WHĐ (06/3/2025) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của lễ Chúa nhật 1 Mùa Chay năm C theo sự hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích.
Số 394, 538-540, 2119: Chúa Giêsu chịu cám dỗ
Số 394. Thánh Kinh chứng tỏ ảnh hưởng tai hại của kẻ mà Chúa Giêsu gọi là “tên sát nhân … ngay từ đầu” (Ga 8,44), nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi trệch ra khỏi sứ vụ Người đã lãnh nhận nơi Chúa Cha[1]. “Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ” (l Ga 3,8). Trong các hậu quả của các việc làm của ma quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn đưa con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.
Số 538. Các sách Tin Mừng có nói đến một thời gian Chúa Giêsu sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau khi Người nhận phép rửa của ông Gioan. “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa” (Mc 1,12) và Chúa Giêsu ở lại đó bốn mươi ngày không ăn; Người sống giữa các dã thú và các Thiên thần hầu hạ Người.[2] Cuối thời gian này, Satan cám dỗ Người ba lần nhằm đặt vấn đề về thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã đẩy lui các cuộc tấn công này, chúng thu tóm cơn cám dỗ của ông Ađam trong vườn địa đàng và những cơn cám dỗ của dân Israel trong hoang địa, rồi ma quỷ bỏ Người mà đi, “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,l3).
Số 539. Các tác giả Tin Mừng nêu rõ ý nghĩa cứu độ của biến cố bí nhiệm này. Chúa Giêsu là Ađam mới, Người vững lòng trung thành ở chỗ Ađam cũ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Chúa Giêsu thực hiện cách hoàn hảo ơn gọi của dân Israel: trái hẳn với những kẻ xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt bốn mươi năm trong hoang địa[3], Chúa Giêsu được mạc khải như Người Tôi Trung của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Trong việc này, Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ: Người đã trói kẻ mạnh và thu lại tài sản nó đã cướp[4]. Chiến thắng của Chúa Giêsu trước kẻ cám dỗ trong hoang địa báo trước chiến thắng của cuộc khổ nạn, là sự vâng phục tuyệt đối trong tình yêu con thảo của Người đối với Chúa Cha.
Số 540. Cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu cho thấy cách thế Con Thiên Chúa là Đấng Messia, trái ngược hẳn điều Satan xúi giục Người và người ta muốn gán cho Người[5]. Chính vì thế, Đức Kitô chiến thắng Tên cám dỗ là chiến thắng cho chúng ta: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Mỗi năm, qua bốn mươi ngày Mùa Chay, Hội Thánh kết hợp với mầu nhiệm Chúa Giêsu trong hoang địa.
Số 2119. Hành động thử thách Thiên Chúa là dùng lời nói hay việc làm để thử sự tốt lành và sự toàn năng của Thiên Chúa. Đây là điều Satan muốn thấy nơi Chúa Giêsu, khi xúi giục Người gieo mình từ trên nóc Đền Thờ xuống, và qua cử chỉ đó, ép buộc Thiên Chúa phải hành động . Chúa Giêsu dùng Lời Thiên Chúa đối lại nó: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6,16). Thách đố, hàm chứa một sự thử thách như vậy, làm tổn thương lòng tôn kính và tin tưởng mà chúng ta phải dành cho Đấng Tạo Hoá và là Chúa của chúng ta. Thử thách Thiên Chúa luôn hàm chứa thái độ hoài nghi về tình yêu của Ngài, sự quan phòng và quyền năng của Ngài.
Số 2846-2849: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”
Số 2846. Lời cầu xin này xuất phát từ điều trước, vì tội lỗi của chúng ta là kết quả của sự ưng theo cám dỗ. Chúng ta xin Cha chúng ta đừng “dẫn” chúng ta vào cơn cám dỗ. Khó mà dịch kiểu nói Hy lạp bằng một từ: Nó có nghĩa là “đừng cho phép bước vào”[6], “đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. “Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai” (Gc 1,13), trái lại, Ngài muốn giải thoát chúng ta khỏi cơn cám dỗ. Chúng ta cầu xin Ngài đừng để ta đi vào con đường dẫn đến tội lỗi. Chúng ta đang ở trong cuộc chiến đấu “giữa xác thịt và Thần Khí”. Lời cầu xin này khẩn cầu Thần Khí cho chúng ta biết phân định và có sức mạnh.
Số 2847. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết phân định đâu là thử thách, vốn cần thiết để con người nội tâm tăng trưởng[7] và nhằm “thử thách nhân đức”[8], và đâu là cám dỗ dẫn đến tội lỗi và sự chết[9]. Chúng ta còn phải biết phân định giữa “bị cám dỗ” và “thuận theo” cơn cám dỗ. Cuối cùng, phân định vạch trần sự dối trá của chước cám dỗ: bề ngoài, đối tượng có vẻ “ngon, trông đẹp mắt và đáng quý” (St 3,6), nhưng thật sự, kết quả của nó là sự chết.
“Thiên Chúa không muốn áp đặt điều tốt cho ai, nhưng muốn họ tự nguyện…. Hơn nữa, cám dỗ cũng có cái lợi. Ngoại trừ Thiên Chúa, không ai biết được những gì tâm hồn chúng ta đã lãnh nhận, kể cả chính chúng ta, những điều đó được bộc lộ ra nhờ các cơn cám dỗ, kẻo chúng ta vẫn không biết mình cách đúng nghĩa, nhưng khi đã biết mình, chúng ta sẽ nhận ra tình trạng tệ hại của mình, và chúng ta phải tạ ơn Chúa vì những ơn lành, được bộc lộ ra cho chung ta nhờ các cơn cám dỗ”[10].
Số 2848. Để khỏi sa chước cám dỗ, cần phải có một sự cương quyết của trái tim. “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó…. Không ai có thể làm tôi hai chủ” (Mt 6,21.24). “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25). Trong việc “thuận theo” Chúa Thánh Thần như vậy, Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta sức mạnh. “Không một cám dỗ nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Ngài sẽ không để anh em bị cám dỗ quá sức; nhưng khi để anh em bị cám dỗ, Ngài sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10,13).
Số 2849. Cần phải cầu nguyện thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được. Chính nhờ việc cầu nguyện mà Chúa Giêsu chiến thắng tên Cám dỗ ngay từ buổi đầu[11], và trong cuộc chiến cuối cùng khi hấp hối[12]. Trong lời cầu xin này dâng lên Chúa Cha, Đức Kitô kết hợp chúng ta vào cuộc chiến đấu và cơn hấp hối của Người. Tâm hồn phải tỉnh thức, hiệp thông với sự tỉnh thức của Người, là điều không ngừng được nhắc đi nhắc lại[13]. Sự tỉnh thức là “kẻ canh giữ trái tim” và Chúa Giêsu xin Cha Người gìn giữ chúng ta trong Danh Cha[14]. Chúa Thánh Thần không ngừng hành động, để giúp chúng ta tỉnh thức[15]. Lời cầu xin này mang đầy ý nghĩa bi thảm khi nghĩ đến cơn cám dỗ cuối cùng của cuộc giao tranh trên đời này; lời cầu xin này xin ơn bền đỗ đến cùng. “Đây, Ta đến như kẻ trộm. Phúc thay kẻ đang canh thức” (Kh 16,15).
Số 1505: Đức Kitô giải thoát con người khỏi sự dữ
Số 1505. Xúc động trước quá nhiều đau khổ, Đức Kitô không những cho phép các bệnh nhân chạm đến Người, mà còn lấy những đau khổ của chúng ta làm của Người: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17)[16]. Tuy nhiên, Người đã không chữa lành tất cả các bệnh nhân. Những việc chữa lành của Người là những dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đang đến. Chúng loan báo một sự chữa lành triệt để hơn: đó là sự chiến thắng tội lỗi và sự chết, nhờ cuộc Vượt Qua của Người. Trên thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Người tất cả gánh nặng của sự dữ[17] và Người đã xoá “tội trần gian” (Ga 1,29), mà bệnh tật của trần gian chỉ là một hậu quả. Bằng cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người, Đức Kitô đem lại cho đau khổ một ý nghĩa mới: từ nay đau khổ có thể làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Người và kết hợp chúng ta vào cuộc khổ nạn sinh ơn cứu chuộc của Người.
Số 142-143, 309: Đức tin như sự suy phục Thiên Chúa, sự đáp lời Thiên Chúa, và như lời giải đáp cho vấn nạn sự dữ
Số 142. Qua mạc khải, “Thiên Chúa vô hình, do tình thương chan hoà của Ngài, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và liên lạc với họ để mời gọi họ và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài”[18]. Đức tin là sự đáp lại thích đáng đối với lời mời gọi ấy.
Số 143. Bằng đức tin, con người đem trí khôn và ý chí của mình quy phục Thiên Chúa cách trọn vẹn. Con người đặt trọn bản thân quy thuận Thiên Chúa, Đấng mạc khải[19]. Thánh Kinh gọi việc đáp lại này của con người đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, là “sự vâng phục của đức tin”[20].
Số 309. Nếu Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trần gian có trật tự và tốt đẹp, chăm sóc tất cả các thụ tạo của Ngài, thì tại sao lại có sự dữ? Trước câu hỏi vừa khẩn thiết vừa không thể tránh được, vừa bi thảm vừa bí nhiệm này, không câu trả lời vội vàng nào là đầy đủ được. Chỉ có toàn bộ đức tin Kitô giáo mới là câu trả lời cho câu hỏi này: sự tốt đẹp của công trình tạo dựng, thảm kịch tội lỗi, tình yêu kiên nhẫn của Thiên Chúa, Đấng đã đi bước trước đến với con người qua các Giao Ước của Ngài, qua việc Con Ngài Nhập Thể đem lại ơn cứu chuộc, qua việc ban Chúa Thánh Thần, qua việc quy tụ Hội Thánh, qua sức mạnh của các bí tích, qua việc kêu gọi tới cuộc sống vĩnh phúc, mà ngay từ đầu các thụ tạo có tự do được mời gọi đón nhận, nhưng cũng ngay từ đầu, do một huyền nhiệm khủng khiếp, họ có thể từ chối! Không có khía cạnh nào của sứ điệp Kitô giáo mà lại không phải là một phần câu trả lời cho câu hỏi về sự dữ.
Số 59-63: Thiên Chúa huấn luyện dân tư tế của Ngài qua Abraham và Cuộc Xuất Hành
Số 59. Để quy tụ loài người đang tản mác về một mối, Thiên Chúa chọn ông Abram và phán với ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi” (St 12,1); với ý định làm cho ông thành Abraham, nghĩa là “cha của vô số dân tộc” (St 17,5): “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3)[21].
Số 60. Dân tộc phát sinh từ ông Abraham sẽ được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ, tức là dân được Ngài tuyển chọn[22], họ được gọi để chuẩn bị cho việc quy tụ trong tương lai mọi con cái Thiên Chúa trong sự duy nhất của Hội Thánh[23]; dân tộc này sẽ là gốc rễ mà các dân ngoại khi tin vào Thiên Chúa sẽ được tháp ghép vào[24].
Số 61. Các tổ phụ, các tiên tri và những vĩ nhân khác của Cựu ước đã và sẽ luôn được tôn kính như những vị Thánh trong tất cả các truyền thống phụng vụ của Hội Thánh.
Số 62. Sau thời các Tổ phụ, Thiên Chúa lập Israel làm dân của Ngài khi cứu họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Ngài lập Giao ước Sinai với dân và ban Lề Luật của Ngài cho họ qua ông Môisen, để họ nhận biết và phụng sự Ngài với tư cách là Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng và là thẩm phán chí công, và để họ mong đợi Đấng Cứu Độ mà Ngài đã hứa ban[25].
Số 63. Israel là dân tư tế của Thiên Chúa[26], được “mang danh Đức Chúa” (Đnl 28,10). Đó là dân của “những người đầu tiên được nghe lời Chúa phán dạy”[27], dân của “những người làm anh” trong đức tin của tổ phụ Abraham[28].
Bài Ðọc I: Ðnl 26, 4-10
"Dân được chọn tuyên xưng đức tin".
Bài trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Thầy tư tế nhận của đầu mùa từ tay ngươi và đem đặt trước bàn thờ của Chúa là Thiên Chúa ngươi, và ngươi sẽ nói trước mặt Chúa là Thiên Chúa rằng: "Tổ phụ con là Aramêô du mục đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như ngoại kiều với một ít người; và đã phát triển thành một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Các người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạvà bắt chúng con làm việc nặng nhọc. Chúng con đã kêu cầu Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, và Chúa đã nghe lời chúng con, đã nhìn thấy cảnh thống khổ, cực nhọc và khốn cùng của chúng con. Chúa đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng, dùng những biến cố khủng khiếp và những dấu lạ phi thường mà dẫn chúng con ra khỏi Ai-cập. Chúa đưa chúng con đến đây, ban cho chúng con xứ này, một xứ chảy sữa và mật. Và vì thế, lạy Chúa, giờ đây con dâng tiến Chúa những của đầu mùa, hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho con". Ngươi sẽ đem đặt nó trước mặt Chúa là Thiên Chúa ngươi và sấp mình trước tôn nhan Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân
Xướng: 1) Bạn sống trong sự che chở của Ðấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Ðấng Toàn Năng. Hãy thưa cùng Chúa: Chúa là chiến luỹ, nơi con nương náu, lạy Chúa con, con tin cậy ởNgài.
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân
2) Tai nạn không đến gần được bạn, và oan ương không bén mảng tới nhà bạn ở. Vì Chúa ra lệnh cho các Thiên Thần Ngài săn sóc bạn, để chư vị đó gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường.
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân
3) Chư vị đó bồng bế bạn trên tay, để bạn khỏi vấp chân vào đá. Trên mình hổ mang, rắn lục bạn bước đi, bạn đạp chân trên sư tử và giao long.
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân
4) Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời, Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân, Ta sẽ cứu gỡ và làm vinh dự cho người.
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân
Bài Ðọc II: Rm 10, 8-13
"Kẻ tin tưởng tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, Thánh Kinh nói gi? Lời ở kề trong miệng và trong lòng người. Ðó là lời đức tin mà chúng tôi rao giảng. Vì nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa, và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: "Hễ ai tin vào Người sẽ không phải hổ thẹn". Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đói với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Lc 4, 1-13
"Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi". Chúa Giêsu đáp: "Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa".
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!" Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi".
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: "Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!" Và còn thêm rằng: "Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá". Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!" Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Ðó là lời Chúa.
--------
[1] X. Mt 4,1-11.
[2] X. Mt 1,13.
[3] X. Tv 95,10.
[4] X. Mc 3,27.
[5] X. Mt 16,21-23.
[6] X. Mt 26,41.
[7] X. Lc 8,13-15; Cv 14,22; 2 Tm 3,12.
[8] X. Rm 5,3-5.
[9] X. Gc 1,14-15.
[10] Ôrigiênê, De oratione, 29, 15 et 17: GCS 3, 390-391 (PG 11, 541-544).
[11] X. Mt 4,1-11.
[12] X. Mt 26,36-44.
[13] X. Mc 13,9.23.33-37; 14,38; Lc 12,35-40.
[14] X. Ga 17,11.
[15] X. 1 Cr 16,13; Cl 4,2; 1 Tx 5,6; 1 Pr 5,8.
[16] X. Is 53,4.
[17] X. Is 53,4-6.
[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 2: AAS 58 (1966) 818.
[19] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum 5: AAS 58 (1966) 819.
[20] X. Rm l,5; 16,26.
[21] X. Gl 3,8.
[22] X. Rm 11,28.
[23] X. Ga 11,52; 10,16.
[24] X. Rm 11,17-18.24.
[25] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 3: AAS 58 (1966) 818.
[26] X. Xh 19,6.
[27] Thứ Sáu Tuần Thánh, Cầu nguyện cho mọi người VI: Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 254.
[28] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn tại Hội đường Do thái ở Rôma, (ngày 13/4/1986) 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, IX 1, 1027.
Nguồn: hdgmvietnam.com