Hiểu về sự quan phòng của Thiên Chúa

13/10/2025
20

HIỂU VỀ SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA

Một số hình thức tín ngưỡng thực hành có thể là những sự biến dạng thực sự của hình ảnh Thiên Chúa quan phòng trong Kinh Thánh. Khi mọi chuyện thuận lợi, nhiều người hầu như không nhớ đến Thiên Chúa, nhưng khi gặp khó khăn trong cuộc sống, họ quay sang Thiên Chúa như thể Ngài đã quên họ, đổ trách nhiệm cho Ngài về những điều xấu xảy đến và yêu cầu một sự can thiệp khẩn cấp để chấm dứt tình trạng đó. Đây là quan niệm về một Thiên Chúa chỉ để “bám víu”, một sự biếm họa thực sự của Thiên Chúa được biểu lộ trong Kinh Thánh.

Vượt lên trên những hình ảnh này, dù phổ biến hay ít phổ biến trong dân chúng, chúng ta có quyền đặt câu hỏi về khả năng và thực tế của những can thiệp thần linh trong thế giới của chúng ta. Đối với một số người, Thiên Chúa không thể can thiệp theo nguyên tắc vì sau khi Ngài tạo dựng thế giới, Ngài rút lui vì thế giới tự vận hành theo các quy luật riêng của nó; một số khác cho rằng Thiên Chúa can thiệp vào những thời điểm nhất định, đặc biệt khi cần thiết để chỉnh sửa dòng lịch sử; cuối cùng, có người cho rằng Thiên Chúa luôn hoạt động trong một tạo vật yếu đuối và bị hư hoại.

1.     Sự Quan Phòng và việc Bảo Tồn

Việc tạo dựng không hoàn tất ngay từ đầu, mà Thiên Chúa đã làm ra nó "trong trạng thái đi tới", tức là đang trên đường đến một mục đích cuối cùng mà vẫn chưa đạt được. Nó không chỉ là bước khởi đầu; một khi đã được tạo ra, “Thiên Chúa không bỏ mặc tạo vật cho chính nó. Ngài không chỉ ban cho nó sự tồn tại và hiện hữu, mà Ngài giữ cho nó tồn tại từng giây phút, ban cho nó khả năng hoạt động và đưa nó đến mục đích cuối cùng”[1]. Kinh Thánh so sánh hành động của Thiên Chúa trong lịch sử với một hành động sáng tạo ( Is 44,24; 45,8; 51,13). Văn chương khôn ngoan làm rõ hành động của Thiên Chúa giữ gìn tạo vật trong sự sống. “Nó làm sao có thể tồn tại, nếu Ngài không muốn nó? Làm sao có thể sống, nếu Ngài không gọi nó?” (Kn 11, 25). Thánh Phaolô còn đi xa hơn khi gán hành động bảo tồn này cho Đấng Kitô: “Ngài có trước muôn vật, và muôn vật tồn tại trong Ngài” (Cl 1,17).

Thiên Chúa của chúng ta không phải là một thợ đồng hồ hay kiến trúc sư, khi hoàn thành công trình rồi thì tách mình ra. Những hình ảnh này thuộc về một quan niệm duy lý (deisme) cho rằng Thiên Chúa không can thiệp vào chuyện thế gian. Nhưng đó là sự bóp méo Thiên Chúa sáng tạo đích thực, vì nó tách rời tạo dựng khỏi việc bảo tồn và cai quản thần linh thế giới. Quan niệm duy lý này sai về mặt siêu hình học về tạo dựng, vì tạo dựng, như một món quà sự tồn tại, bao hàm sự lệ thuộc bản thể của tạo vật không thể tách rời khỏi sự tiếp diễn của nó theo thời gian. Hai điều này là một hành động duy nhất, dù chúng ta có thể phân biệt về mặt khái niệm: “Thiên Chúa không giữ gìn sự vật bằng một hành động mới, mà bằng sự tiếp nối của cùng một hành động mà Ngài ban cho chúng sự hiện hữu, được thực hiện không qua chuyển động hay thời gian”[2]. Khái niệm bảo tồn này do đó lấp đầy khoảng cách giữa hành động sáng tạo và sự cai quản thần linh thế giới (sự quan phòng). Không chỉ Thiên Chúa tạo dựng thế giới và giữ cho nó tồn tại, mà Ngài còn dẫn dắt các tạo vật đến sự hoàn thiện cuối cùng mà Ngài đã gọi chúng.

2.     Sự Quan Phòng trong Kinh Thánh

Kinh Thánh trình bày quyền tối thượng tuyệt đối của Thiên Chúa và luôn làm chứng về sự quan tâm như người cha của Ngài, cả trong những việc nhỏ nhặt nhất lẫn trong các sự kiện trọng đại của lịch sử. Quyền lực của Đấng Tạo Hóa (Ngài cai quản) được biểu lộ qua sự chăm sóc của Người Cha (Ngài gìn giữ)[3]: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1). Trong Tân Ước, Chúa Giêsu khẳng định tầm nhìn này qua các hành động và lời dạy của mình. Thật vậy, Ngài tỏ mình là sự quan phòng “thể hiện” của Thiên Chúa, chăm sóc như Người Mục Tử Nhân Lành về các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người (Ga 10,11.14-15; Mt 14,13-14), và dạy chúng ta phó thác cho sự chăm sóc của Ngài (Mt 6,31-33; Mt 10,29-31; Lc 12,24-31; Lc 21,18). Vì thế, chính Ngôi Lời đã tạo dựng, duy trì và dẫn dắt tất cả, khi nhập thể, đã biểu lộ một cách rõ ràng sự quan tâm quan phòng của mình.

Tuy nhiên, chúng ta chưa chạm đến chiều sâu nhất của giáo lý này, chiều sâu ấy được nhận ra khi quan sát rằng vận mệnh mà chúng ta được gọi đến, tức Nước Thiên Chúa, là một kế hoạch của Cha đã tồn tại trước cả tạo dựng, vì “Ngài đã chọn chúng ta trong Đức Kitô trước khi thế gian được tạo dựng, để chúng ta thánh thiện và không tì vết trước mặt Ngài trong tình yêu. Ngài đã định trước chúng ta làm con bởi Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh ân sủng của Ngài mà Ngài ban cho chúng ta qua Con yêu dấu” (Ep1,4-6). “Việc tiền định của con người và thế giới trong Đức Kitô, Con vĩnh cửu của Cha, đã mang lại cho toàn bộ giáo lý về Sự Quan Phòng của Thiên Chúa một đặc điểm cứu độ học và cánh chung học quan trọng”[4], đặt nó ở một tầm khác so với quan niệm cổ xưa về số phận. Chúng ta không bị kết án vào một tương lai bất khả kháng, mà đang trên đường gặp gỡ Đấng Tạo Hóa và Cha của mình.

3.      Sự Quan Phòng và Tự Do

Khi đã loại bỏ ý tưởng cho rằng Thiên Chúa không thể tác động vào thế giới, thì còn có những câu hỏi khác phát sinh: liệu điều đó có nghĩa là các tạo vật, đặc biệt là các tạo vật tự do, không phải là nguyên nhân thật sự? Nếu mọi sự xảy ra đều do Thiên Chúa tình yêu điều khiển, tại sao vẫn có cái ác tồn tại? Thiên Chúa có luôn hoạt động không, chỉ thỉnh thoảng hay chúng ta phải cam chịu rằng Ngài không bao giờ hành động?

Thiên Chúa bảo tồn các tạo vật cả trong sự tồn tại lẫn hành động của chúng. Các sự vật không chỉ duy trì tồn tại mà còn hoạt động theo thời gian, tạo ra kết quả. Các tạo vật thuộc linh hành động một cách tự do. Hành động của chúng là do chúng, không phải của Thiên Chúa, dù Ngài vẫn nâng đỡ chúng như người bảo đảm tự do đó. Vì vậy, theo Thánh Thoma, ta phải phân biệt giữa nguyên nhân và hậu quả sáng tạo của Thiên Chúa và nhân quả của các tạo vật, tức là nguyên nhân nguyên thủy của các nguyên nhân thứ cấp[5]. Mỗi nguyên nhân đều là nguyên nhân trọn vẹn trong trật tự riêng của nó, do đó không có mâu thuẫn giữa việc nhận rằng nếu không có Thiên Chúa, chúng ta chẳng làm được gì ( Ga 15,5) và việc các hành động của chúng ta thực sự là của chính chúng ta chứ không phải của Thiên Chúa.

Việc Thiên Chúa cai quản mọi sự không có nghĩa là Ngài không tôn trọng sự tự chủ của tạo vật. Hình ảnh về một Thiên Chúa quá “can thiệp” là điển hình cho những cách tiếp cận lẫn lộn giữa tạo dựng và sự quan phòng dựa trên quan niệm “thực tại luận” (actualiste), như thể Thiên Chúa phải liên tục sửa đổi dòng chảy của thế giới. Quan niệm này đối nghịch với quan niệm duy lý (déiste) cho rằng Thiên Chúa không can thiệp vào lịch sử (hoặc chỉ can thiệp vào những thời điểm quan trọng nhất). Nếu thuyết thực tại luận nhấn mạnh sự can thiệp liên tục của Thiên Chúa vào tạo vật, thì thuyết duy lý nhấn mạnh sự vượt lên trên của Thiên Chúa và sự tự chủ tương ứng của tạo vật. Quan điểm đầu gắn quá chặt tạo dựng với sự quan phòng, còn quan điểm thứ hai lại tách biệt quá xa.

Theo thánh Thoma Aquinô, để cai quản thế giới, Thiên Chúa sử dụng hành động của các nguyên nhân thứ cấp, đồng thời tôn trọng phạm vi riêng của chúng. Điều này thể hiện lòng nhân từ của Ngài, vì Ngài muốn dựa vào các tạo vật để đưa tạo dựng đến mục đích cuối cùng[6]. Vì Thiên Chúa dẫn dắt tất cả, phần nào đó, các nguyên nhân thứ cấp phục vụ cho kế hoạch của sự quan phòng. Các tạo vật, đặc biệt là các tạo vật tự do, được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện kế hoạch của Ngài[7]. Điều này áp dụng trước hết cho các thiên thần, mà Kinh Thánh trình bày như những người hành động đặc biệt của sự quan phòng. “Các sứ giả của Chúa, hãy chúc tụng Ngài, những người truyền lệnh không thể khuất phục, luôn lắng nghe tiếng Ngài!” (Tv 103, 20)[8]. Và điều này cũng đúng với con người, những người được Thiên Chúa giao quyền thống trị thế giới vật chất (St 1,28). Vì tự do, thiên thần và con người cũng có thể chống lại ý muốn của Thiên Chúa hoặc có hành vi trái ngược với ý Ngài. Điều đó có nghĩa là sự quan phòng không được thực hiện? Vậy làm sao giải thích sự hiện diện của sự dữ trong thế giới?

4.     Sự dữ

Nếu Thiên Chúa tạo dựng, nâng đỡ và cai quản mọi sự với lòng nhân hậu, thì sự dữ từ đâu mà có? “Đối với câu hỏi vừa cấp bách vừa không thể tránh khỏi này, vừa đau đớn vừa huyền bí, không có câu trả lời nhanh nào đủ thỏa đáng. Toàn bộ đức tin Kitô giáo chính là câu trả lời cho câu hỏi này [...]. Không có một nét nào trong thông điệp Kitô giáo mà không phần nào là câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ”[9].

Vì vậy, cần phải tiếp cận câu hỏi về sự dữ trong một thế giới tốt lành được tạo ra bởi một Thiên Chúa tốt lành. Thánh Thoma Aquinô cho rằng sự quan phòng thiêng liêng không loại trừ sự dữ trong các sự vật. Thiên Chúa không gây ra nó, nhưng Ngài cũng không loại bỏ tác động của các nguyên nhân thứ cấp có thể thất bại; sự thiếu hụt hiệu quả của nguyên nhân thứ cấp là do nó và không thể quy cho nguyên nhân nguyên thủy[10].

Thường người ta nói về sự “cho phép” của Thiên Chúa đối với sự dữ; điều này có nghĩa là sự dữ nằm trong sự quan phòng. “Thiên Chúa toàn năng [...], vì quá nhân hậu, sẽ không bao giờ cho phép sự dữ tồn tại trong tạo vật của Ngài nếu Ngài không đủ tốt lành và quyền năng để có thể đưa điều thiện ra từ chính cái ác”[11]. Thánh Thoma Aquinô khẳng định rằng Thiên Chúa thích đưa điều thiện ra từ cái ác hơn là không cho phép cái ác tồn tại hoàn toàn. Lòng nhân từ của Thiên Chúa cho phép sự dữ và dùng nó để đưa đến điều thiện lớn hơn. Thiên Chúa là “Đấng cung cấp toàn thể hữu thể”[12]. Khi ban cho con người tham gia vào sự quan phòng của Ngài, Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của họ, ngay cả khi họ làm điều ác[13]. Thật đáng ngạc nhiên khi Thiên Chúa “trong sự quan phòng toàn năng của Ngài có thể đưa điều thiện ra từ hậu quả của cái ác”[14]. Toàn bộ lịch sử có thể được giải thích theo cách này, liên quan đến lời của thánh Phaolô: “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy thắng điều ác bằng điều thiện” (Rm 12,21).

Nếu thường thấy sự dữ dường như mạnh hơn điều thiện, thì cũng khó mà xoá bỏ khuynh hướng tự nhiên của con người tin rằng cuối cùng điều thiện phải thắng và thực sự là như vậy, vì tình yêu mạnh mẽ hơn. Trải nghiệm về sự dữ đặt trước mắt chúng ta sự căng thẳng giữa quyền năng toàn năng và lòng nhân từ của Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, được trả lời một cách huyền bí qua biến cố Thập Giá của Đức Kitô tỏ bày “cách tồn tại” của Thiên Chúa[15].

Định nghĩa sự dữ như là sự thiếu hụt, chứ không phải phần cấu thành của vũ trụ, là quan điểm Kitô giáo. Một mặt cho rằng sự dữ tồn tại nhưng không có bản chất là vượt qua nghịch lý mà những người phủ nhận thực tại cái ác do lòng tốt và quyền năng vô hạn của Thiên Chúa rơi vào, và mặt khác những người phủ nhận lòng tốt và quyền năng vô hạn của Thiên Chúa vì thực tại cái ác. Sự thật về tạo dựng, khi được đặt đến cùng cực, đòi hỏi rằng không có sự thiếu hụt nào mà không có một thực thể bị thiếu; nghĩa là không có cái ác mà không có cái thiện để xác định nó. Cái ác tuyệt đối là điều không thể. Điều thiện là căn bản hơn và mạnh mẽ hơn cái ác.

Trước câu hỏi “Nếu Thiên Chúa tồn tại, thì cái ác từ đâu ra?”, Thánh Thoma Aquinô trả lời: “Bởi vì có cái ác, nên Thiên Chúa tồn tại. Nếu loại bỏ trật tự của điều thiện, cái ác sẽ không tồn tại vì nó là sự thiếu hụt điều thiện. Mà không có Thiên Chúa thì trật tự đó sẽ không có”[16]. Thế giới, mặc dù chưa hoàn hảo và có cái ác bên trong, vẫn tồn tại; do đó, Thiên Chúa tồn tại. Cái ác cần có một chủ thể để tồn tại (sẽ không có mù nếu không có người bị mất thị giác). Không có nghịch lý nào, cái ác chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa, vì nó cho chúng ta thấy sự tồn tại của một chủ thể tùy thuộc đòi hỏi sự tồn tại của một Đấng Tuyệt Đối.

5.     Sự Quan Phòng và đời sống Kitô hữu

Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy có những đoạn văn rõ ràng nói về sự quan phòng, đặc biệt trong các sách khôn ngoan, cũng như có những đoạn ngụ ý mang tính lịch sử cứu độ. Ở những đoạn sau này, ta có thể có cảm giác rằng Thiên Chúa đôi khi can thiệp, đôi khi không, như thể có những khoảng trống, những lúc Ngài có vẻ như ẩn mình. Vậy ta nên nói gì về điều này? Có mâu thuẫn nào trong Kinh Thánh không? Thực ra thì không phải như vậy. Sự Quan Phòng là liên tục, thực sự và không ngừng. Chỉ có con người không phải lúc nào cũng biết nhìn nhận những gì xảy ra như là sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện diện cả trong những điều có vẻ là điều thiện và qua việc cho phép cái ác và đau khổ. Cựu Ước dạy rằng chúng ta phải tìm kiếm và nhận ra dấu vết của Thiên Chúa trong mọi sự, như câu trả lời của Gióp với vợ mình sau khi ông mất hết con cái, của cải và sức khỏe: “Nếu chúng ta đón nhận điều tốt lành đến từ Thiên Chúa, thì tại sao không đón nhận cả điều bất hạnh?” (Job 2,10).

Sự mâu thuẫn bề ngoài của sự quan phòng được giải đáp triệt để nơi Đức Kitô bị đóng đinh, “quyền năng Thiên Chúa và sự khôn ngoan Thiên Chúa” (1 Cr 1,24). “Nếu chúng ta nhờ đức tin khám phá được quyền năng và ‘sự khôn ngoan’ này, thì chúng ta đang đi trên con đường cứu độ của sự Quan Phòng thiêng liêng [...]. Sự Quan Phòng thiêng liêng được tỏ lộ như cuộc đồng hành của Thiên Chúa với con người”[17]. Từ mầu nhiệm cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu, vốn là bất công lớn nhất trong lịch sử, Thiên Chúa đã rút ra điều thiện lớn nhất: sự cứu chuộc nhân loại.

Suy nghĩ này có tác động đến đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu. Đó là sự giải phóng cho con người khi biết rằng mình được Thiên Chúa Cha và sự Quan Phòng cai quản, chứ không phải bởi một định mệnh mù quáng. Lời chứng của các thánh khích lệ các tín hữu nhận ra sự cần thiết phải hiểu rằng “khi con người yêu mến Thiên Chúa, chính Người làm cho mọi sự đều góp phần cho điều thiện của họ” (Rm 8,28)[18]. Việc chấp nhận sự quan phòng mỗi ngày là một hành động hy vọng, thần học không loại trừ sự thực thi tự do có trách nhiệm, vốn là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Vì thế, đức tin vào sự quan phòng dẫn người Kitô hữu đến thái độ tín thác con thảo nơi Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh: biết ơn những điều tốt đẹp nhận được, và đơn sơ phó thác trước những điều dường như không tốt, vì Thiên Chúa luôn đưa ra điều thiện lớn hơn từ sự dữ.

                                  

                                                                              Linh mục Giuse Phan Cảnh

ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa

 

 

[1] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 301.

[2] Thomas d'Aquin, Summa Theologiae, I, q. 104, a. 1, ad 4.

[3] Jean-Paul II, Discours à l'audience générale, 14-05-1986.

[4] Jean Paul II, Discours à l'audience générale, 28-05-1986.

[5] Thomas d'Aquin, Contra Gentiles, lib. 3, ch. 95.

[6] Thomas d'Aquin, Contra Gentiles, lib. 3, ch. 77

[7] Jean-Paul II, Discours à l'audience générale, 30.04.1986.

[8] Id., Discours à l'audience générale, 30 07-1986

[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 309.

[10] Thomas d’Aquin, Summa Theologiae, I, q. 49, a. 2.

[11] Augustin d'Hippone, Manuel de la foi, de l'espérance et de la charité, 3,11.

[12] Thomas d'Aquin, Summa Theologiae, I, q. 22, a. 2, ad 2.

[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 302, 307, 311.

[14] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 312.

[15] Jean-Paul II, Discours à l'audience générale, 11-06-1986.

[16] Thomas d'Aquin, Contra Gentiles, lib. 3, ch. 71.

[17] Jean Paul II, Discours à l'audience générale, 11-06-1986.

[18] Josémaria Escrivá, Sillon, 127 ; Chemin de Croix, IX, 4 ; Amis de Dieu, 119.