BÀI GIẢNG ĐỨC THÁNH CHA – LỄ THÁNH PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ

25/06/2025
152
Đây là những bài giảng và huấn dụ của Đức Thánh Cha trong các thánh lễ và các buổi đọc kinh truyền tin với các tín hữu vào ngày lễ thánh Phêrô và Phaolô (29/6).
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2024) - Những cánh cửa mở cho tất cả mọi người
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2024) - Chìa khóa Nước Trời
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2023) - Chúa Giêsu là ai đối vơi tôi?
Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2023) - Phêrô là tảng đá, hòn đá, và là viên sỏi
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2022) - Nhanh chóng trỗi dậy và chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2021) - Tự do vì đã được giải thoát
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2020) - Hiệp nhất và lời tiên tri
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2019) - Thánh Phêrô và Thánh Phaolô là những chứng nhân
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2018) - Thầy là Đấng Kitô
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2017) - Tuyên xưng, sự bách hại và cầu nguyện
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2016) - Chúng ta có mở ra hay không?
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2011) - Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2024) - Những cánh cửa mở cho tất cả mọi người
Chúng ta hãy nhìn vào hai Tông Đồ Phêrô và Phaolô: người đánh cá xứ Galilê mà Chúa Giêsu đã biến ông thành một kẻ lưới người; người Pharisêu bách hại Giáo hội được biến đổi nhờ Hồng ân để trở thành người rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta để mình được soi sáng bởi câu chuyện của họ, bởi lòng nhiệt thành tông đồ đã đánh dấu chặng đường cuộc đời của họ. Nhờ gặp gỡ Chúa, họ đã sống một kinh nghiệm Phục Sinh thực sự: họ được giải thoát và trước mặt họ, những cánh cửa của một cuộc sống mới đã mở ra.
Anh chị em thân mến, đứng trước thềm Năm Thánh, chúng ta cùng dừng lại ở hình ảnh cánh cửa. Thật vậy, Năm Thánh sẽ là thời gian ân sủng, nơi đó chúng ta sẽ mở Cửa Thánh, để mọi người có thể bước qua ngưỡng cửa của đền thờ sống động là Chúa Giêsu và, trong Ngài, sống kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, vốn khơi nên niềm hy vọng và canh tân niềm vui. Và trong câu chuyện của Phêrô và Phaolô cũng có những cánh cửa mở ra.
Bài đọc thứ nhất kể cho chúng ta câu chuyện về việc Phêrô được giải thoát khỏi ngục tù; câu chuyện này có nhiều hình ảnh nhắc nhớ chúng ta về kinh nghiệm Phục Sinh: câu chuyện xảy ra trong tuần Lễ Bánh Không Men; Hêrôđê gợi nhớ lại hình ảnh Pharaô của Ai Cập; cuộc giải thoát diễn ra vào ban đêm như đã xảy ra với dân Israel; thiên thần cho Phêrô những chỉ dẫn tương tự như những chỉ dẫn đã được ban cho dân Israel: hãy mau đứng dậy, thắt lưng lại, xỏ dép vào (xem Cv 12,8; Xh 12,11). Do đó, những gì chúng ta được nghe là một cuộc xuất hành mới. Thiên Chúa giải phóng Giáo Hội của Người, giải phóng những ai đang bị xiềng xích, và một lần nữa Người tỏ cho thấy Người là Thiên Chúa của lòng thương xót, Đấng nâng đỡ bước đường của Giáo hội.
Và trong đêm giải phóng ấy, lần đầu tiên cánh cửa ngục mở ra một cách kỳ diệu; sau đó, câu chuyện kể về Phêrô và thiên thần đồng hành, rằng họ đứng trước “cửa sắt thông ra phố; cửa tự động mở ra trước mặt hai người” (Cv 12,10). Họ không mở nhưng cửa tự mở. Chính Thiên Chúa là Đấng mở cửa, chính Người là Đấng giải phóng và mở đường. Với Phêrô - như chúng ta đã nghe trong Tin Mừng - Chúa Giêsu đã giao phó chìa khóa Nước Trời; nhưng ông nhận ra rằng, để mở những cánh cửa, Chúa là người đầu tiên, Người luôn đi trước chúng ta. Có điều đáng chú ý là: các cánh cửa nhà tù được mở ra bởi sức mạnh của Chúa, nhưng Người lại gặp khó khăn khi bước vào nhà của cộng đoàn Kitô hữu. Người đứng ở cửa, và người ta tưởng là ma nên không mở cho. Biết bao nhiêu lần các cộng đoàn không học được sự khôn ngoan này của việc mở những cánh cửa.
Con đường của Thánh Phaolô trước hết cũng là một kinh nghiệm Phục Sinh. Thật vậy, trước tiên ông được Đấng Phục Sinh biến đổi trên đường đến Đamát và sau đó, trong việc liên lỉ chiêm ngưỡng Chúa Kitô chịu đóng đinh, ông khám phá ra ân sủng của sự yếu đuối: chính khi chúng ta yếu, ngài khẳng định, là lúc chúng ta mạnh, vì chúng ta không còn dựa vào chính mình nữa mà bám vào Chúa Kitô (xem 2 Cr 12,10). Được Chúa nắm lấy và cùng chịu đóng đinh với Người, Thánh Phaolô viết: “Không còn phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nhưng mục đích của tất cả những điều này không phải là một kiểu tôn giáo thân mật và an ủi dạt dào như một số phong trào trong Giáo hội trình bày với chúng ta ngày nay: một linh đạo ngồi tại chỗ trên ghế bành. Không. Ngược lại, cuộc gặp gỡ với Chúa khơi dậy lòng nhiệt thành truyền giáo trong cuộc đời Thánh Phaolô. Như chúng ta đã nghe trong Bài đọc thứ hai, vào lúc cuối đời ngài đã tuyên bố: “có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,17).
Khi kể về việc Chúa đã ban cho mình rất nhiều khả năng để loan báo Tin Mừng, Thánh Phaolô đã sử dụng hình ảnh những cánh cửa mở rộng. Vì vậy, khi ngài đến Antiokia cùng với Banaba, trình thuật kể rằng “khi tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin” (Cv 14,27): Người đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại. Tương tự như vậy, khi nói với cộng đoàn Côrintô, ngài nói: “Một cánh cửa lớn và thuận lợi đã mở ra cho tôi” (1Cr 16,9); và khi viết cho cộng đoàn Côlôxê, ngài khuyên nhủ họ như sau: “anh em cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi nữa, xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô” (Cl 4,3).
Anh chị em thân mến, hai Tông Đồ Phêrô và Phaolô đã có kinh nghiệm về ân sủng này. Họ đã trực tiếp trải nghiệm công việc của Thiên Chúa, Đấng đã mở cửa nhà tù nội tâm của họ cũng như những nhà tù thực sự nơi họ bị giam cầm vì Tin Mừng. Và hơn nữa, Người đã mở những cánh cửa truyền giáo cho họ, để họ có thể sống niềm vui được gặp gỡ anh chị em của các cộng đoàn non trẻ và có thể mang niềm hy vọng Tin Mừng đến cho mọi người.
Và chúng ta cũng đang chuẩn bị mở Cửa Thánh trong năm nay.
Anh chị em thân mến, hôm nay các Tổng Giám mục được bổ nhiệm trong năm vừa qua sẽ nhận Dây Pallium. Trong sự hiệp thông với Thánh Phêrô và noi gương Chúa Kitô, là cửa ràn chiên (x. Ga 10,7), họ được mời gọi trở thành những mục tử nhiệt thành mở những cánh cửa Tin Mừng và là những người, với sứ vụ của mình, góp phần xây dựng một Giáo hội và một xã hội với những cánh cửa rộng mở.
Và tôi muốn diễn tả tình cảm huynh đệ, lời chào mừng Phái đoàn Tòa Thượng phụ Đại kết: cảm ơn quý vị đã đến để bày tỏ ước muốn chung về sự hiệp thông trọn vẹn giữa các Giáo hội của chúng ta. Tôi gửi lời chào chân thành đến người anh em của tôi, người anh em Bartolomeo thân yêu của tôi.
Xin hai thánh Phêrô và Phaolô giúp chúng ta mở cánh cửa cuộc đời chúng ta cho Chúa Giêsu, xin các ngài cầu bầu cho chúng ta, cho thành phố Rôma và cho toàn thế giới. Amen.
Nguồn: vaticannews.va/vi


Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2024) - Chìa khóa Nước Trời
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay, lễ trọng kính hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, trong Tin Mừng Chúa Giêsu nói với ông Simon, mà Người đặt tên là Phêrô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời” (Mt 16,19). Đây là lý do tại sao chúng ta thường thấy Thánh Phêrô được trình bày với hai chiếc chìa khóa lớn trong tay, như bức tượng ở Quảng trường này. Những chiếc chìa khóa đó tượng trưng cho thừa tác vụ thẩm quyền mà Chúa Giêsu đã giao phó cho ngài để phục vụ toàn thể Giáo hội. Bởi vì thẩm quyền là một việc phục vụ, thẩm quyền không phải là để được phục vụ, không phải độc tài.
Tuy nhiên, chúng ta hãy cẩn thận để hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những điều này. Thật vậy, chìa khóa của Phêrô là chìa khóa Nước Trời, mà Chúa Giêsu không ví như một két sắt hay một căn phòng bọc thép, nhưng bằng những hình ảnh khác: một hạt giống nhỏ, một viên ngọc quý, một kho báu giấu kín, một nắm men ( xem Mt 13,1-33), nghĩa là, như một điều gì đó quý giá và giàu sang, nhưng đồng thời lại nhỏ bé và kín đáo. Vì thế, để đạt được điều đó, điều cần thiết không phải là kích hoạt các cơ chế và ổ khóa bảo mật nhưng là trau dồi những đức tính như kiên nhẫn, để tâm, kiên trì, khiêm tốn và phục vụ.
Vì vậy, sứ mạng mà Chúa Giêsu giao phó cho Phêrô không phải là chặn cửa nhà, chỉ cho phép một số ít khách được chọn vào nhà, nhưng là giúp mọi người tìm được lối vào, trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tất cả, tất cả đều có thể vào.
Và Phêrô sẽ làm như vậy trong suốt cuộc đời của mình, một cách trung thành, cho đến khi tử đạo, sau khi chính mình kinh nghiệm được, dù với những khó khăn và nhiều lần sa ngã, niềm vui và sự tự do nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa. Trước tiên, để mở cửa cho Chúa Giêsu, ông phải hoán cải, và hiểu rằng thẩm quyền là một sự phục vụ, và điều đó không hề dễ dàng đối với ông. Chúng ta hãy nghĩ đến câu chuyện: ngay sau khi ông nói với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”, thì Thầy đã phải quở trách ông vì ông không chịu chấp nhận lời tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Người trên thập giá (xem Mt 16,21-23).
Phêrô nhận được chìa khóa Nước Trời không phải vì ông là người hoàn hảo, không, là một tội nhân; nhưng vì ông khiêm nhường và trung thực, và Chúa Cha đã ban cho ông một đức tin chân thực (x. Mt 16:17). Vì vậy, khi phó thác bản thân cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Phêrô đã có thể nâng đỡ và củng cố anh em mình, như ông đã được yêu cầu (xem Lc 22,32).
Hôm nay chúng ta hãy tự hỏi: tôi có nuôi dưỡng, với ân sủng của Thiên Chúa, ước muốn bước vào Nước của Người, trở thành người bảo vệ chào đón người khác không? Và để làm được điều này, tôi có để mình được “mài dũa”, làm mềm mại, được uốn nắn bởi Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người, Đấng sống trong chúng ta, mỗi người chúng ta không?
Xin Mẹ Maria, Nữ vương các Tông đồ, và các Thánh Phêrô và Phaolô, qua lời cầu bầu của các ngài, giúp chúng ta trở thành người hướng dẫn và nâng đỡ lẫn nhau đến gặp gỡ Chúa Giêsu.
Nguồn: vaticannews.va/vi


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2023): Chúa Giêsu là ai đối vơi tôi?
Thánh Phêrô và Phaolô, hai vị Tông đồ đầy lòng yêu mến Chúa, hai trụ cột đức tin của Giáo hội. Khi chúng ta chiêm ngắm cuộc đời của các ngài, hôm nay Tin Mừng chất vấn chúng ta với câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ của mình: “Phần các con, các con nói gì? Đối với các con, Thầy là ai?” (Mt 16, 15). Đó là câu hỏi căn bản, quan trọng nhất: Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi? Chúng ta hãy xem hai Tông đồ đã trả lời thế nào.
Câu trả lời của thánh Phêrô có thể được tóm tắt trong một từ: theo. Phêrô đã sống theo Chúa. Hôm đó, tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ. Phêrô đã trả lời bằng một lời tuyên xưng đức tin thật đẹp: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16); một câu trả lời không chê vào đâu được, rõ ràng, chính xác, có thể nói là một câu trả lời “giáo lý” hoàn hảo. Nhưng câu trả lời này là kết quả của một cuộc hành trình: chỉ sau khi đã sống cuộc mạo hiểm thú vị bước theo Chúa, sau khi đã bước đi với Người và theo sau Người trong một thời gian dài, mà Phêrô mới đạt tới sự trưởng thành thiêng liêng này, vốn dẫn ngài, nhờ ân sủng, nhờ ân sủng thuần túy, đến một lời tuyên xưng đức tin rõ ràng như thế.
Quả thế, thánh sử Mátthêu cho chúng ta biết rằng mọi sự bắt đầu trên bờ biển Galilê, khi Chúa Giêsu đi ngang qua và đã gọi ngài, cùng với Anrê, anh của ngài; và “lập tức bỏ lưới, các ông đi theo Người” (Mt 4, 20). Phêrô đã bỏ tất cả để theo Chúa. Và Tin Mừng nhấn mạnh “lập tức”. Phêrô không nói với Chúa Giêsu rằng mình phải suy nghĩ về điều đó, ngài không tính toán xem điều đó có phù hợp với mình không, ngài không tìm cớ để trì hoãn quyết định; ngài đã bỏ lưới mà đi theo Người, không đòi hỏi bất kỳ an toàn nào trước. Ngài phải khám phá mọi sự từng ngày sau đó, bằng cách đi theo Chúa Giêsu và bước theo sau Người. Và không phải ngẫu nhiên mà những lời cuối cùng, được thuật lại trong các Tin Mừng, mà Chúa Giêsu nói với ngài là “Con hãy theo Thầy” (Ga 21, 22), nghĩa là đi theo Người.
Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, trả lời bằng một công thức giáo thuyết không thể chê vào đâu được thì chưa đủ, thậm chí không phải bằng một ý tưởng mà chúng ta đưa ra cho mình một lần cho tất cả. Không. Chính bằng cách đi theo Chúa mà chúng ta học biết Người mỗi ngày. Chính bằng cách trở thành môn đệ của Người và đón nhận Lời Người mà chúng ta trở nên bạn hữu của Người và cảm nghiệm được tình yêu của Người biến đổi chúng ta. Đối với chúng ta cũng vậy, điều “lập tức” này vang vọng lại. Nếu chúng ta có thể trì hoãn nhiều điều trong cuộc sống, thì việc đi theo Chúa Giêsu không thể được trì hoãn; đối với điều này, chúng ta không thể do dự, chúng ta không thể tìm lý do thoái thác. Chúng ta hãy lưu ý vì một số lý do thoái thác được khoác lên mình tấm áo thiêng liêng, như khi chúng ta nói “Tôi không xứng đáng”, “Tôi không có khả năng”, “tôi, tôi có thể làm gì được?” Đó là mánh khóe của ma quỷ vốn cướp đi niềm tin của chúng ta vào ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách làm cho chúng ta tin rằng mọi sự sẽ tùy thuộc vào khả năng của chúng ta.
Tách mình ra khỏi những thứ an toàn của chúng ta – những thứ an toàn trần thế -, ngay lập tức, và đi theo Chúa Giêsu mỗi ngày: đó là chỉ dẫn mà Phêrô đưa ra cho chúng ta hôm nay bằng cách mời gọi chúng ta trở thành một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo-hội-đi-theo. Một Giáo hội muốn trở thành môn đệ của Chúa và thành người tôi tớ khiêm nhường của Tin Mừng. Chỉ bằng cách này, Giáo hội mới có thể đối thoại với mọi người, và trở thành một nơi đồng hành, gần gũi và hy vọng cho những người nữ người nam của thời đại chúng ta. Chỉ bằng cách này, ngay cả người ở xa nhất, thường đang nhìn chúng ta cách nghi ngờ hay dửng dưng, cuối cùng sẽ có thể nhận ra cùng với Đức Giáo hoàng  Bênêđíctô: “Giáo hội là nơi gặp gỡ với Con Thiên Chúa hằng sống và, như thế, Giáo hội là nơi gặp gỡ giữa chúng ta” (Bài giảng Chúa Nhật II Mùa Vọng, ngày 10/12/2006).
Và bây giờ, chúng ta hãy đến với vị Tông đồ của các dân tộc. Nếu câu trả lời của Phêrô hệ tại ở việc đi theo, thì câu trả lời của Phaolô hệ tại ở việc loan báo, loan báo Tin Mừng. Đối với ngài cũng thế, mọi sự bắt đầu bằng ân sủng, theo sáng kiến của Chúa. Trên đường đi Damas, khi ngài đang kiêu hãnh bách hại các Kitô hữu, bị rào cản bởi xác tín tôn giáo của mình, thì Chúa Giêsu phục sinh đến gặp ngài và làm ngài mù lòa bằng ánh sáng của Người. Đúng hơn, nhờ ánh sáng này, Saolô nhận ra mình bị mù như thế nào. Bị nhốt kín trong sự kiêu ngạo về việc giữ luật cứng nhắc của mình, ngài khám phá ra nơi Chúa Giêsu sự hoàn thành mầu nhiệm cứu độ.
Giờ đây, ngài coi tất cả những an toàn của về mặt con người và tôn giáo của mình là “rác rưởi” so với sự cao cả là biết được Chúa Kitô (x. Pl 3, 7-8). Như thế, Phaolô đã cống hiến đời mình để khi khắp đất liền và biển khơi, các thành phố và làng mạc, không quản ngại khó khăn và bách hại, để loan báo Chúa Giêsu-Kitô. Nhìn vào câu chuyện của ngài, dường như càng loan báo Tin Mừng, ngài càng hiểu biết Chúa Giêsu. Việc loan báo Lời Chúa cho người khác cho phép ngài thấm nhập vào chiều sâu của mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng mà ngài đã viết “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng !” (1Cr 9, 16); Đấng mà ngài tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô”.
Do đó, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đối với câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với tôi?”, chúng ta không trả lời bằng lòng sùng đạo sâu kín riêng tư để mặc chúng ta yên thân, mà không rung động bởi mối quan tâm mang Tin Mừng đến cho người khác. Thánh Tông đồ dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng lớn lên trong đức tin và trong sự hiểu biết mầu nhiệm Chúa Kitô hơn nữa khi chúng ta loan báo và làm chứng cho Người. Và điều đó luôn xảy ra: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Đó là một kinh nghiệm hằng ngày: khi chúng ta loan báo Tin Mừng, chúng ta được loan báo Tin Mừng. Lời Chúa mà chúng ta mang đến cho người khác sẽ trở lại với chúng ta bởi vì, chúng ta cho đi bao nhiêu, chúng ta sẽ nhận được nhiều hơn bấy nhiêu (x. Lc 6, 38). Và điều đó cũng cần thiết cho Giáo hội ngày nay: đặt việc loan báo ở trung tâm. Trở thành một Giáo hội không bao giờ mệt mỏi lặp đi lặp lại với chính mình: “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô” và “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Một Giáo hội cần loan báo Tin Mừng như cần dưỡng khí để thở; một Giáo hội không thể sống mà không thông truyền vòng tay yêu thương của Thiên Chúa và niềm vui của Tin Mừng.
Thưa anh chị em, chúng ta hãy mừng thánh Phêrô và Phaolô. Các ngài đã trả lời câu hỏi căn bản của cuộc sống – Chúa Giêsu là ai đối với tôi? – bằng cách đi theo Chúa Kitô và loan báo Tin Mừng. Thật đẹp khi lớn lên như một Giáo hội đi theo, như một Giáo hội khiêm tốn không bao giờ coi là đã thủ đắc được việc tìm kiếm Chúa. Thật đẹp khi trở thành một Giáo hội hướng ra bên ngoài, không tìm thấy niềm vui của mình nơi những thứ của thế gian nhưng trong việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, để gieo vào lòng mọi người câu hỏi về Thiên Chúa. Mang Chúa Giêsu đến khắp mọi nơi, với lòng khiêm tốn và niềm vui: trong thành Rôma của chúng ta, trong các gia đình của chúng ta, trong các mối tương quan và các khu phố, trong xã hội dân, trong Giáo hội, trong chính trị, trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi có nghèo đói, suy thoái, sự gạt ra bên lề xã hội.
Và, hôm nay, khi một số anh em Tổng Giám mục của chúng ta lãnh nhận dây Pallium, một dấu hiệu của sự hiệp thông với Giáo hội Rôma, tôi muốn nói với họ: anh em hãy trở thành những tông đồ như thánh Phêrô và Phaolô. Anh em hãy trở thành những người môn đệ đi theo và những tông đồ loan báo, hãy mang lại vẻ đẹp của Tin Mừng đến mọi nơi, cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Và cuối cùng, tôi muốn gởi lời chào thân ái đến Phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết, được gởi đến bởi người Anh rất yêu quý là Đức Bartôlômêô. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị, xin cảm ơn: chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trong việc đi theo và loan báo Lời Chúa, bằng cách lớn lên trong tình huynh đệ. Xin thánh Phêrô và Phaolô đồng hành và cầu bầu cho tất cả chúng ta.
Nguồn: xuanbichvietnam.net (30.06.2023)
 

Đức Phanxicô, Huấn dụ Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2023): Phêrô là tảng đá, hòn đá, và là viên sỏi
Anh chị em thân mến, chào anh chị em !
Trong bài Tin Mừng hôm nay, lễ trọng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, Chúa Giêsu nói với ông Simon, một trong Nhóm Mười Hai: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18). Phêrô là một danh xưng có nhiều nghĩa: nó có thể có nghĩa là tảng đá, hòn đá, hay đơn giản là viên sỏi. Và, trên thực tế, nếu chúng ta nhìn vào cuộc đời của thánh Phêrô, chúng ta khám phá ra một chút về cả ba khía cạnh này nơi tên của ngài.
Thánh Phêrô là một tảng đá: có nhiều lúc ngài mạnh mẽ và kiên định, chân thật và quảng đại. Ngài bỏ mọi sự để đi theo Chúa Giêsu (x. Lc 5, 11); ngài nhận ra Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16, 16); ngài nhảy xuống biển để bơi nhanh về phía Đấng Phục Sinh (x. Ga 21, 7). Rồi, ngài mạnh dạn và can đảm rao giảng Chúa Giêsu trong Đền Thờ, trước và sau khi bị bắt và bị đánh đòn (x. Cv 3, 12-26; 5, 25-42). Truyền thống cũng cho chúng ta biết về sự kiên định của ngài khi đối diện với cuộc tử đạo, vốn đã xảy ra ngay tại đây (x. Clement of Rome, Thư gởi tín hữu Côrintô, V, 4).
Tuy nhiên, thánh Phêrô cũng là một hòn đá: ngài là một tảng đá và cũng là một hòn đá, có thể nâng đỡ người khác – một hòn đá mà, được xây dựng trên Chúa Kitô, có tác dụng nâng đỡ anh chị em trong việc xây dựng Giáo hội (x. 1P 2, 4-8; Êp 2, 19-22). Chúng ta cũng khám phá ra điều này trong cuộc đời của ngài: ngài đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu cùng với Anrê, anh của ngài, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4, 18-22); ngài xác nhận ước muốn của các Tông đồ đi theo Chúa (x. Ga 6, 68); ngài thúc đẩy và khuyến khích việc cùng nhau loan báo Tin Mừng (x. Cv 15, 7-11). Ngài là “hòn đá”, là một điểm tựa đáng tin cậy cho toàn thể cộng đoàn.
Thánh Phêrô là một tảng đá, ngài là một hòn đá, và thậm chí ngài cũng là một viên sỏi: sự nhỏ bé của ngài thường lộ ra. Đôi khi ngài không hiểu Chúa Giêsu đang làm gì (x. Mc 8, 32-33; Ga 13, 6-9); khi đối mặt với việc Chúa Giêsu bị bắt, thánh Phêrô đã để cho sự sợ hãi lấn át mình và phủ nhận Chúa Giêsu, rồi hoán cải và khóc lóc cay đắng (x. Lc 22, 54-62), nhưng ngài không tìm thấy can đảm để đứng dưới thập giá. Ngài nhốt mình trong Phòng Trên cùng với những người khác vì sợ bị bắt (x. Ga 20, 19). Ở Antiôkia, ngài cảm thấy xấu hổ khi ở với những người ngoại giáo trở lại – và thánh Phaolô đã kêu gọi ngài về điều này và yêu câu ngài phải nhấn quán về điều này (x. Gl 2, 11-14); cuối cùng, theo truyền thống “Quo vadis”, ngài cố gắng chạy trốn khi đối diện với cuộc tử đạo, nhưng gặp Chúa Giêsu trên đường và lấy lại can đảm để quay lại.
Đây là tất cả trong Phêrô: sức mạnh của tảng đá, độ tin cậy của hòn đá, và sự nhỏ bé của một viên sỏi. Ngài không phải là một siêu nhân – ngài là một người như chúng ta, như mọi người chúng ta, nói “xin vâng” cách quảng đại với Chúa Giêsu trong sự bất toàn của ngài. Nhưng đó chính xác là như thế – cũng như nơi thánh Phaolô và nơi tất cả các thánh – dường như chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Phêrô mạnh mẽ nhờ ân sủng của Người, Đấng kết hợp chúng ta với tình yêu của Người, và tha thứ cho chúng ta bằng lòng thương xót của Người. Và chính với nhân tính đích thực này mà Chúa Thánh Thần hình thành nên Giáo hội. Thánh Phêrô và Phaolô là những con người thực. Và ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần những con người thực.
Bây giờ, chúng ta hãy nhìn vào bên trong và tự hỏi mình một số câu hỏi từ tảng đá, từ hòn đá và từ viên sỏi. Từ tảng đá: Trong chúng ta có nhiệt thành, sốt sắng, say mê vì Chúa và Tin Mừng không? Hay có cái gì dễ vỡ vụn? Và rồi, chúng ta có phải là những hòn đá, không phải là nhũng hòn đá gây vấp ngã, nhưng là loại đá mà Giáo hội có thể được xây dựng? Chúng ta có làm việc cho hiệp nhất không, chúng ta có quan tâm đến người khác không, đặc biệt là người yếu thế nhất? Cuối cùng, suy nghĩ về viên sỏi: chúng ta có ý thức được sự nhỏ bé của mình không? Và trên hết, trong sự yếu đuối của mình, chúng ta có phó thác bản thân cho Chúa, Đấng hoàn thành những điều vĩ đại qua những người khiêm nhường và chân thành không?
Xin Đức Maria, Nữ Vương các thánh Tông đồ, giúp chúng ta bắt chước sức mạnh, lòng quảng đại và sự khiêm nhường của thánh Phêrô và Phaolô.
Nguồn: xuanbichvietnam.net (30.06.2023)
 

Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2022): Nhanh chóng trỗi dậy và chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa
Anh chị em thân mến,
Chứng tá của hai vị Tông đồ vĩ đại là Phêrô và Phaolô hôm nay một lần nữa trở nên sống động trong phụng vụ của Giáo Hội. Thiên thần của Chúa nói với thánh Phêrô, đang bị vua Hêrôđê giam tù: "Trỗi dậy mau đi! (Cv 12,7); còn thánh Phaolô, đã nói khi nhìn lại toàn bộ cuộc đời và việc tông đồ của ngài: "Tôi đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa" (2 Tm 4,7). Chúng ta hãy suy tư về hai câu - "nhanh chóng trỗi dậy"  "chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa" - và hỏi xem chúng gợi ý điều gì cho cộng đồng Kitô hữu ngày nay, khi đang trong tiến trình thượng hội đồng.
Mau chóng trỗi dậy và theo Chúa Kitô đến nơi Người muốn
Trước hết, sách Công vụ Tông đồ thuật lại với chúng ta về đêm thánh Phêrô được giải thoát khỏi xiềng xích của ngục tù. Một thiên thần của Chúa vỗ vào cạnh sườn của ngài khi ngài đang ngủ, "đánh thức ngài và nói rằng: Hãy nhanh chóng trỗi dậy" (12,7). Thiên thần đánh thức ngài dậy và yêu cầu ngài đứng lên. Cảnh này gợi nhớ Lễ Phục sinh, bởi vì chúng ta tìm thấy ở đây hai động từ được sử dụng trong các trình thuật về việc sống lại: đánh thức và trỗi dậy. Có nghĩa là thiên thần đã đánh thức thánh Phêrô khỏi giấc ngủ của sự chết và thúc đẩy ngài trỗi dậy, tức là sống lại, đi ra ngoài ánh sáng, để mình được Chúa dẫn bước đi qua mọi cánh cửa đóng kín dọc trên đường (x. c. 10). Hình ảnh này rất có ý nghĩa đối với Giáo hội. Cũng thế, chúng ta, các môn đệ của Chúa và là cộng đoàn Kitô hữu, được kêu gọi mau chóng trỗi dậy để bước vào mầu nhiệm của sự sống lại và để mình được Chúa dẫn dắt trên những con đường mà Người muốn chỉ cho chúng ta.
Sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng
Chúng ta vẫn còn gặp nhiều hình thức phản kháng trong nội tâm, những điều ngăn cản chúng ta lên đường. Đôi khi, với tư cách là Giáo hội, chúng ta bị thắng vượt bởi sự lười biếng và chúng ta thích ngồi và suy ngẫm về một ít điều chắc chắn mà chúng ta đang có, thay vì trỗi dậy để hướng tầm nhìn về những chân trời mới, về phía biển rộng mở. Chúng ta thường như thánh Phêrô bị xiềng xích, bị cầm tù bởi tập quán, sợ hãi trước những thay đổi và bị trói buộc vào xiềng xích của thói quen hàng ngày. Nhưng theo cách này, chúng ta sa vào sự tầm thường trong đời sống thiêng liêng, chúng ta có nguy cơ "tà tà vừa đủ", ngay cả trong đời sống mục vụ. Lòng nhiệt thành của chúng ta với sứ vụ phai dần và thay vì là một dấu hiệu của sức sống và sự sáng tạo, cuối cùng chúng ta trở nên dửng dưng và thờ ơ. Sau đó, dòng chảy mạnh mẽ của sự mới mẻ và sự sống, đó là Tin Mừng trong tay chúng ta - như Cha de Lubac viết - trở thành một đức tin "rơi vào chủ nghĩa hình thức và thói quen, [...] một tôn giáo của các nghi lễ và lòng sùng kính, của đồ trang sức và niềm an ủi tầm thường... Một Kitô giáo giáo sĩ trị, hình thức, buồn tẻ và cứng cỏi "(Bi kịch của Chủ nghĩa nhân văn vô thần, Milan 2017, 103-104).
Giáo hội của tất cả mọi người
Thượng Hội đồng mà chúng ta đang tiến hành hiện nay kêu gọi chúng ta trở thành một Giáo hội trỗi dậy, một Giáo hội không co cụm trong chính mình, nhưng có khả năng tiến về phía trước, bỏ lại sau lưng những nhà tù của chính mình và bắt đầu gặp gỡ thế giới, với lòng can đảm mở rộng các cánh cửa.
Một Giáo hội không có xiềng xích và bức tường, trong đó mọi người có thể cảm thấy được chào đón và đồng hành, một Giáo hội nơi nghệ thuật lắng nghe, đối thoại và tham gia được vun đắp dưới thẩm quyền duy nhất của Chúa Thánh Thần. Giáo hội tự do và khiêm nhường, "nhanh chóng trỗi dậy" và không chần chừ hay né tránh những thách đố của thời đại hiện nay. Một Giáo Hội không nằm lỳ trong những hàng rào thánh thiêng của mình, nhưng được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và mong muốn gặp gỡ và đón nhận mọi người.
Chúng ta đừng quên từ này: tất cả mọi người, mọi người. Anh em hãy đi đến ngã tư đường và mang tất cả mọi người, người mù, người câm điếc, què quặt, bệnh nhân, người công chính, kẻ tội lỗi: tất cả mọi người, tất cả! Lời này của Chúa phải vang lên, vang dội trong tâm trí và trái tim: tất cả mọi người, trong Hội Thánh có chỗ cho mọi người. Và nhiều khi chúng ta trở thành một Giáo hội rộng mở nhưng lại gạt bỏ dân chúng, lên án họ. Hôm qua có một người đã nói với tôi rằng: "Đối với Giáo hội, đây không phải là lúc giải tán, mà là lúc chào đón".
Mỗi người thực hiện sứ vụ được uỷ thác
Trong bài đọc thứ hai, chúng ta nghe lời Thánh Phaolô, những lời ngài khẳng định sau khi nhìn lại cả cuộc đời mình: “Tôi đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa” (2Tm 4,7). Thánh Tông đồ đang đề cập đến vô số tình huống, một số được đánh dấu bởi sự bắt bớ và đau khổ, trong đó ngài đã không tiếc thân mình trong việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Giờ đây, vào cuối đời, ngài thấy rằng một cuộc "chiến đấu" quyết liệt vẫn đang diễn ra trong lịch sử, vì nhiều người không sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu, chỉ thích theo đuổi lợi ích của mình và theo các vị thầy khác. Thánh Phaolô đã chiến đấu trong các cuộc chiến đấu của chính ngài và giờ đây đã hoàn tất cuộc chạy đua, ngài yêu cầu Timôthêô và các anh em trong cộng đoàn tiếp tục công việc của ngài bằng sự quan tâm, rao giảng và dạy dỗ. Mỗi người, tóm lại, thực hiện sứ vụ được uỷ thác cho họ và phải làm phần việc của mình.
Tôi có thể làm gì cho Giáo hội?
Lời khuyên của thánh Phaolô cũng là lời sự sống cho chúng ta; nó giúp chúng ta nhận ra rằng, trong Giáo hội, tất cả chúng ta đều được kêu gọi trở thành môn đệ truyền giáo và đóng góp phần của chính mình. Đây là hai câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi. Đầu tiên là: Tôi có thể làm gì cho Giáo hội? Không phàn nàn về Giáo hội, nhưng dấn thân cho Giáo hội. Tham gia với niềm đam mê và sự khiêm tốn: với niềm đam mê, bởi vì chúng ta không được tiếp tục là những khán giả thụ động; khiêm tốn, bởi vì dấn thân trong cộng đoàn không bao giờ có nghĩa là chiếm vị trí trung tâm, coi bản thân mình tốt hơn và không để người khác đến gần. Đó là ý nghĩa của một Giáo hội hiệp hành: mọi người đều tham gia, không có cá nhân nào thay thế cho người khác hoặc ở trên người khác. Không có Kitô hữu hạng nhất hay hạng nhì, tất cả đều được kêu gọi.
Tiếp tục "cuộc chiến chính nghĩa"
Tham gia cũng có nghĩa là tiếp tục "cuộc chiến chính nghĩa" mà thánh Phaolô nói. Vì đó là một "cuộc chiến", vì việc rao giảng Tin Mừng không bao giờ là trung lập; nó không để mọi thứ theo cách của chúng; nó không chấp nhận thỏa hiệp với suy nghĩ của thế giới này, nhưng thay vào đó, thắp sáng ngọn lửa của vương quốc Thiên Chúa giữa sự thống trị của quyền lực con người, cái ác, bạo lực, tham nhũng, bất công và bị gạt ra ngoài lề xã hội. Kể từ khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, và trở thành người thay đổi lịch sử, "một cuộc chiến quan trọng giữa sự sống và cái chết, giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa cam chịu điều tồi tệ nhất và đấu tranh cho điều tốt nhất đã bắt đầu. Một cuộc chiến sẽ không có hiệp định đình chiến cho đến khi hoàn toàn đánh bại tất cả các thế lực thù hận và hủy diệt (C.M. MARTINI, Bài giảng lễ Phục Sinh, 4/4/1999).
Giáo hội có thể cùng nhau làm điều gì để giúp cho thế giới mà chúng ta đang sống nhân đạo hơn?
Vậy câu hỏi thứ hai là: Là Giáo hội, chúng ta có thể cùng nhau làm điều gì để giúp cho thế giới mà chúng ta đang sống nhân đạo hơn, công bình và liên đới hơn, cởi mở hơn với Thiên Chúa và tình huynh đệ giữa loài người? Chắc chắn chúng ta không được rút lui vào những nhóm Giáo hội của chúng ta và tiếp tục gắn chặt vào một số cuộc tranh luận không có kết quả của chúng ta, nhưng thay vào đó, hãy giúp đỡ lẫn nhau để được dậy men trong khối bột thế giới này. Cùng nhau, chúng ta có thể và phải tiếp tục chăm sóc sự sống con người, bảo vệ thụ tạo, phẩm giá của công việc, các vấn đề của gia đình, chăm sóc người già và tất cả những người bị bỏ rơi, bị từ chối hoặc bị đối xử khinh miệt. Nói cách khác, chúng ta được kêu gọi trở thành một Giáo hội thúc đẩy văn hóa quan tâm và cảm thông đối với những người dễ bị tổn thương. Một Giáo Hội chiến đấu chống lại mọi hình thức tham nhũng và mục nát, bao gồm cả những thành phố của chúng ta và những nơi chúng ta thường lui tới, để niềm vui của Tin Mừng có thể tỏa sáng trong đời sống của mọi người. Đây là "cuộc chiến tốt" của chúng ta.
Được kêu gọi "nhanh chóng trỗi dậy"
Thưa anh chị em, hôm nay, theo một truyền thống tốt đẹp, tôi đã làm phép các dây Pallium cho các Tổng Giám mục chính toà được bổ nhiệm trong thời gian gần đây, nhiều người trong số các ngài hiện diện trong Thánh lễ này. Trong sự hiệp thông với thánh Phêrô, các ngài được kêu gọi "nhanh chóng trỗi dậy" để phục vụ như những lính canh bảo vệ đàn chiên và "chiến đấu tốt", không bao giờ đơn độc, nhưng cùng với tất cả đoàn dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa.
Chào đón Phái đoàn của Tòa Thượng phụ
Tôi thân ái chào đón Phái đoàn của Tòa Thượng phụ do người anh em thân yêu của tôi là Đức Thượng phụ Bartolomeo cử đến. Cảm ơn sự hiện diện của quý vị ở đây! Chúng ta hãy cùng nhau hành trình, bởi vì chỉ cùng nhau, chúng ta mới có thể là hạt giống của Tin Mừng và là chứng nhân của tình huynh đệ.
Xin thánh Phêrô và thánh Phaolô chuyển cầu cho chúng ta, cho thành Roma, cho Giáo hội và cho toàn thế giới của chúng ta. Amen.
Vào cuối Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã trao các dây Pallium cho các tân tổng giám mục. Các ngài sẽ chính thức nhận dây này từ Sứ thần Toà Thánh trong một Thánh lễ được cử hành tại giáo phận của các ngài.
Nguồn: vaticannews.va/vi
 

Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2021): Tự do vì đã được giải thoát
Anh chị em thân mến,
Hai vị Tông Đồ vĩ đại của Tin Mừng và hai trụ cột của Giáo hội: Thánh Phêrô và thánh Phaolô. Hôm nay chúng ta mừng kính các ngài. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn hai vị nhân chứng đức tin tuyệt vời này. Trọng tâm câu chuyện của các ngài không phải là năng khiếu và khả năng của chính các ngài nhưng là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng đã thay đổi cuộc đời các ngài. Các ngài đã sống kinh nghiệm tình yêu chữa lành và giải thoát và vì thế các ngài trở thành các tông đồ và các thừa tác viên giải phóng tha nhân.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô được tự do vì các ngài được giải thoát. Chúng ta hãy suy nghĩ về điểm mấu chốt này.
Thánh Phêrô, người ngư phủ ở Galilê, trên hết, được giải thoát khỏi cảm giác bất xứng và cay đắng của thất bại nhờ tình yêu thương vô điều kiện của Chúa Giêsu. Dù là một ngư phủ chuyên nghiệp, đã nhiều lần giữa đêm đen, thánh nhân nếm trải mùi vị cay đắng của sự thất bại vì không đánh bắt được gì (x. Lc 5, 5; Ga 21, 5) và trước những tấm lưới trống rỗng, ngài bị cám dỗ buông mái chèo; dù mạnh mẽ và nóng nảy, ngài thường bị khuất phục trước nỗi sợ hãi (x. Mt 14, 30); mặc dù là môn đệ nhiệt thành của Chúa, ngài vẫn tiếp tục suy luận theo kiểu thế gian và không thể hiểu và chấp nhận ý nghĩa của Thập giá Chúa Kitô (x. Mt 16,22); dù ngài nói sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa, nhưng chỉ cần bị nghi ngờ là người của Chúa cũng đủ khiến ngài sợ hãi và chối bỏ Thầy (x. Mc 14, 66-72).
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thánh Phêrô một cách nhưng không và đặt cược vào ngài. Chúa khuyến khích ngài đừng bỏ cuộc, hãy thả lưới xuống biển lần nữa, bước đi trên mặt nước, can đảm nhìn vào sự yếu đuối của mình, bước theo Chúa trên con đường Thập giá, hy sinh mạng sống vì anh em mình, chăn dắt đoàn chiên của Người. Vì vậy, Chúa đã giải thoát ngài khỏi nỗi sợ hãi, khỏi những tính toán chỉ dựa trên sự chắc chắn của con người, khỏi những lo lắng của thế gian, ban cho ngài can đảm để mạo hiểm và niềm vui cảm nhận mình là người chài lưới con người. Chúa kêu gọi chính ngài củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Người đã trao cho ngài – như chúng ta đã nghe trong Tin Mừng – chìa khóa để mở những cánh cửa dẫn đến cuộc gặp gỡ với Chúa và quyền năng để trói buộc và cởi mở: để ràng buộc anh chị em của mình với Chúa Kitô và tháo gỡ những nút thắt và xiềng xích trong cuộc sống của họ. (x. Mt 16:19).
Tất cả những điều đó có thể xảy ra chỉ vì – như chúng ta đã nghe trong bài đọc một – chính Phêrô đã được giải thoát. Xiềng xích trói buộc ngài đã bị phá vỡ, và cũng như trong đêm dân Israel được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, ngài được lệnh phải vội vàng trỗi dậy, thắt lưng và xỏ dép để ra đi. Sau đó, Chúa mở các cánh cửa trước mặt ngài (xem Cv 12:7-10).
Do đó, lịch sử của thánh Phêrô là lịch sử của giải thoát, bẻ gãy xiềng xích, ra khỏi ngục tù giam kín ngài, như lịch sử của dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ của Ai Cập. Thánh Phêrô sống kinh nghiệm của lễ Vượt Qua: Chúa đã giải thoát ngài.”
Cả thánh Phaolô cũng cảm nghiệm được sự giải thoát của Chúa Kitô. Ngài đã được giải phóng khỏi chế độ nô lệ áp bức nhất, của cái tôi của ngài, và khỏi Saulô, tên của vị vua đầu tiên của Israel, để trở thành Phaolô, có nghĩa là “nhỏ bé”. Ngài cũng được giải thoát khỏi lòng nhiệt thành tôn giáo đã khiến ngài nhiệt thành bảo vệ các truyền thống của cha ông (xem Gl 1, 14) và bách hại các Kitô hữu khốc liệt. Việc tuân giữ tôn giáo chính thức và kiên quyết bảo vệ truyền thống, thay vì giúp ngài mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa và của anh em, lại khiến ngài trở nên cứng nhắc. Thiên Chúa đã giải thoát ngài khỏi điều này; tuy thế Chúa không miễn chuẩn cho ngài khỏi những yếu đuối và khó khăn, và những điều này giúp cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài đạt nhiều thành quả hơn: những vất vả của việc tông đồ, đau bệnh thể lý (x. Gl 4, 13-14); bạo lực và bách hại, đắm tàu, đói khát (x. 2Cr 12, 7-10).
Như thế thánh Phaolô hiểu rằng “những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27); chúng ta có thể làm mọi việc nhờ Người, Đấng ban sức mạnh cho chúng ta (x. Pl 4, 13); và không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Người (x. Rm 8,35-39). Vì lý do này, vào cuối đời – như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ hai – thánh Phaolô đã có thể nói: “Chúa đã phù hộ tôi” và “Ngươi sẽ giải thoát tôi khỏi mọi đòn tấn công của ma quỷ” (2 Tim 4:17). Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm về lễ Vượt Qua: Chúa đã giải thoát ngài.
Anh chị em thân mến, Giáo hội nhìn vào hai vĩ nhân của đức tin này và nhìn thấy hai vị Tông đồ đã giải phóng sức mạnh của Tin Mừng trên toàn thế giới. Các ngài làm được như vậy, chỉ vì trước hết các ngài được giải thoát nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Người không phán xét các ngài, không sỉ nhục các ngài, nhưng yêu thương, gần gũi chia sẻ cuộc sống của các ngài, nâng đỡ các ngài bằng lời cầu nguyện của chính Người và đôi khi nhắc nhở các ngài để giúp các ngài hoán cải. Chúa Giêsu cũng làm như thế với chúng ta: Người bảo đảm với chúng ta về sự gần gũi của Người bằng cách cầu nguyện cho chúng ta và chuyển cầu với Chúa Cha; và nhẹ nhàng trách móc khi chúng ta mắc sai lầm, để chúng ta tìm thấy sức mạnh để đứng dậy và tiếp tục cuộc hành trình.
Chúng ta cũng đã được Chúa chạm đến; chúng ta cũng đã được giải thoát. Tuy nhiên, chúng ta luôn cần được giải phóng, bởi vì chỉ có một Giáo hội tự do mới là một Giáo hội đáng tin cậy. Giống như thánh Phêrô, chúng ta được kêu gọi để được giải thoát khỏi cảm giác thất bại khi đối mặt với việc đánh cá đôi khi không thành công của chúng ta; để thoát khỏi nỗi sợ hãi đang làm chúng ta bất động và khiến chúng ta sợ hãi, khép kín trong sự chắc chắn của chúng ta và cướp đi sự can đảm của lời ngôn sứ. Giống như thánh Phaolô, chúng ta được kêu gọi để thoát khỏi thói hư vinh giả hình; thoát khỏi sự cám dỗ khoe mình với sức mạnh của thế gian hơn là với sự yếu đuối dành chỗ cho Thiên Chúa; thoát khỏi một tôn giáo khiến chúng ta cứng nhắc và thiếu linh hoạt; thoát khỏi những liên kết mơ hồ với quyền lực và nỗi sợ bị hiểu lầm và tấn công.
Hai thánh Phêrô và Phaolô để lại cho chúng ta hình ảnh một Giáo hội được giao phó trong tay chúng ta, nhưng được Chúa hướng dẫn bằng lòng trung thành và tình yêu dịu dàng. Một Giáo hội yếu đuối, nhưng lại tìm thấy sức mạnh trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Một Giáo hội được giải phóng tự do và có khả năng mang lại cho thế giới sự tự do mà tự thế giới không thể mang lại: tự do khỏi tội lỗi và sự chết, khỏi sự cam chịu, khỏi cảm giác bất công và mất hy vọng làm cuộc sống của những người trong thời đại của chúng ta không xứng với nhân phẩm.
Chúng ta hãy hỏi: các thành phố của chúng ta, xã hội của chúng ta và thế giới của chúng ta cần tự do ở mức độ nào? Bao nhiêu xiềng xích phải được phá vỡ và bao nhiêu cánh cửa đã đóng bấy lâu nay cần được mở! Chúng ta có thể giúp mang lại sự tự do này, nhưng chỉ khi trước tiên chúng ta để cho mình được tự do bởi sự mới mẻ của Chúa Giê-su, và bước đi trong sự tự do của Chúa Thánh Thần.
Hôm nay các tân Tổng Giám mục nhận dây Pallium. Đây là dấu hiệu hiệp nhất với thánh Phêrô. Dấu hiệu này nhắc lại sứ mệnh của người mục tử, người hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính khi hiến mạng sống của mình, mục tử được tự do, trở thành phương tiện mang lại tự do cho anh chị em của mình.
Cũng hôm nay, chúng ta cũng có được sự tham dự của Phái đoàn từ Tòa Thượng Phụ Constantinople, đại diện cho Đức Thượng phụ Bartolomeo. Sự hiện diện của anh em là một dấu hiệu quý giá của sự hiệp nhất trên hành trình giải thoát chúng ta khỏi những khoảng cách khiến các tín đồ trong Chúa Kitô chia rẽ như một cách gương mù gương xấu. Xin cảm ơn sự hiện diện của anh em.
Nguồn: vaticannews.va/vi
 

Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2020): Hiệp nhất và lời tiên tri
Trong ngày lễ mừng kính hai Thánh Tông đồ của thành Roma này, tôi xin chia sẻ với anh chị em hai từ chính: hiệp nhất và lời tiên tri.
Hiệp nhất
Chúng ta mừng lễ hai nhân vật rất khác nhau: Thánh Phêrô, một ngư dân suốt ngày với thuyền và lưới, Thánh Phaolô là một nhà trí thức Pharisêu giảng dạy ở các hội đường. Khi thi hành sứ vụ, Thánh Phêrô giảng dạy cho người Do Thái, và Thánh Phaolô rao giảng cho dân ngoại. Khi có bất đồng ý kiến họ đã tranh luận sôi nổi, Thánh Phaolô đã không ngần ngại viết như vậy trong thư gửi tín hữu Galata (Gal 2,11). Nói chung họ là hai người rất khác nhau nhưng họ xem nhau như là anh em như vẫn thường xảy ra trong các gia đình rất gắn bó với nhau, nơi có thể xảy ra nhiều tranh luận nhưng luôn yêu thương nhau. Sự gắn bó giữa Thánh Phêrô và Phaolô không đến từ những khuynh hướng tự nhiên, nhưng từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không ra lệnh cho chúng ta phải thích nhau nhưng là yêu thương nhau. Chính Thiên Chúa đã kết hiệp chúng ta nhưng không làm cho chúng ta nên giống hệt nhau.
Nguồn mạch sự hiệp nhất: cầu nguyện
Bài đọc I của Thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy nguồn mạch của sự hiệp nhất. Bài đọc tường thuật lại kinh nghiệm của Giáo Hội tiên khởi trong thời gian bị khủng hoảng: Vua Hêrôđê giận dữ, sự bách hại kinh hoàng các tín hữu, Thánh Giacôbê Tông đồ đã bị giết. Thánh Phêrô bị bắt. Cộng đoàn như rắn mất đầu, mọi người đều lo sợ cho mạng sống của mình. Tuy nhiên, ngay chính lúc bi thảm đã không có người nào trốn chạy, không người nào tìm cách cứu mình, không người nào bỏ rơi người khác, nhưng họ hiệp nhất cùng nhau trong lời cầu nguyện. Họ đã tìm được sức mạnh từ lời cầu nguyện. Cũng nhờ cầu nguyện sự hiệp nhất của họ mạnh hơn bất cứ sự đe dọa nào. Bản văn viết: “Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Hiệp nhất là một nguyên tắc được kích hoạt bằng cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện cho phép Chúa Thánh Thần can thiệp vào đời sống của chúng ta và giúp chúng ta mở rộng lòng đón nhận niềm hy vọng, cầu nguyện giúp thu ngắn những khoảng cách và giữ chặt chúng ta với nhau trong những lúc khó khăn.
Trong khó khăn không than phiền và đổ lỗi, nhưng cầu nguyện
Chúng ta hãy cùng quan tâm đến một khía cạnh khác: trong giây phút khó khăn, không ai than phiền về sự xấu xa, bách hại của Hêrôđê. Không có ai có những lời xúc phạm đến Hêrôđê. Chúng ta thì trái lại, chúng ta đã quen lăng mạ những người có trách nhiệm. Đối với các tín hữu tiên khởi, than phiền được xem như là một việc vô ích, nhàm chán. Các Kitô hữu không mất thời gian để than phiền thế giới, xã hội, than phiền về mọi thứ không đúng. Than phiền không thay đổi được gì. Chúng ta hãy nhớ rằng than vãn là cánh cửa thứ hai bị đóng lại trước Chúa Thánh Thần, như tôi đã nói điều này trong ngày Lễ Ngũ Tuần: Thứ nhất là thần tượng chính mình, thứ hai là thái độ duy nạn nhân và thứ ba là thái độ bi quan. Ba thái độ này đóng cửa lòng mình trước Chúa Thánh Thần.
Các Kitô hữu đã không đổ lỗi, họ cầu nguyện. Trong cộng đoàn đó không ai nói: “Nếu Phêrô cẩn thận hơn thì chúng ta đã không bị rơi và hoàn cảnh như thế này”. Không, họ không than phiền Phêrô; họ cầu nguyện cho ông. Họ không nói xấu sau lưng Phêrô; họ thưa chuyện với Thiên Chúa.
Phép lạ của cầu nguyện: xiềng xích mở toang
Ngày nay chúng ta có thể tự hỏi: “Chúng ta có đang bảo vệ sự hiệp nhất bằng lời cầu nguyện không? Chúng ta có đang cầu nguyện cho nhau không?” Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cầu nguyện nhiều hơn và than phiền ít hơn? Sự việc sẽ xảy ra giống như Phêrô trong tù: nhiều cánh cửa đang đóng kín sẽ được mở ra, nhiều xiềng xích sẽ bị vỡ tung. Chúng ta cùng cầu xin ơn biết cầu nguyện cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyến khích các Kitô hữu cầu nguyện cho tất cả mọi người, nhất là các nhà lãnh đạo (1Tm 2, 1-3). Đó là nhiệm vụ Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Chúng ta có thực hiện điều đó không? Hay chúng ta chỉ nói và thế là đủ? Thiên Chúa mong đợi nơi chúng ta khi cầu nguyện thì cũng biết quan tâm đến những người không suy nghĩ như chúng ta, những người từ chối không muốn tiếp xúc với chúng ta, những người chúng ta cảm thấy rất khó tha thứ. Cầu nguyện là phương cách duy nhất để mở toang xiềng xích. Chỉ có cầu nguyện mới dẫn đến sự hiệp nhất.
Dây Pallium sự hiệp nhất giữa đàn chiên và Vị Mục tử
Hôm nay các dây Pallium được làm phép, rồi được trao cho Niên trưởng Hồng y đoàn và các Tổng Giám mục đã được bổ nhiệm trong năm vừa qua. Dây Pallium nhắc nhở sự hiệp nhất giữa đàn chiên và Vị Mục tử, giống Đức Giêsu mang chiên trên vai để không bao giờ xa rời chiên. Hôm nay, theo truyền thống tốt đẹp chúng ta liên kết cách đặc biệt Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople. Thánh Phêrô và Thánh Anrê là hai anh em, chúng ta trao đổi những cuộc viếng thăm huynh đệ vào những dịp lễ khi có thể. Chúng ta làm điều đó không chỉ vì lịch sự xã giao nhưng là hành trình cùng nhau tiến tới mục đích Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta: đó là sự hiệp thông trọn vẹn. Hôm nay, vì đại dịch phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople không thể đến đây được, nhưng khi cầu nguyện trước mộ Thánh Phêrô tôi cảm nhận trong tâm hồn sự hiện diện gần gũi với người anh em yêu dấu Batolomeo. Mọi người đang ở đây với chúng ta.
Lời tiên tri
Từ thứ hai là lời tiên tri, Đức Giêsu đã thách đố các tông đồ. Ngài hỏi Phêrô: “Còn anh, anh bảo thầy là ai?” (Mt 16, 25). Lúc đó Phêrô nhận ra rằng Thiên Chúa không quan tâm người khác nghĩ thế nào, nhưng là cá nhân ông, người quyết định theo Ngài.
Cuộc đời Thánh Phaolô cũng đã thay đổi sau cuộc thách đố tương tự khi Đức Giêsu hỏi: “Saolo, Saolo, sao ngươi bắt bớ ta?” (Cv 9, 4). Thiên Chúa đã đánh động vào nơi sâu thẳm của tâm hồn Phaolô: không chỉ ngã xuống trên đường Damas, Ngài đã đánh đổ tính tự phụ của Phaolô về lòng nhiệt thành sống đạo. Kết quả là, từ Saolo kiêu hãnh đến Phaolô, có nghĩa là “nhỏ bé”.
Chỉ những người mở lòng với những điều bất ngờ của Thiên Chúa mới có thể trở thành tiên tri
Những thách đố và hoán cải đã được tiếp theo bằng những lời tiên tri: “Anh là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 18); và với Phaolô: “người ấy là lợi khí ta đã chọn để mang danh ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Israel” (Cv 9, 15). Lời tiên tri được công bố khi chúng ta chấp nhận những thử thách bởi Thiên Chúa, không phải khi chúng ta giữ mọi sự im lặng trong tầm kiểm soát của mình. Nó không nảy sinh từ những suy nghĩ của tôi, từ con tim đóng kín của tôi. Nó nảy sinh nếu chúng ta để cho Thiên Chúa thách đố chúng ta. Khi Tin Mừng đảo lộn những điều chắc chắn, thì những lời tiên tri được loan báo. Chỉ những người mở lòng với những điều bất ngờ của Thiên Chúa mới có thể trở thành tiên tri. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là những vị tiên tri nhìn thấy tương lai. Thánh Phaolô là người đầu tiên tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đức Kitô, là con của Thiên Chúa hằng Sống” (Mt 16,16). Thánh Phaolô, người đã tiên báo trước về cái chết của mình: “Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chính Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi” (2Tm 4, 8).
Thế giới cần những lời tiên tri chân thật
Ngày nay chúng ta cần những lời tiên tri, những lời tiên tri chân thật, không phải những người nói huyên thuyên về những điều không thể thực hiện được, nhưng là những chứng nhân Tin Mừng với những điều có thể. Điều cần thiết không phải là biểu diễn những phép lạ, nhưng là đời sống diễn tả phép lạ của tình yêu Thiên Chúa. Không phải sức mạnh có tính thuyết phục, nhưng là sự chân thật thẳng thắn trong thái độ, quan điểm và lời nói. Không phải nói huyên thuyên nhưng là cầu nguyện. Không phải giảng thuyết nhưng là phục vụ. Không phải lý thuyết nhưng là chứng nhân. Chúng ta không cần phải trở nên giàu, đúng hơn là yêu người nghèo. Tìm kiếm không phải sự công nhận của thế giới này, nhưng là niềm vui của thế giới sẽ đến. Không phải những kế hoạch mục vụ, nhưng là những mục tử hiến mạng vì đàn chiên: những người yêu Thiên Chúa. Đó là cách Thánh Phêrô và Thánh Phaolô rao giảng Đức Giêsu, người yêu Thiên Chúa say đắm, cuồng nhiệt. Trước khi bị đóng đinh vào thập giá, Thánh Phêrô không nghĩ đến mình nhưng nghĩ đến Đức Giêsu và tự cho mình không xứng đáng chết như Đức Giêsu, Phêrô đã xin dựng ngược thập giá. Trước khi bị chém đầu, Phaolô chỉ nghĩ đến việc hiến dâng mạng sống; Phaolô đã viết rằng ông muốn “đổ máu làm lễ tế” (Tm 4, 6). Đó là lời tiên tri. Và nó đã thay đổi lịch sử.
Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã nói tiên tri về Thánh Phêrô rằng: “Anh là Đá, trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Lời tiên tri cũng tương tự cho chúng ta. Nó được tìm thấy trong quyển cuối của Kinh Thánh, nơi Đức Giêsu hứa với các nhân chứng trung thành của Ngài: “một viên sỏi trắng, trên đó có khắc một tên mới” (Kh 2,17). Cũng như Thiên Chúa đã đổi Simon thành Phêrô, Ngài cũng kêu gọi mỗi người chúng ta để biến đổi chúng ta trở thành những viên đá sống động để xây dựng và làm mới lại một Giáo Hội và đổi mới nhân loại. Những người phá hủy sự hiệp nhất và dập tắt lời tiên tri luôn luôn tồn tại, vào lúc này, Thiên chúa tin tưởng chúng ta và Ngài hỏi bạn: “Con có muốn trở thành người xây dựng sự hiệp nhất không? Con có muốn trở thành tiên tri của Nước Trời ở thế gian này không?” Hãy để chúng ta bị thách thức bởi Đức Giêsu và can đảm trả lời: “Vâng, con muốn!”
Nguồn: vaticannews.va/vi
 

Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2019): Thánh Phêrô và Thánh Phaolô là những chứng nhân
Hai tông đồ Phêrô và Phaolô ở trước chúng ta như những nhân chứng. Họ không bao giờ mệt mỏi loan báo và sống cho sứ mạng, trong hành trình từ vùng đất của Chúa Giêsu đến Roma. Tại đây các ngài đã làm chứng cho ​​đến cùng, hiến chính mạng sống như những vị tử đạo. Nếu chúng ta đi đến gốc rễ chứng tá của các ngài, chúng ta sẽ thấy nơi họ là chứng nhân của cuộc sốngchứng nhân của sự tha thứ và chứng nhân của Chúa Giêsu.
Chứng nhân của cuộc sống
Dẫu cho, cuộc sống của họ đã không sạch sẽ và chính trực. Cả hai từ bản chất đều nhiệt thành trong việc giữ đạo: Phêrô, một môn đệ từ giây phút đầu tiên (x. Ga 1, 41), Phaolô thậm chí “không mệt mỏi với các truyền thống của cha ông” (Gal 1, 14). Nhưng họ đã phạm phải những sai lầm to lớn: Phêrô đã chối Chúa, Phaolô đã bắt bớ Hội thánh của Chúa. Cả hai đều trở nên trần trụi trước những câu hỏi của Chúa Giê-su: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15); “Phaolô, Phaolô, tại sao anh lại bắt bớ ta? (Cv 9,4). Phêrô rất buồn trước những câu hỏi của Chúa Giêsu, Phaolô bị mù bởi những lời của Ngài. Chúa Giêsu gọi họ bằng tên và thay đổi cuộc sống của họ. Và sau tất cả những phiêu lưu, Ngài tin tưởng họ, hai tội nhân hoán cải. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Chúa không cho chúng ta hai nhân chứng chính trực, với một hồ sơ sạch sẽ, với một cuộc sống không nhiễm uế? Tại sao lại là Phêrô, khi Gioan đã có rồi? Tại sao là Phaolô mà không phải là Banaba?
Điểm khởi đầu của đời sống Kitô hữu không phải là họ xứng đáng
Có một giáo huấn tuyệt vời ở đây: điểm khởi đầu của đời sống Kitô hữu không phải là xứng đáng; với những người nghĩ rằng họ tốt, Chúa có thể làm được rất ít. Khi chúng ta coi bản thân mình tốt hơn những người khác, đó là khởi đầu của sự kết thúc. Chúa không thực hiện phép lạ với người nghĩ rằng mình công chính, nhưng với người biết rằng họ đang thiếu thốn. Ngài không bị cuốn hút bởi tài năng của chúng ta, đó không phải là lý do Ngài yêu chúng ta. Ngài yêu chúng ta như hiện tại của chúng ta và Ngài tìm kiếm những ai không tự cho mình là đủ, nhưng sẵn sàng mở lòng ra với Ngài. Vì thế, Phêrô và Phaolô trong suốt trước Chúa. Lập tức Phêrô nói với Chúa Giêsu: “Con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Phaolô viết rằng “tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ” (1 Cr 15, 9).
Sự tha thứ của Chúa: bí mật giúp người tội lỗi tiến bước
Trong cuộc sống, họ giữ sự khiêm nhường này cho đến cùng: Phêrô bị đóng đinh trong tư thế lộn ngược, vì ngài không nghĩ mình xứng đáng để bắt chước Chúa của mình; Phaolô luôn thích tên gọi mình, Phaolô có nghĩa là “nhỏ” và quên đi tên gọi khai sinh, Saulo, tên vị vua đầu tiên của dân tộc Israel. Họ hiểu rằng sự thánh thiện không nằm ở chỗ nâng mình lên, nhưng là hạ mình xuống: không phải là leo lên trong bảng xếp hạng, mà là mỗi ngày phó thác sự nghèo khó của mình cho Chúa, Đấng làm những điều vĩ đại nơi những ai khiêm nhường. Đâu là bí mật giúp họ tiến bước nơi sự yếu đuối? Là sự tha thứ của Chúa.
Nhân chứng của sự tha thứ
Do đó, chúng ta tái khám phá nơi họ là nhân chứng của sự tha thứ. Nơi những cú ngã, họ đã khám phá ra sức mạnh của lòng thương xót Chúa, điều đã làm cho họ được tái sinh. Trong sự tha thứ của Ngài, họ đã tìm thấy một sự bình an và niềm vui không thể đánh mất. Với những gì họ đã trải qua, họ có thể đã sống với cảm giác tội lỗi: bao nhiêu lần Phêrô đã nghĩ về việc chối Chúa của mình! Bao nhiêu xáo trộn đối với Phaolô, người đã làm điều tồi tệ với rất nhiều người vô tội! Đối với con người, họ đã thất bại. Nhưng họ đã gặp một tình yêu lớn hơn những thất bại của họ, một sự tha thứ mạnh mẽ đến nỗi chữa lành cảm giác tội lỗi. Chỉ khi chúng ta trải nghiệm được sự tha thứ của Chúa, chúng ta mới thực sự tái sinh. Tại đó người ta mới bắt đầu lại, từ sự tha thứ; tại đó chúng ta tìm lại được chính mình: trong Bí Tích Hoà Giải.
Nhân chứng của Chúa Giêsu
Là nhân chứng của sự sống, nhân chứng của sự tha thứ, và trên hết Phêrô và Phaolô là nhân chứng của Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng hôm nay, Ngài hỏi: “Dân chúng nói Con Người là ai?” Các câu trả lời gợi lên những nhân vật trong quá khứ: “Gioan Tẩy Giả, Elia, Giêrêmia hoặc một trong số các tiên tri”. Họ là những người phi thường, nhưng tất cả đã chết. Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô” (x. Mt 16,13.14.16). Đấng Kitô, nghĩa là Mêsia - Đấng Thiên Sai. Đó là một từ không nói về quá khứ, mà là tương lai: Mêsia là Đấng được trông đợi, người mới, Đấng mang đến cho thế giới sự xức dầu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là quá khứ, mà là hiện tại và tương lai. Không phải là một nhân vật xa xôi để nhớ, nhưng là Đấng mà Phêrô nói với ngôi thứ hai: Thầy là Đấng Kitô. Đối với Phêrô, Chúa Giêsu hơn cả một nhân vật trong lịch sử, Ngài là con người của sự sống: là người mới, không phải là người đã thấy; người mới của tương lai, không phải là ký ức của quá khứ. Do đó, nhân chứng này không phải là người biết câu chuyện về Chúa Giêsu, mà là người sống một câu chuyện về tình yêu với Chúa Giêsu. Bởi vì, sau tất cả, nhân chứng nhất quyết tuyên bố: rằng Chúa Giêsu đang sống và là bí mật của cuộc sống. Thật sự, chúng ta thấy rằng Phêrô, sau khi đã nói: Thầy là Đấng Kitô, còn nói thêm: “Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16). Lời chứng được sinh ra từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu sống.
Cũng nơi trung tâm cuộc đời của Phaolô, chúng ta tìm thấy cùng một từ tràn ra từ trái tim của Phêrô: Đức Kitô. Phaolô lặp đi lặp lại danh xưng này nhiều lần, gần bốn trăm lần trong các lá thư của mình! Đối với Phaolô, Đức Kitô không chỉ là mẫu mực, gương mẫu, điểm tham chiếu: nhưng đó là sự sống. Phaolô viết: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1,21). Chúa Giêsu là hiện tại và tương lai của ngài, đến nỗi ngài xem quá khứ là rác rưởi so với mối lợi tuyệt vời là được biết về Chúa Kitô (x. Pl 3,7-8).
“Tôi có làm mới lại cuộc gặp gỡ của tôi với Chúa Giêsu mỗi ngày không?”
Trước những nhân chứng này, chúng ta tự hỏi: “Tôi có làm mới lại cuộc gặp gỡ của tôi với Chúa Giêsu mỗi ngày không?” Có lẽ chúng ta tò mò về Chúa Giêsu, chúng ta quan tâm đến những điều của Giáo hội hoặc các tin tức tôn giáo. Chúng ta mở các trang web, báo chí và nói về những điều thiêng liêng. Nhưng đấy vẫn là điều mà người ta nói, để tìm tòi, về quá khứ. Chúa Giêsu không quan tâm đến điều đó lắm. Ngài không cần các phóng viên tinh thần, hay Kitô hữu ở bề mặt. Ngài tìm kiếm những nhân chứng, những người mỗi ngày nói với Ngài: “Lạy Chúa, Ngài là cuộc sống của con”.
Tình yêu không thước đo
Gặp được Chúa Giêsu, trải nghiệm sự tha thứ của Ngài, các Tông đồ đã làm chứng cho ​​một cuộc sống mới: họ không cứu lấy mình, họ đã tự hiến. Họ không bằng lòng với thước đo nửa vời, nhưng họ đã dùng thước đo duy nhất có thể đối với những người theo Chúa Giêsu: đó là một tình yêu không thước đo. Họ “đổ máu ra làm lễ tế (x. 2 Tm 4,6).
Đừng trở thành những Kitô hữu âm ấm
Chúng ta xin ơn để không trở thành những Kitô hữu âm ấm, những người sống theo thước đo nửa vời, những người để cho tình yêu nguội lạnh. Chúng ta tìm lại mối tương quan hàng ngày với Chúa Giêsu và sức mạnh tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu, giống như với Phêrô, cũng hỏi bạn: “Tôi là ai đối với bạn?” “Bạn có yêu tôi không?” Hãy để những lời này vào trong chúng ta và đốt cháy ước muốn không hài lòng với mức tối thiểu, nhưng nhắm đến tối đa, và chúng ta cũng trở nên nhân chứng sống của Chúa Giêsu.
Dây Pallium: các Mục tử không sống cho mình, mà cho đàn chiên
Hôm nay, những dây Pallium được làm phép cho các Tổng Giám mục được bổ nhiệm vào năm ngoái. Pallium nhắc nhớ đến con chiên mà Vị Mục Tử được kêu gọi vác trên vai: đó là dấu hiệu cho thấy các Mục tử không sống cho mình, mà cho đàn chiên; đó là dấu hiệu cho thấy, để sở hữu nó phải để mất sự sống, cho đi sự sống.
Một phái đoàn Toà Thượng phụ Chính Thống chia sẻ với chúng ta hôm nay, theo một truyền thống tốt đẹp. Tôi kính chào với lòng cảm mến. Sự hiện diện của quý vị nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể đánh mất nhau trên hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các tín hữu, trong sự hiệp thông ở mọi cấp độ. Bởi vì cùng nhau, được hoà giải bởi Thiên Chúa và chúng ta tha thứ cho nhau, chúng ta được mời gọi trở nên chứng nhân của Chúa Giêsu bằng cuộc sống của chúng ta.
Nguồn: vaticannews.va/vi


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2018) - Thầy là Đấng Kitô
Các Bài Đọc mà chúng ta vừa nghe đã cho phép chúng ta tiếp cận được với truyền thống Tông Đồ, mà truyền thống ấy “không phải là sự chuyển giao những đồ vật hay những lời nói, cũng không phải là một tuyển tập những điều hết hiệu lực. Truyền thống là một dòng chảy sống động, nó liên kết chúng ta với cội nguồn, và nó là một dòng chảy sống động mà cội nguồn luôn luôn hiện diện trong đó” (Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, Bài Giáo Lý, 26.04.2006) và giới thiệu cho chúng ta chiếc chìa khóa để đi vào Nước Trời (xc. Mt 16,19). Đó là một truyền thống vĩnh cửu và luôn luôn mới mẻ, nó mang đến sự hồi sinh và canh tân cho niềm vui Tin Mừng, cũng như cho phép chúng ta tuyên xưng với môi miệng và con tim chúng ta rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa Cha” (Phil 2,11).
Toàn bộ Tin Mừng đều muốn trả lời cho câu hỏi nằm sẵn trong con tim của dân tộc Israel, cũng như được nói ra bởi rất nhiều những gương mặt đói khát sự sống: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,3). Chúa Giêsu đã liên hệ đến câu hỏi đó và đặt ra cho các môn đệ của Ngài câu hỏi sau: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15).
Thánh Phêrô đã sử dụng một từ ngữ và gán cho Chúa Giêsu một tước hiệu cao nhất có thể: “Thầy là Đấng Kitô” (Mt 16,16), có nghĩa là Đấng Được Thiên Chúa Xức Dầu và Thánh Hiến. Thật tuyệt vời khi biết rằng, Thiên Chúa Cha chính là Đấng gợi ý câu trả lời đó cho Phêrô – người đã thấy được Chúa Giêsu “xức dầu” cho Dân Ngài như thế nào. Chúa Giêsu, Đấng Được Xức Dầu, Đấng đi từ làng này qua làng khác chỉ với một ý muốn là cứu độ và nâng đỡ những con người bị coi là đã hư mất: Ngài “xức dầu” cho những kẻ đã chết (xc. Mc 5,41-42; Lc 7,14-15), Ngài thoa dầu cho các bệnh nhân (xc. Mc 6,13; Ga 5,14), Ngài thoa dầu vào những vết thương (xc. Lc 10,34), Ngài xức dầu cho những hối nhân (xc. Mt, 6,17). Ngài xức dầu cho niềm hy vọng (xc. Lc 7,38.46; 10,34; Ga 11,2; 12,3). Trong việc xức dầu ấy, bất cứ tội nhân, bất cứ kẻ đã hư đi mất, bất cứ bệnh nhân, bất cứ người ngoại đạo nào – dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu – cũng đều có thể cảm thấy mình là thành viên được yêu thương của gia đình Thiên Chúa. Với những cử chỉ của mình, và bằng cách thức hoàn toàn cá nhân, Chúa Giêsu nói với từng người một: Con thuộc về Ta, con là của Ta. Giống như Thánh Phêrô, chúng ta cũng có thể tuyên xưng với môi miệng và con tim chúng ta, không chỉ về điều mà chúng ta đã nghe, nhưng cũng còn về những kinh nghiệm cụ thể của cuộc sống chúng ta nữa: Nhờ vào việc được xức Dầu Chúa Thánh Thần, chúng ta đã được phục sinh, được cứu độ, được canh tân, và được lấp đầy với niềm hy vọng. Bất cứ chiếc ách nặng nề nào của kiếp nô lệ cũng đều bị bẻ gẫy nhờ vào việc xức dầu của Ngài (xc. Is 10,27). Chúng ta không được phép đánh mất niềm vui và ký ức của sự hiểu biết về ơn cứu độ của chúng ta, đó là niềm vui khiến chúng ta phải tuyên xưng rằng: “Thầy là Con Thiên Chúa Hằng Sống” (xc. Mt 16,16).
Thật là thú vị khi hướng cái nhìn đến đoạn Tin Mừng tiếp theo, sau việc tuyên xưng Đức Tin của Thánh Phêrô: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Đấng Được Thiên Chúa Xức Dầu tiếp tục thực hiện Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho đến cùng. Tình Yêu nhân hậu này đòi hỏi phải được đi vào tất cả mọi ngóc ngách của kiếp sống, để đến được với từng người, ngay cả phải đánh mất “tiếng tốt”, đánh mất sự tiện nghi và địa vị… và phải trả giá bằng sự Tử Đạo.
Khi đối diện với lời tiên báo hoàn toàn nằm ngoài sự mong đợi đó, Phêrô đã đáp lại rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16,22), và ông đã nhanh chóng trở thành một tảng đá cản đường Đấng Messias; với ý định bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa, ông đã vô tình trở thành kẻ thù của Ngài (Chúa Giêsu gọi ông là Satan). Chiêm ngưỡng cuộc đời và niềm tuyên xưng của Thánh Phêrô cũng có nghĩa là học để nhận ra những cơn cám dỗ mà chúng luôn đồng hành với cuộc sống của người môn đệ. Như Thánh Phêrô, với tư cách là Giáo hội, chúng ta luôn luôn bị cám dỗ bởi “những cơn xúi giục” của sự ác, mà những cơn xúi giục ấy sẽ trở thành những phiến đá cản đường đối với sứ mạng. Sở dĩ Cha nói về những “cơn xúi giục”, là vì ma quỷ luôn luôn cám dỗ cách ngấm ngầm và luôn luôn tìm cách để người ta không nhận ra chủ đích của hắn, hắn xử sự “như một tình nhân sai quấy. Hắn muốn giấu giếm và không muốn bị phát hiện” (Thánh Ignatio Loyola, Linh Thao, 326).
Nhưng việc tham dự vào với sự xức dầu của Chúa Kitô cũng luôn luôn có nghĩa là tham dự vào với vinh quang của Ngài, tức tham dự vào Thánh Giá của Ngài: Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Con Cha… “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Thánh Cha!” (Ga 12,28). Trong Chúa Giêsu Kitô, vình quang và Thánh Giá cùng thuộc về nhau, và không thể bị chia tách khỏi nhau; vì nếu chúng ta bỏ mặc Thánh Giá, ngay cả khi chúng ta bước vào trong ánh hào quang ngời sáng của danh vọng, thì chúng ta vẫn tự lừa dối chính mình, vì đó không phải là vinh quang của Thiên Chúa, nhưng chỉ là sự cợt nhả của đối phương.
Không hiếm khi chúng ta cảm thấy cơn cám dỗ muốn trở thành những Kitô hữu giữ một khoảng cách chắc chắn với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu lại đụng chạm tới nỗi khốn cùng của nhân loại và mời gọi chúng ta hãy hiện diện bên Ngài để đụng chạm tới thân xác đau khổi của tha nhân. Việc tuyên xưng Đức Tin bằng môi miệng và bằng con tim của chúng ta đòi hỏi – giống như Chúa Giêsu đã đòi hỏi từ nơi Thánh Phêrô, phải nhận ra “những cơn xúi giục” của sự ác như là chính nó. Vấn đề nằm ở chỗ là càng ngày càng phải nhận thức và phát hiện ra một cách tốt hơn nữa “những điều ngụy trang” cả về khía cạnh cá nhân lẫn khía cạnh xã hội, mà chúng đẩy chúng ta ra xa khỏi những thực tại bi ai của kiếp người, chúng ngăn cản chúng ta tiếp xúc với người khác qua cuộc sống cụ thể, và sau cùng, ngăn cản chúng ta học biết quyền năng có tính cách mạng phát xuất từ sự hiền dịu của Thiên Chúa (xc. Thông Điệp Evangelii gaudium, 270).
Nhờ vào việc không tách vinh quang ra khỏi Thánh Giá, Chúa Giêsu muốn giải phóng các môn đệ của Ngài, muốn giải phóng Giáo hội của Ngài khỏi thái độ chiến thắng trống rỗng: khỏi cảnh thiếu Đức Ái, thiếu sự sẵn sàng phục vụ, thiếu sự cảm thông, và thiếu gần gũi dân chúng. Ngài muốn giải phóng Giáo hội khỏi một sự ảo tưởng không kiềm chế mà nó không thể bén rễ sâu trong cuộc sống của Dân Tín Hữu, hay, khỏi cái còn tệ hơn nữa khi nghĩ rằng, sự phụng thờ Thiên Chúa đòi hỏi phải rời bỏ những con đường bụi bặm của lịch sử. Trái lại, việc chiêm ngưỡng và đi theo Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta phải mở tâm hồn mình ra cho Thiên Chúa Cha và cho tất cả những ai mà chính Ngài thích tự đồng hóa mình với họ (xc. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông Huấn Novo millennio ineunte, 49), và trong niềm xác tín rằng, Ngài không bao giờ bỏ rơi dân Ngài.
Anh chị em thân mến, câu hỏi sau đây cũng vẫn đang được tiếp tục nói ra bởi hằng triệu khuôn mặt: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11,13).Với cả môi miệng và con tim, chúng ta hãy tuyên xưng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa”(Phil 2,11). Đó là Cantus firmus (tiền xướng) của chúng ta mà chúng ta cần phải cất lên mỗi ngày – và thực ra, với sự đơn sơ, với sự xác tín và niềm vui đến từ niềm ý thức rằng: “Giáo hội không chiếu sáng trong ánh sáng riêng, nhưng trong ánh sáng của Chúa Kitô và nương theo ánh hào quang của mặt trời công chính”, đến độ Giáo hội có thể nói: “Không còn phải là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2.20) (Thánh Ambroxio, Hexaemeron, IV,8,32).
Nguồn: daminhtamhiep.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2017) - Tuyên xưng, sự bách hại và cầu nguyện
Phụng vụ hôm nay cung cấp cho chúng ta ba từ cần thiết cho cuộc đời của một tông đồ: tuyên xưng, sự bách hại và cầu nguyện.
Tuyên xưng là điều mà Thánh Phêrô đã thực hiện trong Tin Mừng khi câu hỏi của Chúa Giêsu đi từ tổng quát tới cụ thể. Trong thực tế, thì trước tiên Chúa Giêsu đã hỏi rằng: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16,13). Trong “cuộc thăm dò” này đã thu được kết quả từ nhiều phía, và nói chung, dân chúng coi Chúa Giêsu là một vị Ngôn Sứ. Và rồi vị Tôn Sư đã đặt ra cho các môn sinh một câu hỏi thực sự mang tính quyết định: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15). Chỉ có Thánh Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” (Mt 16,16). Đó là sự tuyên xưng: nhìn thấy trong Chúa Giêsu Đấng Messias được mong chờ, Thiên Chúa hằng sống, và là Đấng làm chủ cuộc sống của tôi.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang dành câu hỏi có tính nền tảng ấy cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, nhưng đặc biệt là cho các mục tử chúng tôi. Đó là câu hỏi có tính quyết định mà không câu trả lời lịch sự nào có thể tồn tại trước nó, vì cuộc sống đang trong tình trạng nguy hiểm: Một câu hỏi thiết yếu đòi hỏi một câu trả lời với cả cuộc đời. Vì thế, việc biết các công thức Đức Tin sẽ chẳng có ích lợi gì nếu người ta không tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa trong cuộc sống riêng của mình. Hôm nay, Ngài nhìn vào tận mắt chúng ta và hỏi: “Thầy là ai đối với con?” Như thể Ngài muốn nói: “Ta có còn là Chúa cuộc sống của con nữa không, có còn là người tổ chức con tim của con nữa không, có còn là căn nguyên cho niềm hy vọng của con nữa không, có còn là niềm tín thác không hề lay chuyển của con nữa không?” Cùng với Thánh Phêrô, hôm nay chúng ta cũng hãy canh tân quyết định cuộc sống của chúng ta với tư cách là những người môn đệ và Tông Đồ. Chúng ta hãy tái vượt qua câu hỏi thứ nhất để sang câu hỏi thứ hai và để trở nên “những người của Ngài” không chỉ với những lời nói nhưng với hành động và trong cuộc sống.
Chúng ta hãy tự hỏi, liệu có phải chúng ta đang là những Kitô hữu phòng khách không, tức những kẻ ngồi đó để tranh luận xem mọi sự đang diễn ra thế nào trong Giáo hội, hay chúng ta chính là những người Tông Đồ trên đường, tức những người tuyên xưng Chúa Kitô bằng cuộc sống, vì họ có Ngài trong con tim? Ai tuyên xưng Chúa Giêsu, người ấy biết rằng, mình sẽ không chỉ chú trọng tới việc đề xuất những ý tưởng, nhưng chú trọng tới việc trao hiến cuộc sống. Người ấy biết rằng, mình không thể tin theo cách thức bàng quan, nhưng là được kêu gọi để “bừng cháy lên” vì Tình Yêu. Người ấy biết rằng, trong cuộc sống, mình không thể “trôi nổi” trên sự sung túc, và không thể tự kiềm chế việc đó. Đúng hơn, người ấy phải dám mạo hiểm để ra khơi giữa đại dương, bằng cách là người ấy tái trao hiến bản thân mình mỗi ngày. Ai tuyên xưng Chúa Giêsu, người ấy cũng sẽ thực hiện điều đó giống như Thánh Phêrô và Phaolô: người ấy sẽ đi theo Ngài đến cùng; không chỉ theo đến một điểm nhất định, nhưng đi đến cùng; Người ấy bước theo Chúa trên con đường của Ngài, chứ không phải trên những con đường của chúng ta. Con đường của Ngài là con đường của sự sống mới, của niềm vui, và của sự phục sinh, nhưng con đường ấy cũng ngang qua Thập Giá và những cuộc bách hại.
Như vậy, chúng ta đang ở bên cụm từ thứ hai: những cuộc bách hại. Không chỉ có Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đã đổ máu mình ra vì Chúa Kitô, nhưng toàn thể cộng đoàn nguyên thủy đều đã bị bách hại, như sách Tông Đồ Công Vụ đã tường thuật cho chúng ta (xc. Cv 12,1). Ngày hôm nay, tại nhiều khu vực khác nhau trên khắp thế giới, đôi khi trong một bầu khí thinh lặng – và không hiếm khi đó là một sự thinh lặng đồng lõa, rất nhiều Kitô hữu cũng đang bị đẩy ra bên lề, đang bị vu khống, đang bị kỳ thị, và đang phải đối diện với những hành vi bạo lực đôi lúc dẫn tới sự chết chóc. Không hiếm sự thiếu cố gắng của những người mà họ có thể bận tâm tới chuyện làm sao để những quyền lợi chính đáng của những Kitô hữu ấy được tôn trọng.
Nhưng Cha muốn nhấn mạnh một cách đặc biệt tới điều mà Thánh Phaolô đã diễn tả, trước khi Ngài “đổ máu ra làm lễ tế” như Ngài viết (2Tm 4,6). Đối với Ngài, Chúa Kitô chính là sự sống (xc. Phl 1,21), và thực ra, với tư cách là Đấng Chịu Đóng Đinh (xc. 1Cor 2,2), Đấng đã trao hiến chính bản thân mình cho Thánh Nhân (xc. Gal 2,20). Vì thế, Thánh Phaolô đã chịu cảnh bị bách hại với tư cách là người môn đệ trung tín của vị Tôn Sư, và rồi chính Ngài cũng trao hiến mạng sống của mình. Sẽ không có Chúa Kitô nếu không có Thập Giá, và nếu không có Thập Giá thì cũng không có các Kitô hữu. Vì đức hạnh riêng của Kitô giáo là: “không chỉ làm điều thiện, nhưng cũng còn gánh chịu sự ác nữa” (Thánh Augustinô, Sermo 46,13), như nơi Chúa Giêsu. Việc gánh chịu sự ác không chỉ có nghĩa là có lòng kiên nhẫn và tiếp tục thực hiện với sự cam chịu; gánh chịu có nghĩa là theo gương Chúa Giêsu, có nghĩa là gánh mang gánh nặng, mang nó trên đôi vai cho Ngài và cho những người khác. Nó có nghĩa là đón nhận Thập Giá và tiếp tục bước đi với trọn niềm tín thác, vì chúng ta không bao giờ cô đơn, Đấng Chịu Đóng Đinh nhưng đã phục sinh đang ở cùng chúng ta. Như thế, cùng với Thánh Phaolô, chúng ta có thể nói: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cor 4,8-9).
Gánh chịu có nghĩa là có thể chiến thắng cùng với Chúa Giêsu, thực ra là trong cách thức của Chúa Giêsu chứ không phải là trong cách thức của thế gian. Vì thế, Thánh Phaolô đã thấy mình là người chiến thắng – chúng ta đã nghe điều đó -, người lãnh nhận vòng hoa (xc. 2Tm 4,8). Ngài viết: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, đã chạy hết chặng đường, và đã giữ vững niềm trung tín” (2Tm 4,7). Cuộc chiến chính nghĩa của Ngài chỉ được nhắm tới một cuộc sống không phải cho chính mình, nhưng là sống cho Chúa Giêsu và cho những người khác. Ngài đã sống “trong cuộc chạy đua”: Ngài không giữ gìn sức khỏe cho mình, nhưng đúng hơn, Ngài đã từ bỏ chính mình. Điều mà Ngài bảo toàn, như Ngài nói, không phải là sức khỏe, nhưng là Đức Tin, tức niềm tuyên xưng vào Chúa Kitô. Vì Tình Yêu đối với Chúa Kitô, Ngài đã trải qua những cơn thử thách, những trận sỉ nhục và những nỗi khổ đau, không hề tìm kiếm chúng, nhưng đón nhận chúng. Và do đó, trong mầu nhiệm đau khổ được chấp nhận vì Tình Yêu, trong mầu nhiệm ấy, tức mầu nhiệm mà ngay cả trong thời đại hôm nay, rất nhiều người anh chị em bị bách hại, nghèo túng và bệnh tật cũng đang thể hiện, sức mạnh có khả năng cứu độ của Thập Giá Chúa Kitô đang bừng sáng lên.
Từ ngữ thứ ba chính là lời cầu nguyện. Đời sống Tông Đồ, tức đời sống phát sinh từ niềm tuyên xưng và kết thúc trong sự trao hiến, tiếp tục trào tuôn mỗi ngày trong lời cầu nguyện. Cầu nguyện chính là nước thiết yếu, nó nuôi dưỡng niềm hy vọng và làm cho niềm tín thác được lớn lên. Cầu nguyện trao cho chúng ta một kinh nghiệm rằng, chúng ta được yêu thương, và cho phép chúng ta yêu thương. Nó làm cho chúng ta tiếp tục bước đi ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối, vì nó thắp lên ngọn đèn của Thiên Chúa. Trong Giáo hội, cầu nguyện chính là điều gánh mang tất cả chúng ta và làm cho những cơn thử thách bị chế ngự. Chúng ta đã thấy điều đó trong Bài Đọc I rồi: “Đang khi ông Phêrô bị giam giữ trong ngục, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Một Giáo hội cầu nguyện, sẽ được Thiên Chúa bảo vệ, và sẽ tiến về phía trước trong sự đồng hành của Ngài. Cầu nguyện có nghĩa là trao phó con đường cho Ngài để Ngài lưu tâm đến nó. Cầu nguyện chính là sức mạnh hiệp nhất và đỡ nâng chúng ta; nó là phương dược chữa trị tình trạng tách biệt và sự tự thỏa mãn mà chúng dẫn tới cái chết tinh thần. Vì nếu người ta không cầu nguyện, thì Thần Khí sự sống sẽ không thổi, nếu không cầu nguyện thì những ngục tối nội tâm mà chúng ta đang bị giam trong đó, sẽ không mở ra.
Ước chi hai Thánh Tông Đồ sẽ giúp chúng ta nhận lãnh được một con tim giống như con tim của các Ngài, tức con tim được in dấu ấn bởi sự nỗ lực, và bởi sự bình an của đời sống cầu nguyện: bởi sự nỗ lực của nó, vì nó xin, nó gõ, và dấn thân để cầu thay nguyện giúp cũng như gánh mang gánh nặng bởi sự gây phiền hà của rất nhiều người và của nhiều trạng huống; nhưng đồng thời, bởi sự bình an của nó, vì Chúa Thánh Thần sẽ ban tặng niềm an ủi và sức mạnh khi người ta cầu nguyện. Giáo hội cần tới những bậc thầy về đời sống cầu nguyện biết chừng nào, nhưng còn cần một cách đặc biệt hơn tới những người nam và những người nữ cầu nguyện, tức những người đang thực sự sống trong cầu nguyện!
Thiên Chúa sẽ can thiệp nếu chúng ta cầu nguyện; Ngài sẽ chứng tỏ niềm trung tín của Ngài với Tình Yêu mà chúng ta tuyên xưng Ngài như thế, và Ngài sẽ ở gần chúng ta trong những cơn thử thách. Ngài đã đồng hành trên con đường của các Tông Đồ, và Ngài cũng sẽ đồng hành với quý hiền đệ, hỡi các Hồng Y thân mến, quý hiền đệ được quy tụ lại đây trong Tình Yêu của các Tông Đồ, những Đấng đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng máu. Ngài cũng sẽ ở gần bên quý hiền đệ, hỡi các Tổng Giám Mục thân yêu; nhờ vào việc trao dây Pallium, quý hiền đệ sẽ được khích lệ, để sống cho đoàn chiên, và ở đây, theo gương vị Mục Tử Tốt Lành, Đấng bảo vệ quý hiền đệ, vì Ngài mang quý hiền đệ trên đôi vai của Ngài. Cầu xin Thiên Chúa, Đấng khát khao mong mỏi được nhìn thấy đàn chiên của Ngài được hoàn toàn hiệp nhất, chúc lành và bảo vệ phái đoàn của Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Đại Kết, cũng như chúc lành và bảo vệ hiền huynh khả ái – Đức Thượng Phụ Batholomeô -, người đã gửi phái đoàn trên tới đây như là dấu chỉ của sự hiệp thông Tông Đồ.
Nguồn: daminhtamhiep.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29/6/2016) - Chúng ta có mở ra hay không?
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay hàm chứa một cặp từ mang tính trung tâm: đóng/mở. Với hình ảnh này chúng ta cũng có thể suy ra tính biểu tượng của chiếc chìa khóa mà Chúa Giêsu đã cam đoan với Simon Phêrô, để ông có thể mở ra con đường đi vào Nước Trời, và đồng thời không đóng lại trước con người như một số Luật Sĩ và những người Pharisiêu gả hình, đã bị Chúa Giêsu trách cứ (xc. Mt 23,13).
Bài trích sách Công Vụ Tông Đồ (12,1-11) chỉ cho chúng ta thấy ba tình trạng đóng kín: tình trạng của Phêrô trong ngục; tình trạng của cộng đoàn đang được củng cố trong cầu nguyện, và – trực tiếp ngay sau đoạn văn của chúng ta – tình trạng ngôi nhà của bà Maria, thân mẫu của Gioan Máccô, nơi Phêrô đến gõ cửa sau khi ông được giải thoát.
Trong mối liên hệ đến sự đóng kín, sự cầu nguyện đã xuất hiện như là lối ra chính: một lối ra cho cộng đoàn đang có nguy cơ nhốt kín mình lại trong chính mình vì cuộc bách hại và vì sự sợ hãi; một lối ra cho Phêrô, người bị Hêrôđê tống ngục cũng như bị kết án tử hình ngay lúc khởi đầu sứ mạng mà Chúa Kitô đã ủy thác cho ông. “Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, Hội Thánh đã không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Và Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện bằng cách là sai Thiên thần đến để giải thoát Phêrô, và “cứu ông thoát khỏi tay vua Hêrôđê” (Cv 12,11). Lời cầu nguyện với tư cách là sự tín thác đầy khiêm nhượng vào Thiên Chúa và vào Thánh Ý của Ngài luôn luôn là con đường dẫn người ta bước ra khỏi những tình huống khép kín cả của cá nhân lẫn của cộng đoàn chúng ta. Đó là con đường lớn rộng giúp bước ra khỏi tình trạng nhốt kín.
Trong bức thư của Ngài gửi cho Timôtê, Thánh Phaolô cũng nói về kinh nghiệm được giải phóng của mình, kinh nghiệm về việc thoát được nguy cơ bị kết án tử hình. Nhưng Thiên Chúa vẫn luôn ở bên Thánh Nhân, và đã ban sức mạnh cho Thánh Nhân, để Thánh Nhân có thể hoàn thành công trình loan báo Tin Mừng của Ngài, tức công trình công bố Tin Mừng cho dân ngoại (xc. 2Tm 4,17). Nhưng Thánh Phaolô cũng đã nói về “một sự mở ra” lớn hơn rất nhiều cho một chân trời rộng mở không cùng: chân trời của cuộc sống vĩnh cữu mà nó đang chờ đợi Ngài, sau khi Ngài hoàn thành “cuộc hành trình” dương thế. Thật là tuyệt vời nếu hoàn toàn nhìn xem cuộc sống của Thánh Tông Đồ “trong sự lên đường”, nhờ vào Tin Mừng: điều đó hướng hoàn toàn về tương lai, trước tiên là mang Chúa Kitô đến cho những người chưa nhận biết Ngài, và sau đó, có thể nói được rằng, đặt mình vào trong đôi tay của Ngài, và đề cho mình “được cứu độ bởi Ngài, cũng như để cho mình được Ngài dẫn vào trong vương quốc trên trời của Ngài” (2Tm 4,18).
Giờ đây chúng ta hãy trở lại với Thánh Phêrô. Trình thuật Tin Mừng (Mt 16,13-19) về cuộc tuyên xưng Đức Tin của Ngài và về sứ mạng ngay sau đó mà Ngài đã được Chúa Giêsu ủy thác cho, chỉ cho chúng ta thấy rằng, cuộc sống của Simon, của viên ngư phủ thành Galilêa – giống như cuộc sống của từng người một trong chúng ta – sẽ mở ra và đơm bông kết trái hoàn toàn, khi nó đón nhận hồng ân Đức Tin từ Thiên Chúa Cha. Giờ đây Simon đã lên đường – một con đường dài và gian khó –, con đường đó sẽ dẫn ông tới chỗ đi ra khỏi chính mình, đi ra khỏi những an toàn chắc chắn về mặt nhân loại của ông, trước tiên là đi ra khỏi sự kênh kiệu pha lẫn với sự can đảm và tinh thần hào hiệp quảng đại của ông. Trên con đường giải phóng của ông, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu có tính quyết định: “Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Và đồng thời cái nhìn được chất đầy niềm cảm thông của Chúa Giêsu sau khi Phêrô đã phản bội Ngài tới ba lần, cũng có tính quyết định. Đó là cái nhìn mà nó đã đụng chạm tới con tim cũng như đã làm cho những giọt lệ thống hối được tuôn rơi (xc. Lc 22,61-62). Trong khoảnh khắc Phêrô được giải thoát khỏi nhà tù thuộc về cái tôi kênh kiệu của ông, cũng như được giải thoát khỏi nhà tù thuộc về cái tôi sợ hãi của ông, và vượt thắng cơn cám dỗ muốn chối bỏ lời kêu gọi của Chúa Giêsu khi Ngài mời ông hãy đi theo Ngài trên con đường Thập Giá.
Như Cha đã nói lúc đầu, trực tiếp ngay sau đoạn sách Tông Đồ Công Vụ mà chúng ta vừa nghe, có một chi tiết mà khi lưu ý tới nó, sẽ là điều rất có ích đối với chúng ta (xc. Cv 12,12-17). Khi Phêrô ở trong tình trạng được giải thoát một cách nhiệm mầu, và ở bên ngoài nhà ngục của Hêrôđê, ông đã đi thẳng tới nhà mẹ của Gioan Máccô. Ông đã gõ cửa, và một cô tớ gái tên là Rhode đã trả lời ông từ bên trong. Cô đã nhận ra giọng nói của ông, nhưng thay vì mở cửa, cô lại chạy đi – không thể tin nổi và đồng thời tràn ngập niềm vui – để báo cho bà chủ của mình biết tin đó. Câu chuyện đã có một sự hài hước nào đó. Nó có thể là sự khởi đầu cho một sự lo sợ được gọi là “nỗi sợ của Rhode”. Nó cho phép chúng ta nhận ra được bầu khí sợ hãi mà cộng đoàn Kitô hữu đang ở trong đó: Cộng đoàn ấy vẫn đang tự nhốt mình lại trong căn nhà, cũng như khép kín đối với những điều gây bất ngờ của Thiên Chúa. Phêrô đã gõ cửa. “Nhìn kìa!” Niềm vui bất thần xuất hiện, nhưng nỗi sợ hãi cũng ở đó. “Chúng ta có mở ra hay không?” Phêrô đang ở trong sự nguy hiểm, vì cảnh sát có thể tóm cổ ông. Nhưng nỗi sợ hãi làm cho chúng ta trở nên tê liệt và bất động, nó luôn luôn ngăn cản chúng ta. Chúng ta tự nhốt mình lại. Chúng ta khép kín trước những điều bất ngờ của Thiên Chúa. Chi tiết này nói với chúng ta một cái gì đó về cơn cám dỗ mà nó luôn hiện hữu đối với Giáo hội: tự nhốt mình lại trong chính mình khi chứng kiến những điều nguy hiểm. Nhưng ở đây cũng có khe hở, mà xuyên qua đó, hành động của Thiên Chúa có thể thâm nhập: Thánh Luca tường thuật rằng, trong căn nhà ấy “có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện” (Cv 12,12). Lời cầu nguyện cho phép người ta đón nhận được ân sủng để mở ra một lối thoát: thoát ra khỏi sự tự nhốt kín để bước vào trong sự rộng mở; thoát ra khỏi nỗi sợ hãi để đi đến với sự can đảm; thoát ra khỏi nỗi sầu buồn để tiến đến với niềm vui. Và chúng ta có thể bổ sung: thoát ra khỏi sự chia rẽ để bước vào trong sự hiệp nhất. Vâng, ngày hôm nay, chúng ta hãy nói điều đó trong niềm tin tưởng hoàn toàn cùng với những người anh em của chúng ta thuộc phái đoàn mà Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Đại Kết Bartholomeus rất đáng kính đã gửi tới để tham dự Đại Lễ kính hai Thánh Bổn Mạng của thành phố Rôma. Đó là một Đại Lễ của sự hiệp thông đối với toàn thể Giáo hội. Đại Lễ này cũng làm cho sự hiện diện của các Đức Tổng Giám Mục trở nên rõ rệt. Các Ngài đã đến để làm phép cho những dây Palium, mà chúng sẽ được trao cho các Ngài bởi những vị đại diện của tôi tại những Tổng Giáo Phận của các Ngài.
Ước gì hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta có thể vui mừng bước đi trên con đường này, và có thể có được kinh nghiệm về hành động giải thoát của Thiên Chúa, cũng như có thể làm chứng cho tất cả về hành động đó.
Nguồn: daminhtamhiep.net


Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (29.06.2011): Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu
Anh chị em thân mến,
“Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (x. Ga 15,15).
Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày tôi được thụ phong linh mục, một lần nữa tôi lại nghe thấy từ sâu thẳm lòng mình những lời Chúa Giêsu nói cùng anh em tân linh mục chúng tôi vào cuối buổi lễ truyền chức do Đức hồng y Tổng giám mục Faulhaber chủ sự, qua giọng nói hơi yếu ớt nhưng quả quyết của ngài. Theo cử hành phụng vụ thời ấy, Đức giám mục đọc lời ban năng quyền giải tội cho các tân chức: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: ngay lúc bấy giờ tôi đã hiểu rõ những lời này không chỉ là nghi thức, không đơn giản chỉ là nhắc lại một câu Sách Thánh. Tôi biết, vào đúng lúc ấy, chính Chúa đã nói với tôi một cách rất riêng tư. Trong bí tích Rửa Tội và bí tích Thêm Sức, Người đã đưa chúng ta lại kề bên Người, Người đã đón nhận chúng ta vào gia đình của Thiên Chúa. Nhưng điều đang diễn ra lúc này lại còn lớn lao hơn nữa. Chúa gọi tôi là bạn của Người. Chúa đón nhận tôi vào nhóm những người Chúa đã đặc biệt hiểu rõ, do đó cũng được nhận biết Chúa một cách rất đặc biệt. Chúa ban cho tôi một khả năng đáng sợ là thực thi điều mà chỉ một mình Người, Con của Thiên Chúa, mới có thể nói và làm một cách chính đáng: Ta tha tội cho con. Chúa muốn tôi – bằng quyền năng của Người – có thể nhân danh Chúa mà nói, (“Tôi” tha tội), đó không chỉ là lời nói, mà còn là một hành động, đang làm biến đổi thực tại ở mức sâu xa nhất, tôi biết đàng sau những lời đó là cả cuộc khổ nạn Chúa đã chịu cho chúng ta và vì chúng ta. Tôi biết cái giá của tha thứ: khi chịu khổ nạn, Chúa đã đi xuống tận vực sâu tăm tối gớm ghiếc các tội lỗi của chúng ta. Người phải đi vào bóng đêm của tội lỗi chúng ta, chỉ nhờ thế mà tình trạng tăm tối ấy mới được biến đổi. Và bằng cách ban cho tôi quyền tha tội, Chúa để cho tôi nhìn xuống vực thẳm của con người, nhìn vào nỗi đau đớn vô hạn Chúa phải chịu vì loài người chúng ta, và điều này khiến cho tôi nhận ra tình yêu vô hạn của Người. Người tin cậy tôi: “Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”. Người uỷ thác cho tôi những lời truyền phép trong bí tích Thánh Thể. Người uỷ nhiệm tôi công bố lời Người, giải thích đúng lời Người và mang lời ấy đến cho mọi người hôm nay. Người ký thác chính bản thân Người cho tôi. “Các con không còn là tôi tớ, nhưng là bạn hữu”: Những lời này mang lại niềm vui nội tâm lớn lao, nhưng đồng thời, cũng đáng kinh sợ đến nỗi ta có thể cảm thấy sợ hãi khi đã trải qua mấy chục năm cảm nhận được sự yếu đuối của con người chúng ta và lòng nhân hậu vô biên của Chúa.
“Không còn là tôi tớ nữa, nhưng là bạn hữu”: lời này tự thân chứa đựng trọn cả một chương trình cho một đời linh mục. Tình bạn là gì? Idem velle, idem nolle – muốn những điều giống nhau, ghét những điều giống nhau: đó là cách diễn tả tình bạn thời cổ xưa. Tình bạn là một sự hiệp thông trong tư duy và trong ý muốn. Chúa cũng nói chính điều đó cho chúng ta cách rõ ràng hơn hết: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Vị Mục Tử gọi tên từng con chiên của mình (x. Ga 10,3). Người biết tên tôi. Tôi không phải là một hiện hữu vô danh trong vũ trụ vô cùng. Người đích thân biết tôi. Tôi có biết Người không? Tình bạn mà Người đoái ban cho tôi chỉ có thể có nghĩa rằng chính tôi cũng ra sức hiểu biết Người nhiều hơn; rằng trong Kinh Thánh, trong các Bí Tích, trong kinh nguyện, trong sự hiệp thông với các thánh, trong những ai đến với tôi, do Chúa gửi đến, tôi ra sức ngày một nhận biết Người hơn nữa. Tình bạn không chỉ là biết về một con người, nhưng trên hết, là sự thông hiệp của ý chí. Nghĩa là ý muốn của tôi càng ngày càng tương hợp với thánh ý Chúa. Vì thánh ý Chúa không phải điều gì ở bên ngoài và xa lạ với tôi, điều mà hầu như tôi muốn phục tùng hay từ khước cũng được. Không, trong tình bạn, ý muốn của tôi nên một với thánh ý Chúa, và thánh ý Chúa trở nên ý muốn của tôi: đây chính là cách tôi thực sự trở nên chính mình. Vượt lên và trên cả sự thông hiệp tư duy và ý muốn, Chúa còn nhắc đến yếu tố thông hiệp thứ ba: Chúa hiến mạng sống mình cho chúng ta (x. Ga 15, 13; 10, 15). Lạy Chúa, xin giúp con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin giúp con nên một với thánh ý Chúa ngày một hơn. Xin hãy giúp con sống cuộc đời con không phải cho bản thân con, nhưng trong sự hiệp nhất với Chúa để sống cuộc đời con cho tha nhân. Xin hãy giúp con trở nên bạn của Chúa ngày một hơn.
Lời của Chúa Giêsu về tình bằng hữu cần phải được nhìn trong bối cảnh của diễn từ về cây nho. Chúa liên kết hình ảnh cây nho với nhiệm vụ được trao cho các môn đệ: “Thầy cắt cử anh em để anh em ra đi sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16). Nhiệm vụ đầu tiên cho các môn đệ – cho bạn hữu Người – là ra đi, bước ra khỏi bản thân và đi tới tha nhân. Ở đây chúng ta nghe vang vọng những lời của Chúa Phục sinh nói với các môn đệ ở cuối Tin Mừng theo Thánh Matthêô: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x. Mt 28,19tt). Chúa đòi chúng ta ra khỏi lằn ranh thế giới của riêng mình và đem Tin Mừng đến cho tha nhân, để cho Tin Mừng được loan đi khắp nơi và từ đây thế giới được mở ra cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta được nhắc bảo rằng Thiên Chúa còn bước ra khỏi địa vị của Người, gạt bỏ vinh quang của mình để đi tìm chúng ta, mang lại cho chúng ta ánh sáng và tình yêu của Người. Chúng ta muốn theo bước Thiên Chúa là Đấng đi theo đường lối này, chúng ta muốn rời bỏ sức ì của thói lấy mình làm trung tâm, để Chúa có thể bước vào thế giới chúng ta.
Sau lệnh truyền lên đường, Chúa Giêsu nói tiếp: sinh hoa trái thì hoa trái còn tồn tại. Chúa mong đợi hoa trái nào nơi chúng ta? Hoa trái tồn tại là hoa trái nào? Giờ đây, hoa trái của cây nho là quả nho và chính từ quả nho mà rượu nho được làm ra. Chúng ta cùng suy nghĩ một chút về hình ảnh này. Để trái nho được chín tốt, cần có nắng, nhưng cũng cần có mưa nữa, cả ngày lẫn đêm. Để cho nho quý thành rượu, các quả nho cần phải được ép, cần phải kiên nhẫn chờ nước nho ép lên men, cần có sự chăm sóc cẩn thận để giúp cho quy trình hóa rượu. Rượu nho quý được đánh giá không chỉ bởi độ ngọt, nhưng còn bởi những vị phong phú và tinh tế, hương thơm đa dạng sinh ra trong quá trình chín muồi và lên men. Đó chẳng phải là hình ảnh của nhân sinh, và đặc biệt là của đời sống linh mục chúng ta sao? Chúng ta cần cả nắng lẫn mưa, cả lúc hân hoan cũng như khi gặp nghịch cảnh, cả khi chịu thanh luyện và thử thách cũng như lúc vui mừng được đồng hành với Tin Mừng. Khi suy nghĩ lại, chúng ta có thể tạ ơn Chúa về cả hai đàng: về những thử thách và những niềm vui, về những lúc u tối và những ngày tươi sáng. Cả hai đàng, chúng ta đều có thể nhận biết được sự hiện diện bền vững của tình yêu Thiên Chúa không ngừng nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Tuy nhiên bây giờ chúng ta phải đặt câu hỏi: Chúa mong chờ thứ hoa trái nào nơi chúng ta? Rượu nho là hình ảnh của tình yêu: đó là hoa trái đích thực và tồn tại, thứ hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta. Nhưng đừng quên trong Cựu Ước, thứ rượu nho được mong chờ từ trái nho quý, hơn tất cả, là hình ảnh về sự công chính, phát xuất từ một đời sống tuân giữ luật Chúa. Đó là điều không được bãi bỏ vì cho rằng nhãn quan Cựu ước đã lỗi thời – không, điều này vẫn còn đúng. Nội dung đích thực và gồm tóm mọi Lề luật vẫn là lòng mến Chúa và yêu thương tha nhân. Nhưng tình yêu song đôi này không chỉ là ngọt ngào, mà còn mang trong mình của cải quý giá là lòng kiên nhẫn, sự khiêm hạ và được lớn lên khi biết bỏ ý riêng mình mà sống theo thánh ý Thiên Chúa, theo ý của Đức Giêsu, người bạn của chúng ta mong muốn. Chỉ bằng cung cách này, khi toàn thể con người chúng ta mang lấy những phẩm tính của sự thật và sự chính trực, thì tình yêu mới trở nên chân thực, chỉ khi đó mới là trái chín. Trung thành với Đức Kitô và Hội Thánh của Người là đòi hỏi nội tại phải thực thi và điều đó luôn bao gồm đau khổ. Đây chính là cách mà niềm vui đích thực được lớn lên. Ở mức độ sâu xa, bản chất của tình yêu, của hoa trái đích thực, tương hợp với ý niệm lên đường, tiến bước: nghĩa là quên mình, tự hiến, nơi bản thân điều đó đã mang dấu chỉ thập giá. Về điểm này, Đức Grêgôriô Cả đã từng nói: nếu bạn đang gắng sức đến với Chúa, hãy cẩn thận đừng đến với Người duy một mình bạn mà thôi – một câu châm ngôn mà linh mục chúng ta cần ghi nhớ mỗi ngày (H Ev 1:6:6 PL 76, 1097tt).
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã dừng lại quá lâu với những suy niệm nội tâm của mình về sáu mươi năm thừa tác vụ linh mục. Bây giờ đến lúc chúng ta lưu tâm đến phận sự đặc biệt phải thực hiện ngày nay.
Trong ngày lễ mừng hai Thánh Phêrô và Phaolô, lời cầu chúc thân ái nhất của tôi trước tiên xin dành cho Đức Thượng phụ Bartholomaios I và Phái đoàn ngài đã cử đến, là những người tôi muốn bày tỏ lời cám ơn chân thành về chuyến viếng thăm được hoan nghênh nhất của các ngài nhân dịp phúc lộc này là lễ các Thánh Tông đồ Bổn mạng của Rôma. Tôi cũng xin chúc mừng quý Đức Hồng y, Giám mục hiền đệ của tôi, quý vị đại sứ và quý giới chức dân sự, cũng như quý linh mục và quý linh mục đồng khóa, quý tu sĩ và giáo dân. Tôi xin cám ơn tất cả quý vị về sự hiện diện của quý vị và những kinh nguyện của quý vị.
Quý Đức Tổng giám mục trưởng giáo tỉnh được bổ nhiệm kể từ lễ kính hai Thánh Tông Đồ năm ngoái, bây giờ sẽ nhận lãnh dây Pallium. Điều này có ý nghĩa gì? Trước hết có ý nhắc nhở chúng ta về ách êm ái Chúa Giêsu trao cho chúng ta (x. Mt 11, 29tt). Ách của Chúa Giêsu cũng chính là tình bạn của Người. Đó là ách của tình bạn và do đó là “ách ngọt ngào”, nhưng như thế cũng chính là ách đòi phải nỗ lực, cái ách tôi luyện con người chúng ta. Cái ách của thánh ý Chúa, vốn là ý muốn của chân lý và tình yêu. Đối với chúng ta, trước hết và trên hết, đó là ách dẫn đưa người khác tới tình bạn hữu với Đức Kitô và sẵn sàng phục vụ tha nhân, chăm sóc họ như những mục tử. Dây Pallium còn gợi cho chúng ta ý nghĩa: dây được dệt bằng len của những con chiên được ban phép lành vào ngày lễ kính Thánh Anê. Như vậy dây Pallium nhắc nhở chúng ta về một Đấng Mục tử, vì yêu chúng ta, đã tự mình trở thành một Chiên Con. Dây Pallium nhắc nhở chúng ta về Đức Kitô, Đấng đã lên đường băng qua núi non và hoang mạc, nơi có con chiên là nhân loại bị lạc lối. Dây Pallium còn nhắc chúng ta về Đấng đã vác chiên con – nhân loại – tôi - lên vai của mình, để mang tôi về nhà. Như vậy dây Pallium nhắc nhở, cả chúng ta nữa, là những mục tử đang đảm nhận sứ vụ của Chúa, cũng phải mang tha nhân theo với chúng ta, vác họ trên vai và đưa về cho Chúa Kitô. Dây Pallium nhắc chúng ta rằng chúng ta được gọi làm mục tử coi sóc bày chiên của Chúa, bày chiên vốn luôn mãi là của Chúa chứ không trở thành bày chiên của chúng ta. Sau cùng, Pallium cũng có nghĩa một cách cụ thể là sự thông hiệp của các mục tử trong Hội Thánh với Phêrô và với các vị kế tục ngài – có nghĩa là chúng ta phải là những mục tử cho sự hiệp nhất và trong sự hiệp nhất, và chỉ trong sự hiệp nhất do Phêrô đại diện mà chúng ta thực sự dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô.
Các bạn thân mến, có lẽ tôi đã nói quá dài về sáu mươi năm sứ vụ linh mục. Nhưng vào lúc này tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nhìn lại những gì đã ghi dấu ấn trong sáu thập niên vừa qua. Tôi cảm thấy được nhắc bảo phải nói với anh em, với tất cả các linh mục, giám mục và với các giáo hữu của Hội Thánh, lời của hy vọng và khích lệ; lời đã chín muồi trong trải nghiệm lâu dài nhận biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành nhường nào. Tuy nhiên, trên hết mọi sự, đây là thời gian để cảm tạ tri ân: cảm tạ Chúa vì tình bằng hữu Người đã ban cho tôi và Người mong ước ban cho tất cả chúng ta. Cảm tạ tất cả những ai đã huấn luyện và đồng hành với tôi. Và tất cả những điều đó được gồm tóm trong lời nguyện xin một ngày kia Chúa sẽ đón nhận chúng ta trong sự thiện hảo của Người và mời chúng ta chiêm ngưỡng niềm vui của Người. Amen.
WHĐ (05.07.2011)

Nguồn: hdgmvietnam.com