mà qua đó có mối tương quan lẫn nhau” [4].

Con đường mà thánh Augustinô mở ra đã được tiếp nối bởi thánh Bonaventure trong trường phái Phan Sinh (thần học gia thế kỷ XIII, cùng thời với thánh Thoma). Ngài viết: “Nhưng tình yêu là Chúa Thánh Thần không xuất phát từ Chúa Cha vì Ngài yêu chính mình, cũng không từ Chúa Con vì Ngài yêu chính mình, mà xuất phát từ sự yêu thương giữa hai Ngài, vì Ngài là mối liên kết, là sợi dây; vì thế, Chúa Thánh Thần là tình yêu mà qua đó, Đấng yêu hướng về Đấng được yêu” [5].

Và rồi thánh Thoma Aquinô cũng đã tiếp nhận chủ đề Chúa Thánh Thần là “tình yêu lẫn nhau” và là “mối liên kết” của hai Ngôi Thiên Chúa: “Chúng ta nói đúng khi cho rằng Chúa Thánh Thần là mối liên kết giữa Chúa Cha và Chúa Con vì Ngài là tình yêu... Là tình yêu, Chúa Thánh Thần khơi dậy một mối quan hệ qua lại giữa Chúa Cha và Chúa Con, mối quan hệ giữa Đấng yêu và Đấng được yêu. Nhưng vì Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau, thì mối tình yêu chung đó, chính là Chúa Thánh Thần, phải xuất phát từ cả hai”[6].

Từ truyền thống này, có thể nghĩ về Chúa Thánh Thần như là sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, như là quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần có thể được xem như “hơi thở sự sống của Thiên Chúa, món quà ban sự sống qua việc ban cho khả năng yêu thương bằng chính tình yêu mà chúng ta được yêu” [7] như nhà thần học Louis Bouyer đã nhận định.

3. Những suy tư thần học về Thánh Thần

Chúng ta cần nhấn mạnh tính cách bí ẩn của Chúa Thánh Thần, tính chủ quan của Ngài. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội và đã được phát hiện lại trong thần học phương Tây vào thế kỷ 20.

Trước hết, điều nổi bật về Thánh Thần là tính cách bí ẩn của Ngài. Một nhà thần học Chính thống giáo, Olivier Clément, đã gọi Ngài là “vô danh”. Ngài không có khuôn mặt, không thể nắm bắt được, như những hình ảnh trong Kinh Thánh mượn từ thiên nhiên để chỉ Ngài:

  • Hơi thở (Ga 3, 8: "Gió thổi đi nơi nào nó muốn, và ngươi nghe được tiếng của nó, nhưng không biết nó từ đâu đến và đi đâu. Cũng vậy, mọi người sinh ra từ Thánh Thần là như vậy")
  • Nước sống (Is 44, 3-4: "Vì ta sẽ rải nước trên đất khô khát và các dòng suối trên đất khô cằn, ta sẽ rải Thánh Thần của ta trên dòng giống của ngươi và phúc lành của ta trên con cháu của ngươi")
  • Chim bồ câu (trong câu chuyện về Chúa Giêsu chịu phép rửa Mc 1, 10; Mt 3, 16; Lc 3, 22 và Ga 3, 32)
  • Ngọn lửa (trong ngày lễ Ngũ Tuần trong Cv 2, 3). Những phép ẩn dụ này cho thấy rằng:

-       Chúa Thánh Thần, trong hành động sinh động và sáng tạo của Ngài, là một lực lượng, như gió hay cơn bão, làm thay đổi, lạ lẫm và dẫn dắt đến những chân trời bất ngờ, di dời núi non, mở ra hy vọng.

-       Chúa Thánh Thần và các công việc của Ngài là những thực tại, như nước hay lửa, thanh tẩy, vui mừng, làm ấm, làm dịu, sinh sản và phục hồi sự sống, khai sinh một sự sống mới, được đổi mới.

-       Chúa Thánh Thần vẫn là một thực tại vượt ra ngoài chúng ta, khác biệt hoàn toàn, mà chúng ta không thể nắm bắt được. Ngài không mang hình hài con người, khác với Chúa Con. Chính vì thế, nhà thần học Moltmann đã viết: “ Nhận biết được nhân cách của Thánh Thần là vấn đề khó khăn nhất trong học thuyết Ba Ngôi nói chung”.

Chính vì vậy, truyền thống Kitô giáo đã tiếp cận với Chúa Thánh Thần và thần tính của Ngài một cách hết sức thận trọng. Cyril thành Jerusalem khẳng định rằng “không cần phải tìm kiếm một định nghĩa chính xác về bản chất hay hypostasis của Ngài”. Nếu Grégoire thành Naziane không có bất kỳ sự dè dặt nào đối với thần tính của Chúa Thánh Thần, thì Ngài vẫn rất ý thức rằng không thể giải thích cách thức Ngài là Thiên Chúa. Những phép ẩn dụ đã được nhắc đến và sử dụng bởi Truyền thống để nói về Chúa Thánh Thần, vẫn rất chính xác, vì chúng diễn tả thầm lặng khía cạnh không thể thấu hiểu và huyền bí của Ngài. Chính vì thế, Olivier Clément có một nhận xét tuyệt vời:

Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa bí ẩn, Thiên Chúa nội tâm, sâu thẳm hơn cả sự sâu thẳm nhất của chúng ta. Ngài ban sự sống cho mọi sự vật và chúng ta hít thở Ngài mà không hay biết, Ngài là hơi thở của Thiên Chúa trong hơi thở của thế giới, trong hơi thở của con người [8].

Nếu Chúa Thánh Thần không nói, Ngài khiến cho những người mà Ngài truyền cảm hứng lên tiếng (Cv 2, 4), Ngài là nguồn gốc của lời cầu nguyện của người tín hữu (Rm 8, 15) và chính Ngài cho phép cầu khẩn Chúa Kitô (1 Cr 12, 3). Ngài là Đấng truyền cảm hứng. Ngài không ở đối diện với chúng ta, mà ở trong chúng ta. Ngài ngự trong chúng ta từ bên trong, là Đấng kết nối chúng ta với Chúa Kitô. Theo cha Sesboüé, Ngài là “Đấng làm cho Cha và Con ngự trong chúng ta, trong sâu thẳm của ý thức chúng ta”, Ngài là “mối liên kết tạo nên sự hợp nhất trong tất cả những người Ngài ngự, giống như trong Ba Ngôi” [9]. Do đó, chúng ta có thể nói theo cha Sesboüé, rằng nếu Chúa Kitô đại diện cho khía cạnh khách quan của Mặc Khải, Ngài đã hiện diện bằng cách trở thành một trong chúng ta, thì Chúa Thánh Thần đại diện cho khía cạnh chủ quan: Ngài hiện diện sâu thẳm trong ý thức của chúng ta và trong Giáo hội.

Trên thực tế, chúng ta phải nhìn nhận hành động của Ngài không chỉ trong lòng mỗi tín hữu, mà còn trong lòng Giáo hội. Hãy nhớ rằng trong Kinh Tin Kính, Giáo hội là một yếu tố trong phần liên quan đến Chúa Thánh Thần: "Tôi tin vào Thánh Thần, vào Giáo hội công giáo, vào sự thông công các thánh". Dưới đây là hai trích dẫn điển hình từ truyền thống cổ xưa:

  • Chúa Thánh Thần ban cho các môn đệ, chính Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội những ân huệ giống như những viên ngọc, Ngài là Đấng tạo ra các tiên tri trong Giáo hội, ban cho những ngôn ngữ, đem lại sức mạnh và sự lành mạnh, thực hiện các phép lạ, giúp phân biệt các thần linh, hỗ trợ những người lãnh đạo, truyền cảm hứng và cho các lời khuyên, chuẩn bị những ân huệ khác của ân sủng. Như vậy, Ngài hoàn thiện và hoàn thành Giáo hội của Chúa ở khắp mọi nơi và trong mọi người.
  • Chúa Thánh Thần cũng như linh hồn đối với cơ thể, là Thánh Thần đối với Thân thể của Chúa Kitô là Giáo hội. Chúa Thánh Thần làm trong toàn thể Giáo hội những gì linh hồn làm trong các chi thể của một cơ thể.

Có thể nói rằng Chúa Thánh Thần làm trong Giáo hội những gì Ngài làm trong Chúa Ba Ngôi: Ngài tạo dựng mối quan hệ trong sự tôn trọng sự khác biệt. Điều này có thể được hiểu ở hai cấp độ: Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở thành một cộng đồng các nhân vị; Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở thành một cộng đồng các Giáo hội địa phương.

Thật không may, Giáo hội đã quên đi vai trò của Thánh Thần trong mình suốt nhiều thế kỷ, vì vậy, sự nhấn mạnh gần như duy nhất vào chiều kích thể chế. Trong giáo lý của Công đồng Trento, Giáo hội được định nghĩa là “cộng đồng của tất cả các tín hữu do Chúa Giêsu Kitô thành lập, được cai quản bởi Đức Giáo hoàng và các giám mục liên kết với Đức Giáo hoàng”, từ đó có một cái nhìn về Chúa Thánh Thần.

4.  Chúa Thánh Thần trong Niềm Tin của Công đồng Nicê-Constantinople

• Những khẳng định của Công Đồng Constantinople

Dần dần, Giáo Hội đã làm rõ giáo lý của mình về Chúa Thánh Thần, một sự làm rõ đã được thể hiện tại Công Đồng Constantinople vào năm 381. Trong giai đoạn trước Công Đồng, Thần tính ( Divinité ) của Chúa Thánh Thần đã bị nhiều trường phái thần học nghi ngờ, vì vậy Giáo Hội đã phải lên tiếng. Giáo Hội đã phải làm rõ rằng Chúa Thánh Thần không phải là một trung gian đơn giản giữa Chúa Cha và Chúa Con, cũng không phải là một ân huệ vô danh: Ngài là chính ân huệ của Thiên Chúa, Ngài là Đấng ban sự sống. Ngài có một bản sắc riêng, Ngài là một Ngôi Vị Thiên Chúa. Những chỉ dấu cho thấy Ngài không phải là một thực thể vô danh có thể tìm thấy trong các văn bản Tân Ước:

  • Thánh Phaolô nói rằng Ngài phân phát các ân huệ theo ý muốn của Ngài (1 Cr 12, 11);
  • Ngài cầu nguyện trong chúng ta (Rm 8, 26-27);
  • Theo Tin Mừng Gioan, Ngài dạy dỗ và nhắc lại những điều Chúa Giêsu đã nói với chúng ta (Ga14, 26).

Công Đồng khẳng định Thần tính này qua 5 bước:

  • Chúa Thánh Thần được gọi là "Thánh", vì chỉ có Thiên Chúa mới là "thánh"; vì vậy, ChúaThánh Thần không phải là một thụ tạo, khác với các thiên thần là những linh hồn, nhưng là tôi tớ của Thiên Chúa (Dt1, 15).
  • Ngài được tuyên bố là "Chúa", một danh hiệu thần thánh mà Kinh Thánh áp dụng cho Ngài ("Chúa Thánh Thần là Chúa" trong 2 Cr 3, 17); do đó, Chúa Thánh Thần không hạ cấp hơn Chúa Cha và Chúa Con, vì chính Chúa Con cũng được gọi là "Chúa".
  • Ngài có một chức năng thần thánh vì Ngài "ban sự sống". Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng: "Chính Thánh Thần làm cho sống" (Ga 6, 63). Đó là lý do tại sao các Công Đồng thêm vào Niềm Tin: "Tôi tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống".
  • Câu nói "Ngài phát xuất từ Chúa Cha" được lấy từ ( Ga 15, 26). Cách diễn đạt này là một cách nói rằng Ngài đến từ Chúa Cha, nhưng khác với Chúa Con, người được nói là được sinh ra.
  • Cuối cùng, chúng ta phải tôn thờ Chúa Thánh Thần như Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari rằng: "Những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thánh Thần và sự thật" (Ga 4, 23); và trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Hãy làm phép rửa cho muôn dân, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt28, 19). Chính vì vậy, các Công Đồng đã thêm vào Niềm Tin: “Ngài nhận được sự tôn thờ và vinh quang như Chúa Cha và Chúa Con; Chúa Thánh Thần được tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con”.Vì vậy, Công Đồng đã nhấn mạnh rất rõ ràng Thần tính trọn vẹn của Chúa Thánh Thần.

• Vấn đề Filioque và sự liên kết của Chúa Thánh Thần với hai ngôi vị khác

Vấn đề Filioque ám chỉ sự hiểu biết khác biệt giữa phương Tây và phương Đông về mối tương quan giữa Chúa Thánh Thần, Chúa Cha và Chúa Con, sự khác biệt này đã được xem như một sự phân rẽ cơ bản vào thời điểm đó, và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự chia cắt. Câu nói:  “ Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha" có nguồn gốc từ ( Ga 15, 26), cùng lúc, Tin Mừng này cũng nói rằng Chúa Thánh Thần "nhận" phần của Ngài từ Chúa Con (Ga 16, 14), một cách diễn đạt cho thấy Ngài không thiếu liên kết với Chúa Con.

Niềm tin Nicê-Constantinople chỉ đơn giản khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha". Sau đó, Thánh Augustinô đặt câu hỏi liệu Ngài có phát xuất từ Chúa Con không. Công thức đầy đủ được thêm vào Kinh Tin Kính vào năm 589, tại Công Đồng Toledo, bởi các giám mục Tây Ban Nha (để phản ứng với thuyết Arian). Thay vì giữ câu: "Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha", họ đã thêm vào "phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con" (Filioque trong tiếng Latinh), dựa trên Tân Ước trong (Ga 16, 13-15), nhưng đặc biệt là trong ( Rm 8, 9-11) và ( Gl 4, 6), thể hiện một sắc thái thần học về mối tương quan giữa Chúa Thánh Thần và hai ngôi vị khác trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Vào thế kỷ IX, Charlemagne, với vai trò là "Constantinô mới", đã áp đặt sự bổ sung này trên toàn đế chế của mình. Giáo hoàng đã từ chối sự bổ sung này, mặc dù vẫn chấp nhận giáo lý. Tuy nhiên, khoảng 15 năm sau, một vị Giáo hoàng khác đã thêm vào niềm tin của Giáo Hội Rôma. Vào thế kỷ XI, phiên bản này được toàn bộ phương Tây chấp nhận, đánh dấu sự chia cắt với các Kitô hữu phương Đông. Quyết định thay đổi một văn bản đã được hai công đồng phê chuẩn được coi là không thể chấp nhận, đặc biệt là khi Công Đồng Chalcedon đã cấm bổ sung bất kỳ điều gì vào niềm tin. Do đó, họ muốn làm rõ sự khác biệt giữa Chúa Cha và Chúa Con, coi Chúa Cha là nguồn duy nhất của Chúa Thánh Thần, và là nguồn duy nhất trong Ba Ngôi.

KẾT LUẬN

Ngày nay, các Kitô hữu phương Đông vẫn tiếp tục tuyên xưng Niềm tin Nicêa mà không có sự bổ sung này. Tuy nhiên, sự suy tư giữa phương Đông và phương Tây đã có sự tiến triển: sự ưu tiên hoặc quyền lực của Thiên Chúa Cha được công nhận từ cả hai phía, vì Chúa Con và Chúa Thánh Thần đều bắt nguồn từ Chúa Cha, và nếu Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Con, đó là vì Chúa Con chính là Đấng được sinh ra từ Chúa Cha.

Cuối cùng, đây không phải là hai quan niệm không thể hòa giải, mà là hai cách diễn đạt một mầu nhiệm vượt qua khái niệm thần học của chúng ta. Vượt qua những khác biệt thần học hợp lý và nay đã được làm rõ, cần phải có một hành động hòa giải cụ thể. Có đề xuất rằng trong một cử chỉ khiêm tốn, các Giáo Hội phương Tây từ bỏ việc thêm Filioque vào niềm tin (thực tế Giáo Hội Công Giáo không còn sử dụng nó trong một số trường hợp như trong các buổi lễ đại kết khi có mặt của giáo hoàng), nhưng ngược lại, các Kitô hữu phương Đông ngừng coi đây là một công thức dị giáo. Tóm lại, cuộc tranh luận giữa phương Đông và phương Tây ngày nay đã được hạ nhiệt, và có thể một ngày nào đó sẽ đạt được sự đồng thuận về công thức: "Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Con".

 

Lm. Giuse Phan Cảnh

Chú thích:

 

[1] AUGUSTIN, Commentaire de la première épître de Jean, traité VIII, 12, Paris, Cerf; 1961.

 [2] AUGUSTIN, La Trinité, dans Œuvres, Paris, Desclée, 1955, Livre XV, XVII, 27.

[3] AUGUSTIN, La Trinité, dans Œuvres, Paris, Desclée, 1955, Livre XV, XVIII, 32.

[4] AUGUSTIN, La Trinité, dans Œuvres, op. cit. Livre XV, XVII, 27.

[5] BONAVENTURE, Premier livre des Sentences, trad par Marc Ozilou, Épimethée, p.304.

 [6] THOMAS d’AQUIN, Somme Théologique, Ia, op. cit., qu. 37, art. 1, ad. 3.

[7] Louis BOUYER, Le Consolateur, Paris, Cerf, 1980, p. 439.

[8] Olivier Clement, Sources, NRT, 2010, p. 68.

[9] BernardSESBOÜE, Croire, Mame, 2003, p.400.