
WHĐ (11/11/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh thánh của lễ Chúa nhật 33 Thường niên năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
|
Số 162-165: Kiên trì trong đức tin; đức tin là khởi đầu của sự sống muôn đời Số 675-677: Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh Số 307, 531, 2427-2429: Lao động của con người có giá trị cứu chuộc |
Số 162-165: Kiên trì trong đức tin; đức tin là khởi đầu của sự sống muôn đời
Số 162. Đức tin là một hồng ân nhưng không, Thiên Chúa ban tặng cho con người. Chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó. Thánh Phaolô cảnh giác ông Timôthê về nguy cơ này: “Đây là chỉ thị tôi trao cho anh … để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp này, với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1 Tm 1,18-19). Để sống, lớn lên và kiên trì đến cùng trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa; chúng ta phải cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta[1]; đức tin ấy phải hành động “nhờ đức mến” (Gl 5, 6)[2], phải được nâng đỡ bằng đức cậy[3] và phải đâm rễ trong đức tin của Hội Thánh.
Đức tin – khởi đầu của sự sống muôn đời
Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:
“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi”[4].
Số 164. Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta “tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa” (2 Cr 5,7), và chúng ta nhận biết Thiên Chúa “lờ mờ như trong một tấm gương, có ngần, có hạn” (1 Cr 13,12). Mặc dù đức tin sáng tỏ nhờ Đấng chúng ta tin, nhưng đời sống đức tin lại thường tối tăm. Đức tin có thể bị thử thách. Trần gian mà chúng ta đang sống thường được coi như xa vời với những gì đức tin tuyên xưng; những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về những bất công và cái chết, dường như mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có thể làm cho đức tin bị nao núng và trở thành một cám dỗ đối với đức tin.
Số 165. Chính lúc đó chúng ta phải hướng về các nhân chứng đức tin: về ông Abraham, là người “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin” (Rm 4,18); về Đức Trinh Nữ Maria, là người, “trong cuộc lữ hành đức tin”[5], đã tiến đến tận “đêm tối của đức tin”[6] khi tham dự vào đêm tối là cuộc khổ hình thập giá của Con ngài, và đêm tối là phần mộ của Người[7]; và chúng ta phải hướng về biết bao nhiêu nhân chứng đức tin khác nữa: “Được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Chúa Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2).
Số 675-677: Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh
Số 675. Trước cuộc Ngự đến của Đức Kitô, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu[8]. Cuộc bách hại, luôn đi theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian[9], sẽ làm lộ rõ “mầu nhiệm sự dữ” dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản Kitô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Messia giả hiệu, trong đó con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Messia của Ngài đã đến trong xác phàm[10].
Số 676. Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác hoạ trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Messia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm (millenarismus)[11], nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Messia đã bị tục hoá (messianismus saecularizatus), “đồi bại tự bản chất”[12].
Số 677. Hội Thánh chỉ tiến vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua cuối cùng này, trong đó Hội Thánh đi theo Chúa của mình trong sự chết và sự sống lại của Người[13]. Vì vậy Nước Trời sẽ không được thực hiện bằng một chiến thắng của Hội Thánh trong lịch sử[14], theo một đà tiến từ dưới đi lên nào đó, nhưng bằng sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cuộc tấn công cuối cùng của sự dữ[15], sự chiến thắng đó làm cho Tân nương của Ngài từ trời xuống[16]. Chiến thắng của Thiên Chúa trên sự nổi loạn của sự dữ sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng[17], sau cuộc đảo lộn cuối cùng khắp vũ trụ của trần gian đang qua đi[18].
Số 307, 531, 2427-2429: Lao động của con người có giá trị cứu chuộc
Số 307. Đối với con người, Thiên Chúa còn ban cho dư đầy khả năng để tham dự một cách tự do vào sự quan phòng của Ngài, khi trao cho họ trách nhiệm làm chủ trái đất và thống trị nó[19]. Như vậy, Thiên Chúa cho con người trở nên những nguyên nhân thông minh và tự do để hoàn thành công trình tạo dựng, và thực hiện sự hài hoà của công trình ấy hầu mưu ích cho chính mình và cho tha nhân. Con người, những cộng tác viên thường là vô ý thức, của thánh ý Thiên Chúa, có thể tham gia một cách ý thức vào kế hoạch của Thiên Chúa bằng hành động, bằng kinh nguyện, và cả bằng các đau khổ của mình[20]. Như vậy, họ trở thành “những cộng sự viên của Thiên Chúa” (1 Cr 3,9)[21] và của Nước Ngài[22] cách trọn vẹn.
Số 531. Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái giáo[23], một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mạc khải là Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ Người[24] và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Số 2427. Lao động của con người xuất phát trực tiếp từ những nhân vị, đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và được kêu gọi để tiếp nối công trình tạo dựng, cùng với nhau và cho nhau, bằng việc làm chủ trái đất[25]. Vì vậy, lao động là một bổn phận: “Ai không chịu làm việc thì cũng đừng ăn” (2 Tx 3,10)[26]. Lao động biểu dương các hồng ân của Đấng Tạo Hoá và những tài năng đã lãnh nhận. Lao động cũng có giá trị cứu chuộc. Khi chịu đựng những vất vả[27] của lao động trong sự kết hợp với Chúa Giêsu, người thợ làng Nazareth và đã chịu đóng đinh vào thập giá trên đồi Calvariô, con người cộng tác một cách nào đó với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc của Người. Họ biểu lộ mình là môn đệ của Đức Kitô, khi vác thập giá hằng ngày trong hoạt động họ được kêu gọi chu toàn[28]. Lao động có thể là một phương thế thánh hóa và làm sinh động các thực tại trần thế trong Thần Khí của Đức Kitô.
Số 2428. Trong lao động, con người thực thi và kiện toàn một phần các tài năng đã được ghi khắc trong bản tính của mình. Giá trị hàng đầu của lao động thuộc về con người, là tác giả và là mục tiêu của lao động. Lao động cho con người, chứ không phải con người cho lao động[29].
Mỗi người phải có thể rút từ lao động các phương tiện để nuôi sống mình và những người thuộc về mình, và để phục vụ cộng đồng nhân loại.
Số 2429. Mỗi người có quyền có sáng kiến về kinh tế, mỗi người nên sử dụng cách hợp pháp các tài năng của mình, để góp phần làm ra nhiều của cải cho mọi người được hưởng, và để thu lượm những hoa trái chính đáng do các nỗ lực của mình. Họ phải quan tâm để tuân theo những quy định do các quyền bính hợp pháp đề ra vì công ích[30].
Số 673, 1001, 2730: Ngày tận thế
Số 673. Sau cuộc Thăng Thiên, việc Ngự đến trong vinh quang của Đức Kitô luôn gần kề[31], mặc dù chúng ta “không biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7)[32]. Biến cố cánh chung này có thể xảy ra bất cứ lúc nào[33], mặc dù chính biến cố đó cũng như cuộc thử thách cuối cùng phải xảy ra trước biến cố đó, còn được “trì hoãn”[34].
Số 1001. Khi nào phục sinh? Một cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54; 11,24); “ngày tận thế”[35]. Quả vậy, sự phục sinh của những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của Đức Kitô:
“Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên” (l Tx 4,16).
Số 2730. Về mặt tích cực, cuộc chiến đấu chống lại “cái tôi” thích chiếm hữu và thống trị của chúng ta chính là sự tỉnh thức, tức là sự tiết độ của tâm hồn. Khi kêu gọi sự tỉnh thức, Chúa Giêsu luôn quy chiếu về việc Người đến vào ngày cuối cùng và từng ngày, vào “Hôm nay”. Chàng Rể đến vào nửa đêm, nên ta không được để cho ánh sáng đức tin tàn lụi: “Nghĩ về Ngài lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27,8).
Bài Ðọc I: Ml 4, 1-2a
“Các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho”.
Trích sách Tiên tri Malakhi.
“Ðây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa: tất cả những kẻ kiêu căng và những người làm tội ác sẽ như rơm rạ, ngày ấy đến sẽ thiêu đốt họ, và không để sót lại cho họ cội rễ ngành chồi gì cả, Chúa các đạo binh phán như vậy. Phần các ngươi là những kẻ kính sợ thánh danh Ta, các ngươi sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên cho, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 5-6. 7-8. 9
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm, với cây đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực.
2) Biển khơi và muôn vật trong đó hãy rống tiếng lên, cả địa cầu và những dân cư ngụ ở trong cũng thế. Các sông ngòi hãy vỗ tay reo, đồng thời các núi non hãy hân hoan nhảy nhót.
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực.
3) Trước thiên nhan Chúa vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người cai quản địa cầu với đức công minh, và cai quản chư dân trong đường chính trực.
Ðáp: Chúa ngự tới cai quản chư dân trong đường chính trực.
Bài Ðọc II: 2Tx 3, 7-12
“Nếu ai không muốn làm việc thì đừng có ăn”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chính anh em biết phải noi gương chúng tôi thế nào, bởi vì chúng tôi đã không lười biếng lúc ở giữa anh em, cũng không ăn bám của ai, nhưng chúng tôi làm lụng khó nhọc vất vả đêm ngày, để không trở nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải chúng tôi không có quyền, nhưng là để nêu gương cho anh em, để anh em bắt chước chúng tôi. Bởi vì khi chúng tôi còn ở với anh em, chúng tôi đã truyền dạy anh em rằng: “Nếu ai không muốn làm việc, thì đừng có ăn”. Vì chúng tôi nghe tin có một số người trong anh em sống nhàn cư, chẳng làm việc gì hết, nhưng lại dây mình vào mọi việc. Ðối với những hạng người đó, chúng tôi mời gọi và khuyến cáo họ trong Chúa Giêsu Kitô, để họ yên hàn làm việc và dùng lương thực mình tìm ra.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 24, 42a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 5-19
“Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá”. Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?” Người phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: ‘Chính ta đây và thời giờ đã gần đến’. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu”.
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con”.
Ðó là lời Chúa.
_____________
[1] X. Mc 9,24; Lc 17,5; 22,32.
[2] X. Gc 2,14-26.
[3] X. Rm 15,13.
[4] Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32,132); x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, II-II, q. 4, a. 1, c: Ed. Leon. 8, 44.
[5] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 58: AAS 57 (1965) 61.
[6] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 17: AAS 79 (1987) 381.
[7] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Mater, 18: AAS 79 (1987) 382-383.
[8] X. Lc 18,8; Mt 24,12.
[9] X. Lc 21,12; Ga 15,19-20.
[10] X. 2 Tx 2,4-12; 1 Tx 5,2-3; 2 Ga 7; 1 Ga 2,18.22.
[11] X. Sanctum Officium, Decretum de millenarismo (19-7-1944): DS 3839.
[12] X. ĐGH Piô XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19-3-1937): AAS 29. (1937) 65-106; CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 20-21: AAS 58 (1966) 1040-1042.
[13] X. Kh 19,1-9.
[14] X. Kh 13,8.
[15] X. Kh 20,7-10.
[16] X. Kh 21,2-4.
[17] X. Kh 20,12.
[18] X. 2 Pr 3,12-13.
[19] X. St 1,26-28.
[20] X. Cl 1,24.
[21] X. 1 Tx 3,2.
[22] X. Cl 4,11.
[23] X. Gl 4,4.
[24] X. Lc 2,51.
[25] X. St 1,28; CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 34: AAS 58 (1966) 1052-1053; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 31: AAS 83 (1991) 831-832.
[26] X. 1 Tx 4,11.
[27] X. St 3,14-19.
[28] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens, 27: AAS 73 (1981) 644-647.
[29] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens, 6: AAS 73 (1981) 589-592.
[30] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 32: AAS 83 (1991) 832-833; Ibid., 34: AAS 83 (1991) 835-836.
[31] X. Kh 22,20.
[32] X. Mc 13,32.
[33] X. Mt 24,44; 1 Tx 5,2.
[34] X. 2 Tx 2,3-12.
[35] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 54.
Nguồn: hdgmvietnam.com



