BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG – NĂM A
Người công chính luôn biết thi hành ý Chúa trong sự phó thác cậy trông
Cộng đoàn phụng vụ thân mến,
Chúa nhật I Mùa Vọng, chúng ta đã cùng nhau khám phá số phận của mình trong ngày sau hết, không phải là với những hình ảnh khủng khiếp của chiến tranh, của thiên tai, của đói khổ, của ngục tù, nhưng là với những hình ảnh đầy hy vọng và mời gọi chúng ta tỉnh thức: “ Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” ( Mt 24,42 ).
Chúa nhật II Mùa Vọng mở cho chúng ta thấy Nước Trời, một nước lý tưởng mà Chúa Kitô đã thiết lập trên trần này. Nước đó không phải chỉ thiết lập cho một số hạng người nào mà là cho hết mọi người, Nhưng nếu muốn trở thành công dân nước đó thì chúng ta cần có một số những điều kiện. Điều kiện đầu tiên đã được Thánh Gioan Tiền Hô đưa ra, đó là : “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần” ( Mt 3,2 )
Chúa nhật III Mùa Vọng, ngọn nến thứ 3 được thắp lên, ngọn nến của niềm vui hay còn gọi là Chúa nhật mầu hồng. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống niềm vui để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình qua mẫu gương thánh Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa nhật IV, Chúa nhật cuối cùng cùng của Mùa Vọng, trong niềm rạo rực hân hoan của những ngày chuẩn bị sau chót cho việc Chúa đến, Giáo Hội thắp lên trong lòng những con cái mình niềm vui được “Thiên Chúa ở cùng”, qua những lời của Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho thánh Giuse, “ Người Công Chính”, Cha nuôi Chúa Giêsu, bạn thanh sạch của Đức Mẹ.
Tin mừng kể lại, sau khi viếng thăm bà chị họ, Maria “trở về nhà” (Lc 1,56). Giuse gặp lại Đức Mẹ nhưng vui buồn lẫn lộn. Vui vì gặp lại vị hôn thê, buồn vì lương tâm xao xuyến trước một sự việc như thánh Matthêu mô tả: “Hai ông bà chưa ở cùng nhau, thì bà đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Thánh Giuse rất phân vân. Một đàng Ngài biết Đức Mẹ rất nhân đức muốn giữ mình đồng trinh, đàng khác những dữ kiện bên ngoài đặt ra một câu hỏi không sao giải đáp được. Trong biến cố Truyền Tin, khi nghe những lời tiên báo của Sứ thần Gabriel, Đức Maria cũng đã lo lắng. Lo lắng vì mình đã khấn giữ mình đồng trinh thì làm sao có thể xảy ra điều Thiên Sứ vừa nói được? Lo lắng vì mình chỉ là một thiếu nữ tầm thường thì làm sao có thể đảm nhận được vai trò làm mẹ Đấng Cứu Thế được ? Thánh Giuse cũng vậy, ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa trẻ nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó Ngài định âm thầm ra đi (Công chính nghĩa là không xâm phạm quyền lợi của người khác); sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính nghĩa là thi hành ý Thiên Chúa).
Khi đã được Thiên Sứ cho biết, Thánh Thần của Chúa sẽ làm công việc Ngài vừa loan báo thì thánh Giuse đã biết “quẳng” những nỗi lo lắng kia đi cho sự quan phòng vô cùng khôn ngoan và tuyệt diệu của Chúa, khi “Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” ( Mt 1,24 ). Thánh Giuse trở thành Cha nuôi của Chúa Giêsu và bạn trăn năm của Đức mẹ. Điều đó được thánh Phaolô nói trong bài đọc II. Đức Giêsu thuộc dòng dõi Đavid, thiên thần Chúa gọi Giuse là con vua David và trao cho ông quyền đặt tên Giêsu cho Hài Nhi sẽ được Đức Maria sinh ra. Qua việc đặt tên này, Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid sẽ thể hiện quyền làm cha trên Hài Nhi Giêsu trước pháp luật. Đồng thời việc Chúa Giêsu thuộc dòng tộc vua Đavid đã làm cho mọi lời tiên tri và những lời Thiên Chúa hứa với nhà David được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu. Qua đó, Ngài sẽ được gọi và thực sự sẽ đóng vai trò Thần anh dũng, Cha đời đời, Vua bình an, quyền bính bao la, bình an vô tận trên ngai David, như ngôn sừ Isaia đã tiên báo trong bài đọc I. Như thế, tất cả những gì Cựu ước loan báo về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm trên Đức Giêsu để giấc mơ của bao thế hệ trong quá khứ được trở thành sự thật.
Đó là câu chuyện của thánh Giuse, còn của chúng ta thì sao ? Hiện giờ chúng ta đang buồn sầu, đang lo lắng về những gì ?
Người ta kể rằng, có một người đàn ông đang đi trong một cánh rừng, thình lình bị một con cọp từ trong bụi rậm phóng ra chồm bắt người này. Người đàn ông này đã chạy “bán sống bán chết”. Ông chạy mãi rồi đến một vực thẳm. Lúc này trước mặt là vực thẳm và sau lưng là con cọp, không biết phải làm gì hơn, người đàn ông đành phải trèo lên một cây, cây này có một cành đua ra phía vực thẳm.
Từ ở trên cây nhìn xuống, dưới gốc cây, ông ta thấy con cọp đang nằm nghỉ mệt, còn phía dưới vực thẳm, một con cọp khác, vì nghe tiếng động, cũng đang ngẩng đầu lên để chờ đợi miếng mồi. Trước tình huống đó, người đàn ông này chỉ còn một hy vọng duy nhất là, hai con thú kia mệt, chán, bỏ đi. Chính vì thế mà ông ta phải đành ngồi chịu trận ở trên cành cây kia.
Giữa lúc đang phải chiến đấu với sự sợ hãi và mệt nhọc như thế, người này thấy xuất hiện ở trên cành cây mà ông đang ngồi, hai chú chuột, đang thi nhau gặm vỏ cây.
Bình thường thì người này rất ghét chuột, thế nhưng trong thường hợp này, tự nhiên ông ta lại thấy hai chú chuột kia thật dễ thương, bởi chúng đang làm cho ông quên đi nỗi lo sợ do những cử chỉ hết sức thản nhiên của chúng.
Thế rồi trong lúc ông ta đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của hai chú chuột, thì một con chim, bỗng từ đâu bay đến đậu trên cành cây, rồi để rớt xuống một chùm dâu còn hai ba trái. Người này đưa tay ra, với lấy chùm dâu rồi bóc ra bỏ vào miệng. Thật không còn gì thú vị bằng, trong lúc đang đói, đang khát mà lại được thưởng thức, dù chỉ là một vài trái dâu ! Khung cảnh rừng rú lúc này trở nên thơ mộng đối với người đàn ông này, cho dù ông đang phải chạy trốn hai con cọp.
Cuộc sống của chúng ta đôi khi cũng vậy, làm sao có thể vui được khi mà chúng ta đang gặp biết bao nhiêu những trắc trở, những khó khăn về đủ mọi mặt : yếu đau, bệnh tật, túng thiếu, tai nạn, những hoàn cảnh khó xử, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, nơi mình đang sống. Chúng ta đang phải đối diện với biết bao nhiêu những vấn đề, mà cứ thường tình làm cho chúng ta không thể vui được. Tôi nói là cứ thường tình là không thể vui được. Như vậy có nghĩa là ngoài cái thường tình đó ra, còn có cái không thường tình nữa. Chính cái không thường tình đó làm cho chúng ta có thể vui giữa những hoàn cảnh khó khăn.
Thiên Chúa dựng nên con người không phải là để bắt con người phải chịu khổ mà là để cho con người được hạnh phúc. Hạnh phúc ấy không phải chờ cho đến cuộc sống mai sau mới được hưởng, mà có thể hưởng ngay tự đời này, nếu chúng ta biết được bí quyết để hưởng hạnh phúc, hưởng niềm vui ấy. Bí quyết đó là “Quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Hãy quẳng những thứ đó đi để mà vui sống. Quẳng gánh lo đi ở đây có nghĩa là biết nhìn ra bàn tay quan phòng của Chúa qua những mất mát thua thiệt, những rủi ro, đau khổ và qua ngay cả những tội lỗi của chúng ta nữa.
Niềm vui đích thực của người Kitô hữu chúng ta là nhận ra được tình yêu của Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc sống Nếu hiểu như thế thì thánh Giuse là người đã được hưởng niềm vui cách trọn vẹn trong biến cố Thiên Thần báo tin Ngài sẽ làm Cha nuôi của Chúa Giêsu và hôn phu của Đức Mẹ. Thánh Giuse đã để cho tình yêu của Thiên Chúa xâm chiếm và tràn ngập tâm hồn mình. Bởi đó ngay cả trong những cảnh huống bi đát nhất, khó khăn nhất, Ngài cũng vẫn giữ được sự bình an, một yếu tố căn bản để có niềm vui đích thực. Vào những ngày cuối cùng của mùa vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta về một lối sống để có niềm vui đích thực, vui ngay cả trong những gian lao thử thách, bắng cách cho chúng ta nhìn lại mẫu gương của thánh Giuse, “ Người công chính”. Người công chính là người luôn biết thi hành ý Chúa trong sự phó thác cậy trông.
Linh mục Giuse Phan Cảnh
ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa





