Khao khát Thiên Chúa

27/09/2025
110


KHAO KHÁT THIÊN CHÚA

1.     Khao khát Thiên Chúa

Con người như một hữu thể có khả năng hướng đến Thiên Chúa, khát vọng hạnh phúc trọn vẹn và khát vọng về Ngài. Một con người sinh ra để được hạnh phúc như một con chim sinh ra để bay. Mỗi người đều tìm kiếm hạnh phúc, điều tốt đẹp cho chính mình, và định hướng cuộc sống theo cách mà họ cho là phù hợp nhất để đạt được điều đó. Việc được hưởng các giá trị nhân bản giúp hoàn thiện và làm phong phú con người, khiến chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Nhưng chừng nào chúng ta còn sống, hạnh phúc vẫn luôn bị che phủ bởi một bóng mờ.

Chúng ta là con người, một hữu thể hợp nhất giữa thân xác và linh hồn, một hữu thể có nhân vị. Chiều kích tinh thần nơi ta khiến ta có khả năng vượt lên trên những thực tại cụ thể mà ta có liên hệ: con người, tổ chức, của cải vật chất, các công cụ giúp ta phát triển. Việc hiểu biết về các khía cạnh khác nhau của thực tại không hề tiêu hao hoặc làm cạn kiệt khả năng hiểu biết hay sự đặt câu hỏi của chúng ta; chúng ta luôn có thể khám phá những điều mới hoặc hiểu sâu sắc hơn. Điều tương tự cũng đúng với khả năng yêu thương của chúng ta: không có gì được tạo dựng mà có thể làm chúng ta thỏa mãn một cách trọn vẹn và vĩnh viễn; chúng ta có thể yêu nhiều hơn, có thể yêu những điều tốt đẹp hơn. Và theo một cách nào đó, chúng ta luôn bị thôi thúc hướng về điều ấy: đạt được những mục tiêu mới làm chúng ta vui mừng, chúng ta thích đào sâu sự hiểu biết về các vấn đề và thực tại quanh mình, đối mặt với những tình huống mới và tích lũy kinh nghiệm. Chúng ta cố gắng thực hiện tất cả những điều đó trong cuộc sống, và cảm thấy thất vọng khi không làm được. Chúng ta khao khát sự viên mãn. Tất cả điều này là dấu chỉ của sự cao cả, của việc trong chúng ta có điều gì đó vô biên, vượt lên trên mọi thực tại cụ thể thuộc về cuộc sống.

Tuy nhiên, thế giới là phù du. Chính chúng ta cũng là những hữu thể chóng qua, cũng như môi trường xung quanh. Những người chúng ta yêu thương, những thành công chúng ta đạt được, những điều tốt đẹp chúng ta trân trọng, không có gì có thể giữ mãi. Chúng ta muốn níu giữ chúng, muốn có chúng mãi bên mình, vì chúng làm phong phú cuộc sống của chúng ta, đem lại niềm vui qua những ân huệ và phẩm chất của chúng, chúng làm ta say mê. Thế nhưng, sâu thẳm trong tâm trí, chúng ta cảm nhận được rằng chúng đều là tạm bợ, rằng ta sẽ không thể mãi giữ chúng bên mình, rằng đôi khi chúng hứa hẹn một hạnh phúc mà chúng chỉ có thể mang lại trong chốc lát. Mọi vật đều mang dấu ấn của sự tàn úa, được che giấu dưới lớp vỏ hứa hẹn. Bởi điều kinh hoàng và xấu hổ của mọi sự, chính là chúng đều hư hoại; và để che đi vết thương đáng xấu hổ ấy, đánh lừa những kẻ nhẹ dạ, chúng khoác lên mình bộ áo rực rỡ sắc màu. Bóng tối ấy, nơi mọi điều thuộc về trần thế tác động sâu sắc đến chúng ta, và nếu suy nghĩ kỹ, nó khiến chúng ta sợ hãi, khiến chúng ta ước ao điều đó không phải là sự thật, rằng phải có một lối thoát cho khát vọng sống và trưởng thành của chúng ta. Đó là những khát vọng cứu độ luôn hiện diện trong trái tim con người.

Chúng ta đang đối diện với hai loại khát vọng khác nhau nơi con người, cả hai đều chỉ ra “cơn đói khát sự siêu việt” của nhân loại. Trước những trải nghiệm siêu việt về điều thiện, những khát vọng về sự viên mãn (trong hiện hữu, chân lý, lòng tốt, vẻ đẹp, và tình yêu) được đánh thức. Và trước những trải nghiệm về sự dữ, về sự mất mát các điều thiện ấy, những khát vọng cứu độ (sự sống còn, sự chính trực, công lý, hòa bình) được khơi dậy. Đây là những trải nghiệm siêu việt để lại trong lòng người một nỗi hoài niệm về cuộc sống mai sau.

Bởi, “con người được sinh ra để hạnh phúc như con chim được sinh ra để bay”, nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho thấy hạnh phúc nơi trần gian này không trọn vẹn, cuộc sống không bao giờ hoàn toàn thỏa mãn, hạnh phúc luôn nằm ngoài tầm với của chúng ta, như thể nó luôn được tìm kiếm nhưng không bao giờ đạt được. Vì thế, sâu thẳm trong tâm hồn con người tồn tại một nỗi băn khoăn, một nỗi hoài niệm về hạnh phúc, điều này chỉ về một niềm hy vọng thầm kín: niềm hy vọng về một mái nhà đích thực, một quê hương vĩnh cửu, nơi giấc mơ về hạnh phúc đời đời và tình yêu vĩnh cửu sẽ được thực hiện. Chúng ta là hữu thể thuộc về trần thế, nhưng lại khát khao điều vĩnh cửu.

Khát vọng này tự nó không phải là nền tảng của tính tôn giáo tự nhiên, nhưng đúng hơn, nó giống như một “dấu chỉ” hướng về Thiên Chúa. Con người là một hữu thể mang tính tôn giáo tự nhiên, bởi vì, kinh nghiệm sống trong thế giới khiến con người tự nhiên nghĩ đến một hữu thể là nền tảng của mọi thực tại. Đấng “mà mọi người gọi là Thiên Chúa,” như thánh Thoma Aquinô nói khi kết luận phần trình bày nổi tiếng của ngài về năm con đường chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa[1].

Việc nhận biết Thiên Chúa là điều con người có thể đạt tới bằng lý trí tự nhiên, tức là qua suy nghĩ triết học mà mỗi người đều có thể thực hiện từ chính kinh nghiệm sống của mình: sự ngạc nhiên trước vẻ đẹp và trật tự của thiên nhiên, sự kinh ngạc trước món quà nhưng không của sự sống, niềm vui khi cảm nhận được tình yêu từ người khác, tất cả những điều này dẫn con người đến việc suy nghĩ về một “mầu nhiệm” từ đó mọi sự phát sinh. Những chiều kích khác nhau của đời sống tinh thần con người, như khả năng tự suy xét, phát triển văn hóa và kỹ thuật, nhận thức được tính luân lý của hành vi, cũng cho thấy rằng, không giống như các sinh vật vật chất khác, con người vượt lên trên toàn bộ vũ trụ vật chất, và những năng lực này hướng về một hữu thể linh thiêng, cao cả, siêu việt.

Hiện tượng tôn giáo không phải, như Ludwig Feuerbach từng nghĩ, là một sự phóng chiếu của tính chủ quan nơi con người và ước muốn hạnh phúc của họ, mà là kết quả từ việc con người tự nhiên tiếp cận và suy xét thực tại đúng như nó vốn là. Điều này giải thích vì sao việc phủ nhận Thiên Chúa và nỗ lực loại Ngài ra khỏi văn hóa, đời sống xã hội chỉ là những hiện tượng tương đối gần đây, và chỉ giới hạn trong một số khu vực thuộc thế giới phương Tây. Những câu hỏi lớn về tôn giáo và hiện sinh vẫn không thay đổi theo thời gian, điều này bác bỏ quan điểm cho rằng tôn giáo chỉ là một giai đoạn “trẻ con” trong lịch sử nhân loại và sẽ biến mất khi tri thức tiến bộ.

Việc con người nhận ra rằng mình là một hữu thể có tính tôn giáo tự nhiên đã dẫn một số triết gia và nhà thần học đến với ý tưởng rằng, khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài đã chuẩn bị cho họ, theo một cách nào đó, để đón nhận món quà tạo thành ơn gọi tối hậu và dứt khoát của họ: sự hiệp thông với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Tertullien, chẳng hạn, khi thấy những người ngoại giáo thời ông tự nhiên nói những câu như “Thiên Chúa thật vĩ đại” hay “Thiên Chúa thật tốt lành”, đã nghĩ rằng linh hồn con người vốn đã hướng về đức tin Kitô giáo[2].

Thánh Thoma Aquinô, khi suy tư về mục đích cuối cùng của con người và sự mở ra sự vô hạn của tâm trí họ, đã khẳng định rằng con người có “một khát vọng tự nhiên muốn được thấy Thiên Chúa[3].

Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng, khát vọng này không phải là điều mà con người có thể tự mình đạt tới bằng khả năng riêng của mình. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu Thiên Chúa tự mạc khải và bước ra khỏi mầu nhiệm của Ngài, nếu Ngài đến gặp con người và tỏ mình ra như Ngài thực sự là. Và đó chính là đối tượng của Mạc Khải: “Khát vọng về Thiên Chúa đã được ghi khắc nơi trái tim con người, bởi vì con người được Thiên Chúa tạo dựng và cho Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài, và chỉ trong Thiên Chúa, con người mới tìm thấy chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng kiếm tìm”[4].

2. Lý trí có khả năng nhận biết về Thiên Chúa

Lý trí con người có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa qua một con đường khởi đi từ thế giới được tạo dựng, bao gồm hai lộ trình: một là qua các thụ tạo vật chất (các con đường vũ trụ học), và hai là qua con người (các con đường nhân học).

Những con đường dẫn đến sự hiện hữu của Thiên Chúa này không phải là những “chứng minh” theo nghĩa mà khoa học toán học hay khoa học tự nhiên định nghĩa, mà là các lập luận triết học hội tụ, mức độ thuyết phục của chúng tùy thuộc vào mức độ hiểu biết và chiều sâu suy tư của người suy xét[5].

Chúng cũng không cần “chứng minh” theo nghĩa của các khoa học thực nghiệm (vật lý, sinh học), bởi vì Thiên Chúa không phải là đối tượng của nhận thức kinh nghiệm: chúng ta không thể quan sát Thiên Chúa như cách quan sát một hoàng hôn hay một cơn bão cát để rút ra kết luận.

Các con đường vũ trụ học

Các con đường này xuất phát từ các thụ tạo vật chất. Cách diễn đạt nổi tiếng nhất đến từ thánh Thoma Aquinô, với năm con đường nổi tiếng mà ngài đã xây dựng:

  1. Hai con đường đầu tiên dựa trên nguyên lý nhân quả: những chuỗi nguyên nhân – kết quả mà ta quan sát được trong tự nhiên không thể tiếp diễn vô hạn trong quá khứ; do đó, phải có một khởi nguyên đầu tiên, một động lực đầu tiên và một nguyên nhân đầu tiên.
  2. Con đường thứ ba bắt đầu từ ý tưởng rằng những điều chúng ta thấy trong thế giới này đều có thể “có” hoặc “không có”, nghĩa là chúng không tất yếu phải tồn tại. Từ đó, suy luận rằng không thể tất cả thực tại đều như vậy; phải có một Đấng tồn tại tất yếu, không thể không hiện hữu, vì nếu không có Đấng đó, thì chẳng có gì hiện hữu cả.
  3. Con đường thứ tư nhận thấy rằng mọi sự vật mà ta biết đều mang những phẩm chất tốt đẹp ở các mức độ khác nhau (chân, thiện, mỹ), và kết luận rằng phải có một Hữu Thể là nguồn gốc tối cao của mọi phẩm chất ấy.
  4. Con đường thứ năm quan sát thấy rằng trong thế giới tự nhiên có trật tự và mục đích: các hiện tượng diễn ra theo những quy luật nhất định. Từ đó, suy luận rằng phải có một trí tuệ sắp đặt, một Đấng thiết lập và điều hướng những quy luật ấy, chính là nguyên nhân sau cùng của mọi sự[6].

Bên cạnh các con đường khởi đi từ việc phân tích vũ trụ (cosmos), còn có những con đường khác mang tính nhân học; trong đó, việc suy tư bắt nguồn từ chính thực tại con người, từ bản thân con người như một nhân vị. Những con đường này trở nên mạnh mẽ hơn khi được xem xét một cách quy tụ, thay vì từng con đường một cách riêng lẻ.

Trước hết, bản chất tinh thần của con người, thể hiện qua khả năng tư duy, đời sống nội tâm và tự do, dường như không có nền tảng trong bất kỳ thực tại nào khác trong vũ trụ. Con người, với khao khát hạnh phúc không bao giờ được thỏa mãn, cũng trở nên vô nghĩa nếu không có một Thiên Chúa có thể ban tặng hạnh phúc đó.

Chúng ta cũng nhận thấy nơi bản tính con người có một cảm thức luân lý về tình liên đới và bác ái, điều thúc đẩy con người mở lòng với tha nhân, nhận ra nơi chính mình một ơn gọi vượt lên cái tôi và những lợi ích ích kỷ. chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao chúng ta hiện hữu? Tại sao con người có khả năng nhận thức những điều vượt lên trên sự vụ lợi? Tại sao chúng ta nhận ra rằng có những điều phù hợp với phẩm giá của mình và những điều thì không? Tại sao chúng  ta cảm thấy tội lỗi và hổ thẹn khi làm điều xấu, và vui mừng, bình an khi hành xử đúng đắn? Tại sao chúng ta có thể bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của một hoàng hôn, một bầu trời đầy sao hay một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại?

Tất cả những điều đó không thể hợp lý khi được quy cho một vũ trụ mù quáng, hay là sản phẩm vô danh của những tương tác vật chất. Chẳng phải những điều ấy là dấu chỉ về một Hữu Thể vô cùng tốt lành, đẹp đẽ và công chính, Đấng đã đặt trong chúng ta một thoáng hình ảnh về chính Ngài và điều Ngài ước muốn cho chúng ta?

Lựa chọn thứ hai tin vào Thiên Chúa, hợp lý hơn và thỏa mãn hơn. Dĩ nhiên, những con đường này không mang tính bắt buộc hay áp đặt, nhưng chúng mang theo một lôgíc sáng suốt cho những ai biết nhìn thực tại bằng ánh mắt đơn sơ và chân thành:“Con người, với khả năng mở ra trước chân lý và cái đẹp, với cảm thức về điều thiện luân lý, với tự do và tiếng nói của lương tâm, với khát vọng vô hạn và ước muốn hạnh phúc, tự vấn về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua tất cả những điều đó, con người cảm nhận được những dấu chỉ của linh hồn thiêng liêng nơi mình. ‘Mầm sống đời đời mà con người mang trong mình, không thể quy giản vào vật chất thuần túy’[7], linh hồn ấy chỉ có thể có nguồn gốc từ nơi một mình Thiên Chúa”[8]

Các lập luận triết học khác nhau được dùng để “chứng minh” sự hiện hữu của Thiên Chúa không nhất thiết khiến con người tin vào Ngài, mà chỉ chứng minh rằng đức tin đó là hợp lý. Thật ra, chúng chỉ cho chúng ta biết rất ít về Thiên Chúa và thường dựa trên những xác tín nền tảng mà không phải ai cũng có.

Tương tự, người ta cho rằng con người chỉ là một động vật tiến hóa hơn một chút, mà hành động được điều khiển bởi những xung năng tất yếu, sẽ không chấp nhận các con đường nhân học, những con đường dựa trên đạo đức hay tính siêu việt của tinh thần, bởi vì người ấy đồng nhất trung tâm của đời sống tinh thần (tâm trí, lương tâm, linh hồn) với hoạt động vật chất của não bộ và hệ thần kinh.

Tuy nhiên, các phản đối này có thể được trả lời bằng lập luận cho thấy rằng hỗn loạn và ngẫu nhiên vẫn có thể là một phần trong một kế hoạch tổng thể của vũ trụ, và do đó nằm trong ý định sáng tạo của Thiên Chúa. Albert Einstein từng nói rằng, trong các định luật tự nhiên, “lộ ra một lý trí siêu việt đến mức mọi tư tưởng và trật tự do con người tạo ra chỉ là sự phản chiếu hoàn toàn tầm thường so với nó”.

Tương tự, khả năng vượt lên chính mình của con người, ý chí tự do trong các lựa chọn, dù bị điều kiện hóa phần nào bởi tự nhiên, cùng với sự không thể quy giản tâm trí vào hoạt động thuần vật chất của não bộ, hoàn toàn có thể được chứng minh bằng lý trí và qua kinh nghiệm hiện tượng học của con người.

Vì thế, Giáo Lý Hội Thánh Công giáo đã đúng khi khẳng định rằng: “Từ thụ tạo, nghĩa là từ thế giới và từ con người, con người có thể, chỉ bằng lý trí của mình, nhận biết Thiên Chúa một cách chắc chắn như là nguồn gốc và cùng đích của vũ trụ, như là sự thiện tuyệt đối, là chân lý và vẻ đẹp vô biên”[9].

Tuy nhiên, để đạt được sự chắc chắn này, con người cần hiểu những khía cạnh phức tạp của thực tại, vốn luôn mở ra một biên độ tranh luận lớn. Đó là lý do tại sao các con đường lý trí dẫn đến Thiên Chúa thường không hoàn toàn mang tính thuyết phục đối với mọi người.

3. Đặc điểm hiện tại của con người và xã hội đối với Đấng Siêu Việt

Bất chấp hiện tượng toàn cầu hóa, thái độ đối với Thiên Chúa và quan niệm tôn giáo về cuộc sống vẫn rất khác nhau ở các vùng khác nhau trên thế giới. Nhìn chung, đối với phần lớn nhân loại, việc quy chiếu về siêu việt, dù thể hiện qua những hình thức tôn giáo và văn hóa rất đa dạng, vẫn là một khía cạnh quan trọng của đời sống.

Ngoại lệ trong bức tranh tổng thể này là thế giới phương Tây, đặc biệt là châu Âu, nơi mà một loạt các yếu tố lịch sử và văn hóa đã hình thành nên một thái độ phổ biến là từ chối hoặc dửng dưng đối với Thiên Chúa, cũng như đối với tôn giáo vốn có vị trí thống trị trong lịch sử phương Tây: Kitô giáo.

Sự thay đổi này có thể được tóm lược bằng lời của nhà xã hội học tôn giáo Peter Berger, khi ông nói rằng trong xã hội phương Tây, đức tin Kitô giáo đã mất đi “cấu trúc đáng tin” (structure de plausibilité), đến mức: nếu như trước kia, người ta chỉ cần buông theo dòng chảy là sẽ trở thành người Công giáo, thì ngày nay, chỉ cần buông xuôi là người ta sẽ rời bỏ đạo. Có thể nói rằng khao khát về Thiên Chúa dường như đã biến mất trong xã hội phương Tây: “Đối với một bộ phận lớn trong xã hội, Thiên Chúa không còn là Đấng được mong chờ, được khát khao nữa, mà là một thực tại gây thờ ơ, đến mức người ta không còn thấy cần thiết phải lên tiếng hay bày tỏ quan điểm gì về Ngài”[10].

4. Nguyên nhân của sự thay đổi này rất đa dạng.

Một trong số đó là những thành tựu khoa học và kỹ thuật lớn trong hai thế kỷ gần đây. Dù mang lại nhiều lợi ích cho nhân loại, chúng cũng đã góp phần tạo nên một não trạng duy vật, vốn xem các khoa học thực nghiệm như là hình thức duy nhất của tri thức hợp lý. Một cái nhìn về thế giới đã lan rộng, theo đó chỉ những gì có thể kiểm chứng được bằng kinh nghiệm, chỉ những gì “có thể nhìn thấy và chạm tới”, mới là chân thật.

Cách nhìn này đã thu hẹp “chân trời của lý trí”, vì ngoài việc xem nhẹ các hình thức tri thức phi khoa học (chẳng hạn như niềm tin vào lời người khác), nó còn khiến con người chỉ chú tâm tìm kiếm những phương tiện giúp thế giới trở nên tiện nghi và dễ chịu hơn.

Tuy nhiên, quá trình này không phải là tất yếu. Khi chiêm ngắm vẻ đẹp huyền nhiệm và sự hùng vĩ của thế giới được tạo dựng, con người không nhất thiết bị lôi cuốn đến chỗ tôn thờ khoa học, mà trái lại, có thể được đưa đến chỗ ngưỡng mộ những kỳ công mà Thiên Chúa đã đặt vào công trình tạo dựng của Ngài.

Ngày nay cũng như xưa kia, nhiều nhà khoa học vẫn tiếp tục mở lòng trước Đấng Siêu Việt, khi họ khám phá ra sự hoàn mỹ trong vũ trụ.

Một khía cạnh thứ hai, có liên hệ với khía cạnh trước, là hiện tượng tục hóa trong xã hội, tức là quá trình mà nhiều thực tại trước đây gắn liền với niềm tin, quan niệm hay thể chế tôn giáo nay đã mất đi chiều kích ấy, và hiện nay được nhìn nhận thuần túy theo quan điểm con người, xã hội hoặc dân sự.

Khía cạnh này có liên hệ với khía cạnh trước, bởi vì những tiến bộ khoa học đã giúp con người hiểu rõ nguyên nhân của nhiều hiện tượng tự nhiên (trong lĩnh vực y tế, sự sống, các khoa học nhân văn), vốn trước đây thường được quy trực tiếp cho ý muốn của Thiên Chúa. Ví dụ, trong thời cổ đại, một trận dịch có thể được hiểu như là sự trừng phạt của Thiên Chúa đối với tội lỗi con người, nhưng ngày nay, điều đó lại được giải thích bằng các yếu tố như điều kiện vệ sinh, lối sống, những điều mà chúng ta có thể phân tích và xác định rõ.

Tự thân, sự hiểu biết chính xác hơn về thực tại này là một điều tốt, và cũng giúp thanh lọc hình ảnh mà chúng ta có về cách Thiên Chúa hành động, rằng Ngài không phải là một nguyên nhân như mọi nguyên nhân khác trong các hiện tượng tự nhiên. Thiên Chúa thuộc một cấp độ khác: Ngài trả lời cho những câu hỏi tối hậu mà con người đặt ra về ý nghĩa cuộc sống, vận mệnh cuối cùng của mỗi người, niềm vui và nỗi đau. Khoa học không thể cung cấp câu trả lời ở cấp độ này. Do đó, khi con người tự hỏi những câu hỏi sâu sắc hơn, họ dễ dàng đi vào chiều kích trong đó Thiên Chúa trở nên không thể thiếu.

Một khía cạnh quan trọng khác góp phần làm suy yếu xu hướng hướng về Thiên Chúa ngày nay chính là não trạng cá nhân chủ nghĩa, vốn định hình sâu sắc lối tư duy tập thể hiện nay.

Não trạng này là một kết quả của quá trình giải phóng con người, một đặc trưng của văn hóa từ thời Khai sáng (thế kỷ XVIII). Quá trình đó, giống như những điều kể trên, cũng mang lại những mặt tích cực, bởi vì việc con người bị đặt “dưới quyền giám hộ” nhân danh tôn giáo hay các lý do khác, bị buộc phải đưa ra quyết định theo các học thuyết được áp đặt mà không rõ ràng, là điều trái với phẩm giá con người.

Tuy nhiên, quá trình này cũng gieo rắc tư tưởng rằng tốt nhất là không lệ thuộc vào ai, không gắn bó với ai, để khỏi bị cản trở và có thể sống theo ý mình. Ai trong chúng ta lại chưa từng nghe, dù được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, những câu như: “điều quan trọng là sống thật với chính mình”, “hãy sống cuộc đời của riêng bạn”, và “hãy sống theo cách bạn muốn”?

Não trạng này dẫn đến việc xem mọi mối quan hệ dưới lăng kính vụ lợi, chỉ chấp nhận những mối liên hệ không ràng buộc, để không làm nghẹt thở hay kìm hãm sự tự do cá nhân. Chỉ những mối quan hệ nào mang lại sự hài lòng mới được giữ lại[11].

Trong quan điểm này, một mối quan hệ nghiêm túc với Thiên Chúa sẽ trở nên nhàm chán vì việc phục tùng các điều răn của Người không được cảm nhận như điều gì đó giải phóng con người khỏi cái tôi ích kỷ của chính mình, do đó, tôn giáo chỉ có chỗ đứng trong phạm vi nó mang lại sự bình an, thanh thản, sự an lành và không đòi hỏi cam kết gì. Vì vậy, thái độ cá nhân chủ nghĩa dẫn đến những hình thức tôn giáo nhẹ nhàng, ít nội dung và ít tổ chức, đặc trưng bởi sự chủ quan và tình cảm lớn, và dễ dàng thay đổi tùy theo nhu cầu cá nhân. Xu hướng hiện nay với một số thực hành phương Đông rất “cá nhân hóa” là minh chứng cho điều này.

Trong một xã hội có những đặc điểm như vậy, kháng cự với cái siêu việt, người Kitô hữu chỉ có thể thuyết phục nếu trước hết rao giảng bằng chính chứng tá cuộc sống của mình. Chứng tá và lời nói: cả hai đều cần thiết, nhưng chứng tá là ưu tiên. Ban đầu, chúng ta đã nhắc rằng “con người được tạo nên để hạnh phúc như chim được tạo nên để bay”. Hạnh phúc gắn liền với tình yêu và người Kitô hữu tin bằng đức tin rằng không có tình yêu nào chân thật và thuần khiết hơn tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, được bày tỏ qua Thập Giá của Đức Kitô và được truyền đạt trong Bí tích Thánh Thể. Cách duy nhất để cho một xã hội đã quay lưng với Thiên Chúa thấy rằng việc cam kết với Người là đáng giá, chính là người Kitô hữu phải thể hiện trong cuộc sống của mình sự hiện diện của tình yêu và hạnh phúc đó.

 “Không phải mọi sự thỏa mãn đều tạo ra cùng một hiệu quả nơi chúng ta: có những sự thỏa mãn để lại dấu ấn tích cực, có khả năng làm dịu tâm hồn, khiến chúng ta trở nên hoạt bát và rộng lượng hơn. Ngược lại, có những sự thỏa mãn sau ánh sáng ban đầu, dường như làm thất vọng những kỳ vọng mà nó từng khơi gợi và đôi khi để lại đằng sau sự đắng cay, sự bất mãn hoặc cảm giác trống rỗng”[12]. Hạnh phúc của những người chỉ tin vào những gì có thể thấy và chạm được, hoặc những người bị chi phối bởi quan niệm thực dụng về cuộc sống, hoặc của những người theo chủ nghĩa cá nhân không muốn bị ràng buộc với bất cứ điều gì, là nhất thời, “kéo dài bao lâu thì kéo dài”, và phải được làm mới thường xuyên vì nó không còn cho đi điều gì nữa. Đó thường là một hạnh phúc không làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn. Ngược lại, những người phục vụ Chúa Giêsu từ tận đáy lòng sống một cuộc đời khác và cũng có một loại hạnh phúc khác: sâu sắc hơn, bền vững hơn, và sinh hoa kết quả trong chính bản thân họ và người khác.

                                                                           

                                                                               Linh mục Giuse Phan Cảnh

 ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa

 

[1] Thoma Aquinô, Summa Theologiae, I, q.2, a.3.

[2] Tertulliano, Apologeticum, 17,6.

[3] Thoma Aquinô, Summa contra Gentiles, quyển 3, chương 57, số 4.

[4] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 27.

[5] Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 31.

[6] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q.2.

[7] Hiến chế Vui mừng và Hy vọng [Gaudium et Spes], số 18, §1; số 14, §2.

[8] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 33.

[9] Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, số 3.

[10] Benoît XVI, Audience, 7-11-2012.

[11] Javier Yániz Fernández và Gerard Jiménez Clopés, résumé de la foi Catholique, pdf, p. 9.

[12] Benoît XVI, Audience, 7-11-2012.