
CUỘC THƯƠNG KHÓ, CÁI CHẾT VÀ SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ
Tất cả các mầu nhiệm về Chúa Giêsu đều là nguyên nhân cứu độ chúng ta. Cuộc sống thánh thiện và làm con của Ngài trên trần gian đã đưa thực tại con người trở lại với tình yêu của Cha, thực tại ấy trước đó đã bị biến dạng bởi tội nguyên tổ và bởi những tội cá nhân liên tiếp của mọi người. Ngài phục hồi và cứu thoát thực tại ấy khỏi quyền lực của ma quỷ.
Tuy nhiên, chỉ với mầu nhiệm Vượt Qua (cuộc thương khó, cái chết, sự phục sinh và sự lên trời bên hữu Thiên Chúa Cha) thì thực tại cứu chuộc này mới được thiết lập vĩnh viễn. Vì vậy, mầu nhiệm cứu độ của chúng ta thường được gán cho cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, tức mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Nhưng đừng quên rằng chính toàn bộ cuộc đời của Đức Kitô, cả giai đoạn trên trần gian lẫn giai đoạn vinh quang, mới thực sự cứu chúng ta. Hay nói theo Thánh Phaolo, nếu Đức Kitô chết mà không sống lại thì niềm tin của chúng ta trống rỗng ( 1Cr 15,14 ).
Cuộc thương khó và cái chết của Đức Kitô
Về mặt lịch sử, Chúa chúng ta đã chết vì Ngài bị các nhà cầm quyền Do Thái kết án và trao cho quyền lực La Mã để xử tử. Nguyên nhân của án tử này là vì Ngài đã tuyên bố trước Hội đồng Tối cao Do Thái rằng Ngài là Đấng Messia, Con Thiên Chúa, Đấng mà Thiên Chúa đã ban quyền xét xử mọi người. Tuyên bố này bị coi là phạm thượng nên Hội đồng Do thái đã quyết định xử tử Ngài.
Cần ghi nhận rằng án tử này của Chúa Giêsu nằm trong sự tiếp nối của lịch sử cứu độ dân Do Thái trước đó. Nhiều lần, Thiên Chúa đã nói với dân Israel qua các ngôn sứ ( Dt 1,1). Tuy nhiên, lời Chúa không phải lúc nào cũng được dân Israel đón nhận. Lịch sử Israel là lịch sử của những hành động anh hùng vĩ đại, nhưng cũng là lịch sử của nhiều cuộc nổi loạn lớn. Dân đã nhiều lần bỏ rơi Thiên Chúa và quên luật thánh mà Ngài đã ban. Do đó, các ngôn sứ thường phải chịu nhiều bất công để hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa trao phó.
Lịch sử của Chúa Giêsu là đỉnh cao của lịch sử Israel, một lịch sử mang tầm vóc phổ quát. Khi thời điểm viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Người để thực hiện các lời hứa với Israel và thiết lập Vương quốc của Ngài trên thế giới. Nhưng chỉ một số ít người chấp nhận và theo Ngài; các lãnh đạo dân đã từ chối và kết án Ngài tử hình. Chưa bao giờ con người lại từ chối Thiên Chúa một cách trực tiếp đến mức có thể ngược đãi Ngài bằng mọi cách có thể như vậy. Tuy nhiên đây là điều bí ẩn nhất của Thập Giá. Thiên Chúa không bảo vệ Con của Người khỏi sự ác độc của con người mà để Ngài vào tay những kẻ có tội: “Thiên Chúa đã cho phép những hành động xuất phát từ sự mù quáng của họ để thực hiện kế hoạch cứu độ của Người”[1]. Và Chúa Giêsu, theo ý Cha, “đã tự do chấp nhận cuộc thương khó và cái chết vì yêu loài người”[2]. Ngài đã tự nguyện dâng mình cho cuộc thương khó và cái chết bất công này. Ngài can đảm tuyên xưng thân phận và mối liên hệ với Cha dù biết rằng điều này sẽ không được kẻ thù chấp nhận. Ngài bị kết án chết một cách ô nhục và bạo lực, và do đó đã trải nghiệm trong thân xác và tâm hồn sự bất công của những người kết án Ngài. Hơn thế nữa, trong sự bất công mà Ngài chịu đựng và chấp nhận vì chúng ta, còn bao gồm tất cả những bất công và tội lỗi của nhân loại, bởi vì mọi tội lỗi không gì khác hơn là sự từ chối kế hoạch của Thiên Chúa trong Đức Kitô, đạt đến đỉnh điểm trong việc kết án Giêsu chịu một cái chết khốc liệt như vậy. Như Tóm Lược Giáo Lý Hội Thánh khẳng định: “Mỗi tội nhân, tức là mỗi con người, thật sự là nguyên nhân và phương tiện gây nên đau khổ cho Đấng Cứu Chuộc”[3].
Vậy là Đức Giêsu đã tự do chấp nhận những đau khổ thể xác và tinh thần do sự bất công của những kẻ có tội gây ra, và trong họ, Chúa Giêsu chịu thay mọi tội lỗi của con người, mọi sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Có thể nói một cách ẩn dụ rằng Ngài đã “mang trên vai” những tội lỗi của chúng ta. Nhưng tại sao Ngài lại làm vậy? Câu trả lời của Giáo Hội, dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng cùng một nền tảng chung: Ngài làm như vậy để xóa bỏ hoặc hủy bỏ tội lỗi của chúng ta bằng chính sự công chính trong lòng Ngài[4].
Làm thế nào Đức Giêsu đã hủy bỏ tội lỗi của chúng ta? Ngài đã gỡ bỏ chúng bằng cách chịu đựng những đau khổ vốn là hậu quả của tội lỗi loài người, trong sự kết hiệp vâng phục và yêu mến với Thiên Chúa Cha, với một lòng đầy công chính và bác ái của người yêu thương kẻ có tội, dù kẻ ấy không xứng đáng, người luôn tìm cách tha thứ những lỗi lầm bằng tình yêu (Lc 22,42; 23,34). Một ví dụ có thể giúp hiểu rõ hơn. Đôi khi, trong cuộc sống, có những tình huống mà một người bị tổn thương bởi một người khác mà mình yêu thương. Trong môi trường gia đình, ví dụ, một người già yếu và tàn tật có thể nổi cáu làm đau lòng người chăm sóc mình. Khi có tình yêu thật sự, nỗi đau đó được chấp nhận bằng lòng thương xót và người ta vẫn tiếp tục tìm điều tốt cho người làm tổn thương mình. Những oán giận dần biến mất vì chúng không có chỗ trong một tấm lòng công chính và yêu thương. Đức Giêsu đã làm điều tương tự, nhưng thực ra Ngài còn vượt xa hơn nhiều, vì người già trong ví dụ có thể được thương yêu bởi vì những điều tốt đẹp họ đã làm lúc còn trẻ. Nhưng Đức Giêsu đã yêu chúng ta mà không cần chúng ta xứng đáng, và Ngài không hy sinh cho một người nào đó vì lý do đặc biệt nào, mà cho tất cả mọi người, cho từng người mỗi: “Ngài đã yêu tôi và phó mình vì tôi”, như thánh Phaolô, người từng ác nghiệt bắt bớ các Kitô hữu, đã nói.
Đức Giêsu muốn dâng những đau khổ và cái chết của Ngài cho Thiên Chúa Cha nhân danh chúng ta để dựa trên tình yêu của Ngài, chúng ta luôn có thể nhận được sự tha thứ cho những lỗi phạm đến Thiên Chúa: “Nhờ những vết thương của Người, chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Và Thiên Chúa Cha, Đấng đã nâng đỡ hy tế của Đức Giêsu bằng quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã vui mừng trước tình yêu ở trong lòng Con Ngài. “Nơi tội lỗi dấy lên nhiều, ơn sủng càng tràn trề hơn” (Rm 5,20).
Vì vậy, trong biến cố lịch sử của Thánh Giá, điều căn bản không phải là hành động bất công của những kẻ buộc tội và kết án Ngài, mà là sự đáp trả của Đức Giêsu, đầy công chính và lòng thương xót đối với hoàn cảnh ấy. Sự đáp trả đó đồng thời là một hành động của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Trước hết đó là một món quà từ chính Thiên Chúa Cha: Cha trao Con Ngài để hòa giải chúng ta với Người. Đồng thời, đó là hy lễ của Con Thiên Chúa làm người, tự do và vì yêu thương, dâng hiến mạng sống mình cho Cha qua Chúa Thánh Thần, để chuộc lại sự bất tuân của chúng ta”[5].
Thập giá của Đức Kitô trước hết là biểu hiện của tình yêu quảng đại của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người, một tình yêu cứu độ chúng ta. Đó chính là bản chất của mầu nhiệm này[6].
Quả của Thập giá chủ yếu là sự loại bỏ tội lỗi. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể phạm tội, hoặc mọi tội lỗi đều được tha thứ một cách tự động mà không cần nỗ lực nào từ phía chúng ta. Có lẽ cách giải thích dễ hiểu nhất là bằng một phép ẩn dụ. Nếu trong một chuyến đi bộ hay dạo chơi ở vùng quê, ta bị rắn độc cắn, ta sẽ ngay lập tức tìm thuốc giải độc. Chất độc, cũng như tội lỗi, có tác hại phá hủy đối với cơ thể. Chức năng của thuốc giải độc là giải thoát ta khỏi sự phá hoại ấy, và nó có thể làm được điều đó vì bên trong nó có một chất trung hòa chất độc. Thập giá chính là “thuốc giải độc” của tội lỗi. Trong đó có một tình yêu hiện diện chính là để đáp lại sự bất công và những xúc phạm; tình yêu hy sinh ấy tuôn trào từ trái tim Đức Kitô, ngay trong sự cô đơn đau đớn trên Thập giá, là yếu tố có thể vượt qua tội lỗi, chiến thắng và loại bỏ nó.
Chúng ta là những người có tội, nhưng chúng ta có thể được giải thoát khỏi tội lỗi và những hậu quả tai hại của nó bằng cách tham dự vào mầu nhiệm Thập giá, bằng khát khao đón nhận “thuốc giải độc” mà Đức Kitô đã tạo ra trong chính Ngài, bằng cách chịu đựng sự đau khổ do tội lỗi gây ra, loại thuốc giải độc này được áp dụng cho chúng ta qua các bí tích. Bí tích Rửa tội nhập chúng ta vào Đức Kitô và đồng thời xoá sạch tội lỗi, Bí tích Giải tội thanh tẩy chúng ta và đem lại sự tha thứ của Thiên Chúa, Bí tích Thánh Thể thanh luyện và tăng sức mạnh cho chúng ta. Như vậy, mầu nhiệm Thập giá, hiện diện trong các bí tích, dẫn dắt chúng ta đến sự sống mới vĩnh cửu, nơi không còn điều ác hay tội lỗi nữa, vì tất cả đã bị hủy bỏ bởi Thập giá của Đức Kitô.
Ngoài ra còn có những quả khác của Thập giá. Trước một cây Thánh giá, ta nhận ra rằng Thập giá không chỉ là thuốc giải độc cho tội lỗi, mà còn bộc lộ quyền năng của tình yêu. Đức Giêsu trên Thánh giá cho ta thấy ta có thể hy sinh đến đâu vì yêu thương Thiên Chúa và tha nhân, và Ngài chỉ cho chúng ta con đường phát triển toàn diện của con người, vì ý nghĩa của con người chính là trong tình yêu chân thật dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Dĩ nhiên, ta chỉ có thể đạt đến sự viên mãn con người ấy vì Đức Giêsu cho ta tham dự vào sự Phục sinh của Ngài và ban cho ta Chúa Thánh Thần[7].
Các cách diễn đạt trong Kinh Thánh và phụng vụ
Chúng ta vừa làm rõ ý nghĩa thần học của Cuộc Thương Khó và Cái Chết của Đức Giêsu. Đây cũng chính là điều các Kitô hữu đầu tiên đã làm, họ sử dụng những phạm trù và khái niệm vốn có trong văn hóa tôn giáo thời đó và được ghi lại trong Tân Ước. Cuộc Thương Khó và Cái Chết của Đức Kitô được hiểu như:
- Một hy lễ giao ước.
- Một hy lễ chuộc tội, làm đẹp lòng Thiên Chúa và đền tội.
- Một hành động cứu chuộc và giải phóng nhân loại.
- Một hành động làm cho chúng ta được công chính và hòa giải với Thiên Chúa.
Hãy cùng xem xét các cách trình bày khác nhau về ý nghĩa của Cuộc Thương Khó và Cái Chết của Đức Kitô mà chúng ta thường gặp khi đọc Kinh Thánh hoặc tham dự Phụng vụ:
a) Đức Giêsu, khi dâng mạng sống mình cho Thiên Chúa trên Thập giá, đã thiết lập Giao ước Mới, tức là hình thức mới và cuối cùng của sự kết hợp giữa Thiên Chúa với nhân loại, được các tiên tri Isaia (Is 42,6), Giêrêmia (Gr 31,31-33) và Êzêkiel (Ez 37,26) tiên báo trước. Đây là giao ước mới của Đức Kitô với Hội Thánh, mà chúng ta là thành phần nhờ Bí tích Rửa tội.
b) Hy lễ của Đức Kitô trên Thập giá có giá trị chuộc tội, nghĩa là để rửa sạch và thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi (Rm 3,25; Dt 1,3; 1 Ga 2,2; 4,10). Hy lễ này cũng mang giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa và đền tội, vì Đức Giêsu đã bày tỏ với Chúa Cha qua sự vâng phục lòng yêu mến và sự phục tùng mà chúng ta, con người, đã từ chối qua những xúc phạm của mình. Nhờ đó, Ngài đã làm thỏa lòng Chúa Cha và đền bù những lỗi phạm ấy.
c) Thập giá của Đức Kitô là hành động cứu chuộc và giải phóng con người. Đức Giêsu đã trả giá cho tự do của chúng ta bằng chính máu mình, tức là bằng những đau khổ và cái chết của Ngài, và nhờ đó cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi (1 Pr 1,18) và giải thoát khỏi quyền lực của ma quỷ. Mỗi người phạm tội phần nào trở thành tôi tớ của ma quỷ.
d) Đặc biệt trong các thư của thánh Phaolô, chúng ta đọc thấy rằng máu Đức Kitô làm cho chúng ta được công chính, nghĩa là trả lại cho chúng ta sự công chính đã mất khi phạm tội xúc phạm Thiên Chúa, và hòa giải chúng ta với Ngài. Thập giá cũng như sự Phục sinh của Đức Kitô là nguyên nhân khiến chúng ta được công chính hóa. Thiên Chúa lại hiện diện trong tâm hồn chúng ta vì Thánh Thần lại đến ngự trong lòng chúng ta.
Sự phục sinh của Chúa Kitô
Sau khi chịu đau khổ và chết, thân xác Đức Kitô đã được chôn trong một ngôi mộ mới, không xa nơi Người bị đóng đinh trên thập giá. Tuy nhiên, linh hồn Người lại “xuống âm phủ”, nghĩa là linh hồn đã chia sẻ trạng thái của những người công chính đã chết trước Người. Họ chưa được vào trong vinh quang thiên đàng vì họ đang chờ đợi vị Vua Đấng Mêsia sẽ đến và mang lại sự cứu độ trọn vẹn cho họ.
Việc chôn cất Đức Giêsu chứng tỏ Người thật sự đã chết. Việc Người xuống âm phủ cũng có tác dụng cứu độ: mở cửa thiên đàng cho những người công chính đang chờ Đấng Kitô, để họ có thể tham dự hạnh phúc vĩnh cửu trong Thiên Chúa.
Người đã sống lại từ kẻ chết. Vào ngày thứ ba, sau khi chết, Đức Giêsu đã sống lại trong một sự sống mới. Linh hồn và thân xác của Người, được biến đổi hoàn toàn bởi vinh quang của Ngôi Vị Thiên Chúa, đã lại được hợp nhất với nhau. Linh hồn trở lại chiếm hữu thân xác và vinh quang của linh hồn được trao trọn cho thân xác. Vì vậy, “Sự phục sinh của Đức Kitô không phải là trở lại cuộc sống trần gian. Thân xác phục sinh của Người là thân xác đã bị đóng đinh và mang dấu vết của cuộc Thương Khó, nhưng nay được tham dự vào sự sống thần linh với những đặc tính của một thân xác huy hoàng”[8].
Sự kiện Phục Sinh của Đức Kitô.
Đức Giêsu thật sự đã sống lại. Các Tông đồ không thể sai lầm hay bịa đặt về sự phục sinh này. Trước hết, nếu ngôi mộ của Đức Kitô không trống, họ đã không thể tuyên bố về sự phục sinh của Người; hơn nữa, nếu Chúa không hiện ra nhiều lần cho nhiều nhóm người khác nhau, gồm cả nam và nữ, thì nhiều môn đệ của Người đã không thể tin vào sự phục sinh, như trường hợp ban đầu của Tông đồ Tôma. Họ càng không thể hy sinh mạng sống cho một lời nói dối. Như thánh Phaolô nói, nếu Đức Kitô không sống lại, thì chính ông Phaolô đã làm chứng giả về Thiên Chúa “khi làm chứng (…) rằng Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại, nhưng thực ra Người chưa sống lại” (1 Cr 15, 15). Nhưng Phaolô không có ý định làm điều đó. Ông hoàn toàn tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu vì ông đã thấy Người sống lại. Tương tự, thánh Phêrô dũng cảm đáp lại các thủ lãnh Do Thái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa tổ tiên chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Người mà các ông đã giết bằng cách treo lên cây thập giá. (…) Chúng tôi là chứng nhân về tất cả những điều đó” (Cv 5, 29 - 32).
Ý nghĩa thần học của sự phục sinh.
Sự phục sinh của Đức Kitô tạo thành một thể thống nhất với cái chết trên thập giá của Người. Cũng như qua cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã xóa tội lỗi và hòa giải thế gian với Ngài, thì qua sự phục sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã mở ra sự sống mới, sự sống của thế giới mai sau, và làm cho con người có thể tham dự vào đó.
Toàn bộ sự đau khổ thể xác và tinh thần mà Đức Giêsu chịu trên thập giá được biến đổi nhờ sự phục sinh thành hạnh phúc và sự viên mãn, cả trong thân xác lẫn linh hồn. Tất cả nơi Người đều tràn đầy sự sống của Thiên Chúa, tình yêu của Ngài, hạnh phúc của Ngài, và đó là điều sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Nhưng điều đó không chỉ dành cho riêng Người, mà còn dành cho chúng ta. Qua ơn Chúa Thánh Thần, Chúa cho chúng ta tham dự vào sự sống mới của sự phục sinh của Người. Ở đời này, Người đã ban cho chúng ta đầy ơn phước, ơn của Đức Kitô khiến chúng ta trở thành con cái và bạn hữu của Thiên Chúa; và nếu chúng ta trung thành, cuối đời Người cũng sẽ trao cho chúng ta vinh quang của Người, để chúng ta cũng được hưởng vinh quang phục sinh.
Theo nghĩa này, chúng ta, những người đã được rửa tội, “đã từ cõi chết bước sang sự sống”, từ sự xa cách Thiên Chúa đến ơn nghĩa chính và làm con Thiên Chúa. Chúng ta là những đứa con yêu dấu của Thiên Chúa nhờ quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, của sự chết và sự phục sinh của Người. Chính trong sự phát triển đời sống làm con Thiên Chúa này mà nhân tính của chúng ta được viên mãn.
Sự Thăng Thiên của Đức Kitô
Sự Thăng Thiên lên trời đánh dấu sự kết thúc sứ mạng của Đức Kitô, sự sai phái Người xuống trần gian trong thân xác phàm trần để mang lại sự cứu rỗi. Sau khi phục sinh, Đức Kitô cần ở lại với các môn đệ trong một thời gian nhất định để tỏ hiện sự sống mới của Người và hoàn tất việc đào tạo họ. Sự hiện diện này chấm dứt vào ngày lễ Thăng Thiên. Tuy nhiên, mặc dù Đức Giêsu trở về trời cùng với Chúa Cha, Người vẫn ở cùng chúng ta dưới nhiều cách khác nhau, đặc biệt là qua phương thức bí tích, qua Thánh Thể.
Ngự bên hữu Chúa Cha, Đức Giêsu tiếp tục sứ vụ làm Đấng Trung Gian toàn cầu của sự cứu độ. Người là Chúa, hiện đang cai trị với nhân tính trong vinh quang vĩnh cửu của Con Thiên Chúa, và liên tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha. Người sai Thánh Thần đến và ban cho chúng ta hy vọng được một ngày nào đó đến cùng Người, nơi Người đã chuẩn bị chỗ cho chúng ta.
Việc tôn vinh Đức Kitô khuyến khích chúng ta sống với ánh mắt hướng về vinh quang trên trời: “Hãy tìm kiếm những điều thuộc về thượng giới” (Cl 3,1); điều này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không có thành phố vĩnh cửu nơi đây (Dt 13,14), và thôi thúc chúng ta thánh hóa những thực tại trần gian; đồng thời, thúc đẩy chúng ta sống đức tin vì chúng ta biết rằng Đức Giêsu luôn đồng hành, Người biết và yêu thương chúng ta từ trời cao, và liên tục ban ơn Thánh Thần. Nhờ sức mạnh Thiên Chúa, chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ truyền giáo Người giao phó: đem Người đến với mọi linh hồn (Mt 28,19) và đặt Người lên trên mọi hoạt động nhân loại (Ga 12,32), để Nước Người trở thành hiện thực (1 Cr 15,25). Hơn nữa, Người luôn đồng hành với chúng ta ngang qua Giáo hội.
Ý nghĩa của mầu nhiệm Vượt Qua trong đời sống Kitô hữu
Sự phục sinh của Đức Giêsu không chỉ là trở lại cuộc sống trước kia như trường hợp Ladarô, mà là một sự sống hoàn toàn mới và khác biệt. Sự phục sinh của Đức Kitô là bước chuyển sang một sự sống không còn bị sự phù du của thời gian chi phối, mà là một sự sống hòa mình trong sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Và điều này không chỉ là điều Đức Giêsu đạt được cho riêng mình, mà cho tất cả chúng ta, những người mà Người đã chết và sống lại vì họ.
Mầu nhiệm Vượt Qua vang vọng trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trong thư gửi tín hữu Côlôxê, thánh Phaolô nói: “Nếu anh em đã cùng sống lại với Đức Kitô, thì hãy tìm kiếm những điều trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Hãy nghĩ đến những điều trên trời, chứ không phải những điều dưới đất” (Cl 3, 1-2). Lời này của thánh Phaolô, một lời bình luận thú vị như sau: “Nhìn thoáng qua, khi đọc đoạn này, có thể tưởng tượng rằng Tông đồ muốn khuyến khích khinh miệt các thực tại trần gian, mời gọi quên đi thế giới đầy đau khổ, bất công và tội lỗi này để sống trước trong thiên đàng. Suy nghĩ về “trời” trong trường hợp này sẽ là một loại xa lánh thực tại. Nhưng để hiểu đúng ý nghĩa các lời của Phaolô, chỉ cần không tách rời chúng khỏi bối cảnh. Tông đồ giải thích rất rõ điều ông gọi là “những điều trên trời”, điều mà người Kitô hữu phải tìm kiếm, và “những điều dưới đất”, điều mà người ta phải tránh. Trước hết, những “điều dưới đất” cần tránh là: “Hãy làm cho chết đi nơi anh em những điều thuộc về thế gian: dâm dục, sự ô uế, đam mê, ham muốn xấu xa, và cơn khát sở hữu, điều đó là thờ ngẫu tượng”. Chết đi trong chúng ta những ham muốn vật chất không đáy, ích kỷ, nguồn gốc mọi tội lỗi”[9].
Do đó, điều cần làm là “loại bỏ con người cũ” để mặc lấy Đức Kitô và những điều tốt đẹp mà Người đã đạt được cho chúng ta. Thánh Phaolô tự thân giải thích những điều tốt đẹp đó là gì:
“Vì anh em được Thiên Chúa tuyển chọn, được thánh hóa và được Ngài yêu thương, hãy mặc lấy lòng nhân hậu và sự cảm thông, lòng tốt, khiêm nhường, dịu dàng và kiên nhẫn. Hãy chịu đựng nhau, và tha thứ cho nhau nếu có điều gì phải trách móc nhau. Nhưng trên hết tất cả, hãy có tình yêu, vì tình yêu là dây liên kết hoàn hảo nhất” (Cl 3, 12-14).
Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi những điều tốt đẹp trên trời không phải là chạy trốn khỏi hiện tại, như thể hiện tại chỉ là một trở ngại để đạt tới sự sống đời đời; trái lại, đó là bước đi kiêu hãnh trong hiện tại hướng tới sự sống đời đời.
Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta thường xuyên sống lại ơn gọi rửa tội mà chúng ta đã nhận được từ Đức Kitô, Đấng cho chúng ta tham dự vào sự sống và ơn nghĩa của Người. Chúng ta cần sống bằng đức tin, với sự tin cậy vào Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài, chờ đợi Ngài làm cho các việc làm của chúng ta sinh hoa trái tốt lành, và nuôi dưỡng lòng bác ái với mọi người. Chúng ta cần cầu nguyện và thường xuyên đến với các nguồn ơn lành là các bí tích. Nhờ đó, cuộc sống từng có thể là một đời nô lệ cho tội lỗi, bị giam hãm trong ngàn vạn những ích kỷ nhỏ nhoi, sẽ trở thành một đời sống thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta được biến đổi bởi ơn nghĩa làm cho chúng ta nên thánh, đồng thời chúng ta cũng góp phần nhỏ bé của mình vào sự biến đổi thế giới theo ý Thiên Chúa, sẽ hoàn tất vào cuối thời gian. Nhưng ngay từ bây giờ, qua gương sáng và việc làm của người Kitô hữu, chúng ta mang lại cho cuộc sống trần gian một diện mạo mới, tôn trọng nhân loại thật sự: tình liên đới, phẩm giá con người, hòa bình và hòa hợp gia đình, công lý và phát triển xã hội, và sự quan tâm đến môi trường sống của chúng ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, tin chắc rằng sự phục sinh của Đức Kitô đã làm mới con người mà không loại trừ con người khỏi thế giới mà con người xây dựng lịch sử của mình, chúng ta phải là chứng nhân rạng ngời của sự sống mới mà lễ Vượt Qua đã mang lại cho chúng ta, ánh sáng của sự phục sinh của Đức Kitô phải thấm nhập vào thế giới chúng ta, phải trở thành thông điệp chân lý và sự sống đến với mọi người qua chứng tá hằng ngày của chúng ta[10].
Linh mục Giuse Phan Cảnh
ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa
----------------------------
[1] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 600.
[2] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 609.
[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 117.
[4] St Jean Paul II, Je crois en Jésus-Christ. Catéchèse sur le Credo.
[5] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 614.
[6] Vicente Ferrer, Jésus-Christ, notre Sauveur, Laurier, 2005.
[7] Joseph Grifone, A la rencontre de Jésus-Christ, Laurier 2017.
[8] Bernard Legras, Jésus est-il vraiment ressuscité? Téqui, 2015.
[9] ĐGH Bênêđíctô XVI, buổi tiếp kiến chung, 27 tháng 4 năm 2011.
[10] ĐGH Bênêđíctô XVI, buổi tiếp kiến chung, 27 tháng 4 năm 2011.









