Các nhà truyền giáo trong thế giới kỹ thuật số: Suy tư về hiệp hành trong thời đại kết nối

28/09/2025
159
Header


CÁC NHÀ TRUYỀN GIÁO TRONG THẾ GIỚI KỸ THUẬT SỐ: SUY TƯ VỀ HIỆP HÀNH TRONG THỜI ĐẠI KẾT NỐI

WHĐ (28/9/2025) – Bài viết đào sâu hơn nữa các suy tư và khai mở những vấn đề còn bỏ ngỏ, như đã được trình bày trong các văn kiện gần đây nhất của tiến trình Thượng Hội đồng, vốn đã nêu bật một cách rõ ràng và mạch lạc những giới hạn cũng như những tiềm năng của “sứ mạng truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số.”

Dẫn nhập

Văn hóa kỹ thuật số và Giáo hội hiệp hành

Thách đố của “truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số”

“Người bản địa kỹ thuật số” và “Hiện đại hóa truyền thông”

Sứ mạng truyền giáo hay “Ảnh hưởng Kỹ thuật số”?

Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số như một “phương dược cho căn bệnh kỹ thuật số”

Một vài đề nghị để tiếp tục hành trình

 Dẫn nhập

Ngay từ khi khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng, Đức Phanxicô đã kêu gọi Giáo hội bước vào “một cuộc hoán cải truyền giáo.” Điều này có nghĩa là ngài thúc giục cộng đoàn Giáo hội phải “ra khỏi vùng an toàn của mình và can đảm vươn đến mọi vùng ngoại biên đang cần ánh sáng của Tin Mừng”[1]. Vì thế, đứng trước chọn lựa giữa một Giáo hội bị thương tích khi dấn thân đi ra trên mọi nẻo đường và một Giáo hội khép kín, chỉ biết quy chiếu về chính mình, Đức Phanxicô không ngần ngại ưu ái chọn lựa khả thể thứ nhất. “Xa lộ kỹ thuật số là một trong những con đường ấy, con đường đầy rẫy những người bị thương, những người đang tìm kiếm ơn cứu độ hay niềm hy vọng”[2].

Ngày nay, trong những suy tư và tranh luận xoay quanh Thượng Hội đồng về hiệp hành, sứ mạng của Giáo hội trong môi trường kỹ thuật số lại càng trở nên thiết yếu hơn, trước thách đố phải “cùng nhau bước đi” trong sứ mạng, trong hiệp thông và trong sự tham gia. Chủ đề này xuất hiện ở nhiều thời điểm khác nhau trong tiến trình Thượng Hội đồng khởi sự từ năm 2021, trong các giai đoạn khác nhau, cũng như trong nhiều văn kiện được Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng soạn thảo.

Nổi bật trong các giai đoạn giáo phận và châu lục của tiến trình này là dự án thí điểm “Giáo hội lắng nghe bạn”[3], nhằm cổ võ việc suy tư về hiệp hành trên các mạng lưới và nền tảng kỹ thuật số lớn, với ý hướng tiếp cận được càng nhiều người càng tốt. Do tầm ảnh hưởng rộng rãi, dự án này đã được gọi là “Thượng Hội đồng Kỹ thuật số” trong các văn kiện kế tiếp. Khi kết thúc giai đoạn của Giáo hội hoàn vũ, Bản Báo cáo Tổng hợp (SR) của phiên họp thứ nhất Đại hội Thượng Hội đồng đã nhấn mạnh đến chủ đề “Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số”[4]Đây chính là nhan đề của một trong 20 chương thuộc bản tóm kết chính thức của Thượng Hội đồng về những cuộc thảo luận đã diễn ra cho đến nay. Lĩnh vực này cũng được dành riêng cho một trong 10 nhóm nghiên cứu mà Đức Thánh cha Phanxicô mong muốn thiết lập để chuẩn bị cho phiên họp thứ hai của Đại hội Thượng hội đồng, dự kiến diễn ra vào tháng 10 năm 2024. Chính Đức Giáo hoàng đã mô tả các nhóm này như những đơn vị bao quát “nhiều vấn đề thần học quan trọng, tất cả đều ít nhiều liên hệ đến việc canh tân hiệp hành của Giáo hội, và không thiếu những hệ quả về phương diện pháp lý cũng như mục vụ”[5].

Trong bối cảnh này, chúng tôi mong muốn đào sâu hơn nữa các suy tư và khai mở những vấn đề còn bỏ ngỏ, như đã được trình bày trong các văn kiện gần đây nhất của tiến trình Thượng Hội đồng, vốn đã nêu bật một cách rõ ràng và mạch lạc những giới hạn cũng như những tiềm năng của “sứ mạng truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số.” Các văn kiện này bao gồm Bản Báo cáo Tổng hợp và Đề cương Nhóm Nghiên cứu do Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng soạn thảo cho 10 nhóm trong giai đoạn giữa hai phiên họp của Đại hội Thượng Hội đồng. Với việc này, chúng tôi mong muốn đóng góp phần mình vào cuộc tranh luận, trong ánh sáng giấc mơ của Đức Giáo hoàng về một “lựa chọn truyền giáo, nghĩa là một sức thúc đẩy truyền giáo có khả năng biến đổi mọi sự,” để cho công cuộc mục vụ có thể được thực thi theo cách thức “ở mọi cấp độ đều bao hàm và cởi mở hơn” (EG 27).

 

Văn hóa kỹ thuật số và Giáo hội hiệp hành

Nhìn chung, Bản Báo cáo Tổng hợp trình bày “những yếu tố chính đã nảy sinh trong đối thoại, cầu nguyện và thảo luận” trong phiên họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm 2023. Văn kiện này nhấn mạnh thành quả của việc suy tư về “những dấu hiệu đặc trưng của một Hội thánh hiệp hành và về động lực của sự hiệp thông, sứ vụ và sự tham gia trong đó.” (SR, Dẫn nhập).

Một trong những dấu chỉ ấy – được trình bày trong phần ba của báo cáo, vốn tập trung vào thách đố “dệt nên các mối dây liên kết” và “xây dựng cộng đoàn,” đồng thời nêu bật những khía cạnh liên quan đến “sự trao đổi giữa các Giáo hội và đối thoại với thế giới” (sđd.) – chính là chủ đề “Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số”, tức nhan đề của Chương 17 trong văn kiện. Văn kiện này tái khẳng định sự đồng thuận nơi các nghị phụ Thượng Hội đồng rằng văn hóa kỹ thuật số là một “sự biến đổi nền tảng” trong những cảm thức và kinh nghiệm đương đại về chính bản thân, về tương quan với tha nhân và thế giới, cũng như về tương quan với Thiên Chúa.

Do đó, văn hóa kỹ thuật số “không phải chỉ là một lãnh vực truyền giáo riêng biệt, nhưng là một chiều kích thiết yếu trong chứng tá của Giáo hội giữa nền văn hóa đương đại,” và “chính vì vậy mà nó mang một ý nghĩa đặc thù trong một Giáo hội hiệp hành” (sđd.).

Như Đại hội Thượng Hội đồng khẳng định: “Chúng ta không thể loan báo Tin Mừng cho văn hóa kỹ thuật số nếu trước tiên không hiểu nó” (SR 17d). Để có thể cùng nhau bước đi, không chỉ như Giáo hội nhưng còn với toàn thể xã hội, cần phải lưu ý đến các tiến trình vĩ mô đương đại như truyền thông hóa (mediatization) và số hóa (digitization), vốn mang lại ý nghĩa mới không chỉ cho khái niệm xã hội (socius), mà còn cho các khái niệm thánh thiêng (sacer) và tôn giáo (religio).[6] Những tiến trình này thôi thúc cả cơ chế Giáo hội lẫn toàn thể tín hữu phải tái định hướng các thực hành tôn giáo của mình cho phù hợp với môi trường trực tuyến, kích hoạt những chuẩn mực truyền thông kỹ thuật số trong việc cảm nhận và diễn đạt niềm tin cũng như truyền thống của họ. Điều này, đến lượt nó, khơi dậy một sự “biến đổi mang tính truyền thông của đức tin” (mediamorphosis of faith).[7] Do đó, Giáo hội không thể tự hình dung mình chỉ như một “quan sát viên có tham dự” của những hiện tượng này, bởi lẽ Giáo hội cũng bị thấm nhập và chi phối bởi các dòng chảy xã hội kỹ thuật số đa dạng, vốn cũng mở ra những ý nghĩa mới liên quan đến chính ý niệm về hiệp thông, tham gia và sứ vụ – những chủ đề trung tâm trong các cuộc thảo luận Giáo hội hiện nay.

Bản Báo cáo Tổng hợp ghi nhận rằng tiến trình Thượng Hội đồng, bao gồm cả sáng kiến “Thượng Hội đồng Kỹ thuật số”, đã cho thấy “tiềm năng của môi trường kỹ thuật số khi được tiếp cận dưới chiều kích truyền giáo, cũng như sự sáng tạo và quảng đại của những ai dấn thân trong đó” (SR 17e). Theo bản tổng hợp, có rất nhiều sáng kiến trực tuyến liên quan đến Giáo hội mang giá trị và hữu ích, cung cấp việc dạy giáo lý và huấn luyện nhằm đào sâu đức tin.

Tuy nhiên, cũng có những thực hành kỹ thuật số khác đề cập đến các vấn đề liên quan đến đức tin một cách hời hợt, mang tính phe phái, thậm chí đầy hận thù. Văn bản chỉ ra rằng: “Với tư cách là một Hội thánh và những cá nhân truyền giáo kỹ thuật số, chúng ta có nhiệm vụ tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm sao cho sự hiện diện trực tuyến của chúng ta tạo thành một trải nghiệm lớn mạnh cho những người mà chúng ta giao tiếp” (SR 17g). Hơn nữa, xét đến những giới hạn và nguy cơ nơi các môi trường kỹ thuật số (như bắt nạt, thông tin sai lệch, khai thác tình dục và tình trạng nghiện ngập), “cần phải suy nghĩ cấp thiết về cách cộng đồng Kitô giáo có thể hỗ trợ các gia đình trong việc bảo đảm rằng không gian trực tuyến không chỉ an toàn mà còn tiếp thêm sinh lực về mặt thiêng liêng” (SR 17f; nhấn mạnh của chúng tôi).

Bản báo cáo cũng khẳng định rằng “Các sáng kiến tông đồ trực tuyến có tầm với và phạm vi vượt xa các ranh giới lãnh thổ được hiểu theo lối truyền thống” (SR 17h). Trước thực tế này, Thượng Hội đồng nhìn nhận rằng thách đố mang tính Giáo hội là làm thế nào để những sáng kiến ấy “có thể được quy định, và đâu là thẩm quyền Giáo hội có trách nhiệm giám sát.” Đây là một vấn đề nghiêm trọng, như sẽ được làm rõ ở phần sau. Vì thế, việc hiểu các thực hành kỹ thuật số chỉ theo nghĩa địa lý-không gian – như thể đó là một “lục địa” tách biệt, hay “ở ngoài kia” – là điều không hợp lý và còn gây phương hại cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thực tế, những thực hành và mạng lưới này vượt qua và, đơn giản là, bỏ qua mọi “ranh giới lãnh thổ” của Giáo hội, vốn được hiểu theo nghĩa truyền thống.

Trên nền tảng đó, Bản Báo cáo Tổng hợp đề nghị các Giáo hội bảo đảm việc nhìn nhận, đào tạo và đồng hành với các nhà truyền giáo kỹ thuật số đang hoạt động, đồng thời tạo điều kiện cho họ gặp gỡ lẫn nhau; ngoài ra, cũng cần thiết lập các mạng lưới cộng tác giữa những người có ảnh hưởng nói chung, không chỉ là người Công giáo, để có thể cùng nhau làm việc trên những vấn đề chung, chẳng hạn như thăng tiến phẩm giá con người, công lý và chăm sóc ngôi nhà chung.[8] Đề nghị mang tính huấn luyện này quả thực là cần thiết và ngày càng khẩn cấp, nhưng đồng thời như chúng ta sẽ thấy cũng đầy thách đố.

 

Thách đố của “truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số”

Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng đã công bố vào tháng 3 năm 2024 một bản đề cương công việc cho 10 nhóm nghiên cứu theo mong muốn của Đức Thánh cha Phanxicô, nhằm chuẩn bị cho phiên họp thứ hai của Đại hội Thượng Hội đồng. Những vấn đề then chốt liên quan đến đời sống và sứ mạng của Giáo hội trong viễn tượng hiệp hành bao gồm cả “truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số.” Dựa trên Chương 17 của Bản Báo cáo Tổng hợp, văn kiện này mời gọi nhóm nghiên cứu hãy “khảo sát những hệ quả ở bình diện thần học, thiêng liêng và giáo luật, đồng thời xác định những đòi hỏi ở bình diện cơ cấu, tổ chức và định chế để thực hiện sứ mạng kỹ thuật số.”[9] Như thế, văn kiện cũng nêu ra một số câu hỏi cụ thể, mà chúng tôi dự định bàn luận nhằm khơi dậy cuộc tranh luận, chứ không nhằm đưa ra những câu trả lời định sẵn.

Câu hỏi thứ nhất đặt ra là: “Một Giáo hội hiệp hành truyền giáo có thể học được gì từ việc dấn thân sâu hơn vào môi trường kỹ thuật số?” Chúng tôi tin rằng hiện tượng kỹ thuật số chính là một thách đố tích cực cho Giáo hội, vừa bởi vì nó thúc đẩy Giáo hội phải tái suy tư ngôn ngữ của mình để dễ dàng đối thoại với nền văn hóa đương đại, vừa bởi vì nó thúc bách Giáo hội phải mở ra đối thoại với những nhóm người đa dạng, với nhiều người mà Giáo hội có thể chưa quen thuộc trong việc tương tác. Do đó, ý niệm căn bản dường như chính là trở nên một Giáo hội hiện hữu trong (một xã hội trongmột mạng lưới, là một kinh nghiệm thiết yếu cho việc thực hành tính hiệp hành. Trong một mạng lưới, năng lực hành động được phân bổ cho mọi điểm, cho dù có một cực trung tâm: mọi người đều tương tác. Mạng lưới không bao giờ là một cái gì có sẵn và cố định, nhưng bao hàm một tiến trình kiến tạo liên tục (net-work), qua những mối tương quan giữa các thành phần khác nhau, vốn định hình nên nó. Ẩn dụ về cây nho và cành nho do Đức Giêsu trình bày (x. Ga 15) và ẩn dụ về thân thể và các chi thể do Thánh Phaolô sử dụng (x. Ep 4) cũng chỉ về căn tính mang tính mạng lưới này của Giáo hội, “được đặt nền trên sự hiệp thông và trên sự khác biệt. Là Kitô hữu, tất cả chúng ta đều nhận biết mình là chi thể của cùng một thân thể mà Đức Kitô là Đầu [và] cái nhìn bao quát mà chúng ta học được từ Đức Kitô dẫn chúng ta đến chỗ khám phá sự khác biệt theo một cách mới […]: để là chính mình, tôi cần có người khác.”[10]

Theo nghĩa này, các mạng lưới kỹ thuật số có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gia tăng hiệu quả cho các mạng lưới nhân loại. Đức Phanxicô cũng thừa nhận rằng “việc sử dụng mạng xã hội là phần bổ sung cho những cuộc gặp gỡ trực tiếp […] và vẫn là một nguồn lực cho sự hiệp thông.”[11] Không hề có sự nhị nguyên hay tách biệt giữa những kinh nghiệm sống này: “Sự đối lập giữa thực và ảo không mô tả một cách thích đáng thực tại và kinh nghiệm của tất cả chúng ta,” như Bản Báo cáo Tổng hợp 17a đã nêu. Vì thế, “Giáo hội trong thời đại các mạng xã hội được kêu gọi thực hiện sứ vụ này, với những hình thức thích hợp, nhưng đồng thời cũng hiểu chính mình (và chắc chắn không chỉ như thế) như một nơi của sự kết nối mang ý nghĩa đối với con người, có khả năng cung cấp nền tảng để xây dựng những mối tương quan hiệp thông trong một xã hội đầy phân mảnh.”[12]

Câu hỏi thứ hai từ Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng là: “Với những tiêu chuẩn nào, chúng ta có thể lượng giá nhiều kinh nghiệm đã diễn ra trong thời kỳ đại dịch, để từ đó xác định điều gì có thể trở thành ‘những lợi ích bền vững cho sứ mạng của Giáo hội trong môi trường kỹ thuật số’?”[13] Khi chúng ta nói về sứ mạng của Giáo hội, chúng ta không hề ám chỉ đến một điều gì đó có thể so sánh với những gì mà các cá nhân, nhóm hay các định chế khác nói chung thực hiện trong môi trường kỹ thuật số. Chúng ta, Giáo hội, không phải là một công ty, một thương hiệu thương mại, một đảng phái chính trị hay một tổ chức phi chính phủ. Giáo hội không chỉ là một thực thể bất kỳ trong lãnh vực truyền thông, và sứ mạng của Giáo hội cũng không thể so sánh với sứ mạng của bất cứ thể chế nào khác. Như Đức Phanxicô đã nói trong một thông điệp ngắn trên Twitter năm 2018: “Chúng ta, các Kitô hữu, không có một sản phẩm để bán, nhưng có một sự sống để thông truyền”[14] – chính sự sống mà chúng ta cảm nghiệm trong cộng đoàn, như những người con trai con gái của Thiên Chúa, là chi thể trong Thân Thể Đức Kitô. Do đó, các tiêu chuẩn để lượng giá sứ mạng truyền giáo của Giáo hội trong môi trường kỹ thuật số không thể là những tiêu chuẩn được sử dụng trong các lãnh vực kinh doanh, chính trị, quảng cáo, tiếp thị hay giải trí. Các chỉ số kỹ thuật số như độ tiếp cậnmức độ tương tácsố lần nhấp chuột và lượt xem có thể là những tiêu chuẩn rất quan trọng đối với bất kỳ thể chế xã hội nào khác, nhưng chúng lại ít có ý nghĩa đối với Giáo hội từ viễn tượng sứ mạng truyền giáo của Giáo hội. Đối với Giáo hội, con số không phải là yếu tố quyết định, bởi vì “toán học theo Thiên Chúa thì khác: Người nhân lên bằng cách chia sẻ!”[15] Đức Giêsu chưa bao giờ hỏi: “Có bao nhiêu người theo Con Người?” nhưng đúng hơn, Ngài hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?”

Vì thế, cần phải trở về với các sách Tin Mừng để tìm ra những tiêu chuẩn phù hợp với sứ mạng Kitô giáo. Như Sắc lệnh Công đồng Ad Gentes (AG) đã khẳng định: “Vì sứ mạng này vẫn tiếp diễn và trong dòng lịch sử triển khai chính sứ mạng của Đức Kitô, Đấng đã được sai đến để rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, […] nên Giáo hội, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, phải bước đi trên cùng một nẻo đường mà Đức Kitô đã đi, đó là con đường nghèo khó và vâng phục, phục vụ và tự hiến cho đến chết, và từ cái chết ấy Ngài đã chiến thắng nhờ cuộc Phục Sinh” (AG 5; nhấn mạnh của chúng tôi). Đây chính là những tiêu chuẩn then chốt. Hơn nữa, để nói về sứ mạng truyền giáo hôm nay, chúng ta cũng phải trở lại với Tông huấn Evangelii Gaudium. Theo lời Đức Phanxicô, sứ mạng truyền giáo của Giáo hội – hôm qua, hôm nay và mãi mãi – là “làm cho Nước Thiên Chúa hiện diện trong thế giới của chúng ta” (EG 176). Nước ấy giống như hạt cải, hay nắm men được vùi trong bột (x. Lc 13,18-21); Nước ấy chính là “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Hoa trái của Nước Trời không thể đo lường, không thể tiên đoán, không thể định lượng, cũng không thể kiểm soát theo các tiêu chuẩn của con người.

Theo nghĩa này, các tiêu chuẩn mang tính Giáo hội cũng phải khác biệt, mới mẻ và sáng tạo như chính Tin Mừng. Và tự bản chất, trong thực hành loan báo Tin Mừng, kinh nghiệm Công giáo được nuôi dưỡng bởi một tam thức nền tảng, vốn cũng là kim chỉ nam cho sứ mạng trong các môi trường kỹ thuật số: Thánh Kinh, Thánh Truyền của Giáo hội (chứ không phải những “chủ nghĩa truyền thống” đơn thuần) và Huấn quyền sống động.

Văn kiện của Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng cũng đặt câu hỏi: “Làm thế nào sứ mạng kỹ thuật số có thể được hội nhập cách thường xuyên hơn vào đời sống của Giáo hội và vào các cơ cấu của Giáo hội, đồng thời đào sâu những hệ quả của biên cương truyền giáo kỹ thuật số mới đối với việc canh tân các cơ cấu giáo xứ và giáo phận hiện nay?”[16] Mối quan tâm ở đây chính là làm thế nào để thích ứng khái niệm “quyền tài phán” (jurisdiction) vào môi trường kỹ thuật số, bởi vì, như Bản Báo cáo Tổng hợp của phiên họp thứ nhất, Thượng Hội đồng đã khẳng định, các sáng kiến tông đồ trực tuyến có phạm vi tác động vượt xa những ranh giới lãnh thổ của các cộng đoàn Giáo hội. Do đó, việc quy định các sáng kiến này và thiết lập những thẩm quyền có khả năng đồng hành với chúng trở thành một vấn đề căn bản của thần học Giáo hội đương đại. Có một sự chuyển đổi của mô hình Giáo hội từ các thực hành kỹ thuật số, trong đó sự nổi bật về uy tín được kiến tạo qua phương tiện truyền thông lại vượt trên thẩm quyền được thiết lập mang tính thể chế. Thần học không thể coi nhẹ những tác động mà các mạng lưới kỹ thuật số gây nên cho kết cấu Giáo hội, đặc biệt là trong một Giáo hội địa phương. Thật vậy, những thực hành kỹ thuật số như thế có thể làm đảo lộn, thậm chí làm suy thoái những tiến trình nền tảng của kinh nghiệm Công giáo, chẳng hạn như việc hình thành căn tính Công giáo, việc cấu thành cộng đoàn Giáo hội, và việc định hướng của thẩm quyền Giáo hội.

Từ viễn tượng của thẩm quyền Giáo hội, trước tiên cần phải đầu tư vào việc đào tạo thần học cho các cá nhân và cộng đoàn địa phương, để họ biết cách đối diện với những yếu tố bên ngoài có thể gây rối loạn và phương hại đến đời sống, căn tính và các mối tương quan trong cộng đoàn. Ở đây, việc cá nhân hóa công cuộc đào tạo là điều then chốt, để mỗi người có đủ kiến thức thần học nhằm phân định những gì đang lan truyền trên môi trường trực tuyến. Các mối dây hiệp thông mang tính hiệp đoàn (collegiality) cũng cần được củng cố. Ngày nay, các biên cương kỹ thuật số không có sự kiểm soát hay cơ chế “hải quan” nào: vì thế, cần phải tái suy nghĩ các tiến trình đối thoại và hành động chung giữa các giám mục, cũng như với bề trên của các dòng tu và các cộng đoàn Giáo hội mới, để trong những tình huống phức tạp, họ có thể tìm được một giải pháp mang tính hiệp đoàn.

Những biện pháp như thế có thể hiệu quả hơn khi nhìn từ viễn tượng của các nhà truyền giáo kỹ thuật số thuộc hàng giáo sĩ, nhưng đối với các cá nhân và các nhóm giáo dân, tình hình còn phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, cần có một cuộc tranh luận mang tính Giáo hội rộng rãi để nêu lên và suy tư về những vấn đề này trong tinh thần hiệp hành, bởi lẽ các giải pháp không hề đơn giản. Ở đây, cần phải được củng cố mạnh mẽ hơn nữa – qua các tiến trình đào tạo và kinh nghiệm thiêng liêng – căn tính của mỗi người và của mỗi cộng đoàn Kitô hữu (giáo xứ, giáo phận, v.v.) dưới ánh sáng của Tin Mừng, để cho những yếu tố bên ngoài không làm biến dạng kinh nghiệm đức tin riêng của một cộng đoàn, nhưng biết tôn trọng bối cảnh xã hội-văn hóa, hành trình lịch sử và cơ cấu Giáo hội đặc thù của cộng đoàn đó.

 

“Người bản địa kỹ thuật số” và “Hiện đại hóa truyền thông”

Văn kiện của Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, khi tóm lược lại Bản Báo cáo Tổng hợp, đã nhấn mạnh rằng: “Người trẻ, trong đó có các chủng sinh, các linh mục trẻ, và những nam nữ tu sĩ trẻ thường có kinh nghiệm trực tiếp về thực tại này, chính là những người thích hợp nhất để giúp Giáo hội thi hành sứ mạng của mình trong môi trường kỹ thuật số.”[17] Trong khi thừa nhận rằng hiện tượng này tác động đến toàn thể xã hội, Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng vẫn khẳng định rằng hoạt động trong thế giới kỹ thuật số phải dành sự quan tâm đặc biệt cho thế giới người trẻ, bởi lẽ “nhiều người trẻ đã bỏ rơi các không gian vật lý của Giáo hội, nơi chúng ta cố gắng mời gọi họ, để ưa thích các không gian trực tuyến.”[18]

Nhưng ở đây cần phải nêu lên một vài câu hỏi sơ khởi: liệu sự hiện diện nhiều hơn của Giáo hội trong các môi trường kỹ thuật số có bảo đảm được một sự hiện diện được canh tân của người trẻ trong Giáo hội hay không? Liệu thách đố này chỉ liên quan đến môi trường kỹ thuật số, hay còn liên quan cả đến những môi trường truyền thống và “vật lý” của Giáo hội? Chẳng phải những môi trường này cũng cần phải được suy nghĩ lại dưới ánh sáng của những tiến trình truyền thông mới sao? Và đâu là ý nghĩa của việc có một lối truyền thông đổi mới và hiện đại từ quan điểm của các ngôn ngữ và tiến trình kỹ thuật số, nếu các thực hành tôn giáo và đời sống cộng đoàn trong Giáo hội địa phương lại được cử hành theo những cách mà ngày nay không còn ý nghĩa gì đối với người trẻ nữa, bởi vì chúng thiếu nhất quán, hời hợt hoặc vô nghĩa?

Một khía cạnh gây vấn đề chính là khái niệm “người bản địa kỹ thuật số” (digital natives), vốn cũng xuất hiện trong SR 17a. Thuật ngữ này ám chỉ niềm tin rằng trẻ em, thiếu niên và giới trẻ ngày nay tự bản chất (naturaliter) đã được hội nhập văn hóa kỹ thuật số, vì họ sẽ “quen thuộc hơn” với các năng động kỹ thuật số. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng “văn hóa” còn quan trọng hơn là việc sử dụng các thiết bị công nghệ hay việc làm chủ một số kỹ thuật và/hoặc ngôn ngữ nhất định. Việc sống trong văn hóa kỹ thuật số không đồng nghĩa với việc thực sự hiểu được nó. Có cả một vũ trụ biểu tượng của những giá trị, ý nghĩa và thực hành vốn không tự phát hay tự nhiên mà phát sinh chỉ nhờ việc sử dụng công nghệ, nhưng đòi hỏi những tiến trình học hỏi và trao đổi liên thế hệ, đặc biệt với mục đích truyền đạt một “Truyền thống sống động” (như SR 1f và 1o đã khẳng định).

Khi xét đến sự hiện diện của giới trẻ thuộc hàng giáo sĩ và thuộc đời thánh hiến trong văn hóa kỹ thuật số, cần phải nhấn mạnh điều này với một sự quan tâm lớn hơn nữa, bởi vì họ trực tiếp đại diện cho thể chế mà họ thuộc về. Trên các hồ sơ cá nhân của họ, qua các bài đăng tải, cần phải có một sự hiệp lực giữa đời sống và sứ mạng, giữa đời sống cá nhân và đời sống mang tính thể chế. Họ được mong đợi là những sự hiện diện tích cực, phản chiếu các giá trị Tin Mừng và cổ võ sự hiệp thông xã hội cũng như Giáo hội. Thật đáng tiếc, cũng có không ít chủng sinh, linh mục trẻ và nam nữ tu sĩ trẻ mà trong sự hiện diện trên các mạng lưới kỹ thuật số, lại gắn bó với một chủ nghĩa truyền thống cực đoan và gặp khó khăn trong việc đối thoại với nền văn hóa đương đại cũng như với Giáo hội, theo định hướng của Công đồng Vatican II và giáo huấn của Đức Phanxicô.

Một ví dụ về sự thiếu gắn bó, hoặc thậm chí là sự thiếu hòa điệu với thực tại của Giáo hội hiện nay nơi các linh mục, được tìm thấy trong một khảo sát gần đây do Khoa Khoa học Xã hội của Đại học Giáo hoàng Grêgôriô thực hiện, vốn tập trung vào việc phân tích hồ sơ của các linh mục đến từ nhiều quốc gia đang hoạt động trên các nền tảng kỹ thuật số. Liên quan đến thực trạng tại Brazil, người ta nhận thấy rằng trong suốt Thượng Hội đồng đặc biệt về vùng Amazon, được tổ chức tại Rôma vào năm 2019 và trực tiếp đề cập đến thực tại loan báo Tin Mừng cho các dân tộc bản địa tại đất nước này, thì trong các hồ sơ linh mục được phân tích hầu như không có đề cập nào về Đại hội Thượng Hội đồng.[19]

Ẩn dưới bề mặt của cái gọi là “sự hiện đại hóa truyền thông” của Công giáo, đôi khi lại tiềm ẩn một “tiền hiện đại tính thần học–giáo hội”, vốn biểu lộ một nỗi hoài niệm về một quá khứ đã qua và được lý tưởng hóa của Công giáo. Đây chắc chắn không phải là kiểu truyền giáo kỹ thuật số mà Giáo hội mong muốn cổ võ.

 

Sứ mạng truyền giáo hay “Ảnh hưởng Kỹ thuật số”?

Chắc chắn có những trường hợp các nhà loan báo Tin Mừng trực tuyến (và không nhất thiết là người trẻ), ưu tiên cho Tin Mừng và trung thành với giáo huấn của Giáo hội cũng như với vị Giáo hoàng đương nhiệm. Tuy nhiên, như một khảo sát gần đây được thực hiện tại Brazil về các “người Công giáo có ảnh hưởng trong môi trường kỹ thuật số”[20] đã chỉ ra, không hiếm khi họ lại đặt nền tảng cho các thực hành kỹ thuật số của mình trên việc phổ biến những thông tin và nội dung hời hợt, thậm chí méo mó về đức tin Kitô giáo. Đã có “những khác biệt đôi khi che giấu, đôi khi công khai đối với hành trình Giáo hội và mục vụ của Giáo hội đương đại, hoặc trong những trường hợp khác, lại có một ‘sự im lặng ngầm’ trước giáo huấn của Đức Phanxicô […]. Như thế, các vấn đề lớn mang tính Giáo hội đã bị đơn giản bỏ qua, để nhường chỗ cho một kiểu đức tin mang tính cá nhân và sùng mộ, tách rời khỏi những vấn đề xã hội–văn hóa và Giáo hội đương đại.”[21]

Trong những trường hợp cực đoan, những thực hành như thế có thể dẫn đến tình trạng bất khoan dung và gây ra thù nghịch trong nội bộ tôn giáo hoặc liên tôn. Khi cổ võ những diễn ngôn mang tính hung hăng và bạo lực chống lại những cá nhân hay nhóm cụ thể, các người có ảnh hưởng trong môi trường kỹ thuật số này đã tiếp tay cho sự thù địch và chia rẽ trong nội bộ hay giữa các cộng đoàn tôn giáo, thường chỉ nhằm tìm kiếm thêm nhiều “cú nhấp chuột” và mức độ hiển thị cao hơn để chuyển hóa thành các chỉ số kỹ thuật số lớn, vốn thường đem lại lợi nhuận đáng kể.

Hơn nữa, nhiều người có ảnh hưởng trong môi trường kỹ thuật số về đức tin chọn thi hành sứ mạng theo kiểu “một mình nhưng cùng nhau”[22]: giả thiết là cùng nhau và hiệp thông với Giáo hội, nhưng trên thực tế lại là đơn độc. Nghĩa là, họ tuyên bố chia sẻ cùng một đức tin nhưng trên thực hành thì lại tìm kiếm sự độc lập khỏi các cộng đoàn Giáo hội, gia tăng tính tự trị đối với các thẩm quyền tôn giáo, và tự tạo ra những “Giáo hội” theo hình ảnh riêng của mình. Hậu quả là tầm quan trọng của cộng đoàn và của sự hiệp thông Giáo hội dần dần biến mất: trọng tâm trở thành “cái tôi” của người có ảnh hưởng, hoặc “cái chúng ta” của những người theo họ trên các mạng lưới. Đây là một dạng “hiệp thông cô độc” vốn loại trừ sự đa dạng của ý kiến.

Viễn tượng về một “chúng ta” mang tính cộng đoàn, không quy hướng hay quy chiếu độc tôn vào cái “tôi” cá nhân, vì thế mang tính phản văn hóa một cách mạnh mẽ trong thời đại của các mạng lưới kỹ thuật số. Hiệp thông Kitô giáo chỉ khả thể khi có sự cởi mở và sự nhìn nhận lẫn nhau về phẩm giá Kitô hữu cũng như về tư cách thuộc về Giáo hội của những người tham gia. “Chúng ta” mang tính Giáo hội hàm nghĩa một “hiệp nhất chung” với toàn thể Dân Thiên Chúa trong sự đa dạng phức tạp của họ, nhưng đặc biệt là với Huấn quyền, nhất là với giáo huấn của Đức Giáo hoàng và của các giám mục khi các ngài cùng nhau lên tiếng cách hiệp đoàn, và với giám mục địa phương trong phạm vi thẩm quyền thuộc về ngài. Cái “chúng ta” này được diễn tả trên hết trong chứng tá của tình huynh đệ và tình yêu thương giữa những người công khai xưng mình là Kitô hữu: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Nói như thế, “điều cấp bách là phải học cách hành động cùng nhau, như một cộng đoàn chứ không phải như những cá nhân. Không phải như những ‘người ảnh hưởng cá nhân,’ nhưng như những ‘người dệt nên hiệp thông,’ biết chung góp các tài năng và khả năng, chia sẻ tri thức và đóng góp của mình.”[23] Những ai mong muốn góp phần vào một hành trình loan báo Tin Mừng toàn diện thì phải thực hiện điều đó trong hiệp thông và cộng đoàn, được hướng dẫn bởi các tiêu chuẩn của Tin Mừng, của Truyền Thống và của Huấn quyền. Vì thế, các dự án truyền giáo kỹ thuật số mang tính tập thể thì trung thành với Tin Mừng hơn nhiều so với những sáng kiến cá nhân; chính Đức Giêsu cũng đã sai các môn đệ đi thi hành sứ vụ “từng hai người một” (Lc 10,1).

 

Truyền giáo trong môi trường kỹ thuật số như một “phương dược cho căn bệnh kỹ thuật số”

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một “tình trạng hậu-giáo hội”[24], vốn ở nhiều nơi được đặc trưng bởi sự mất uy tín của Giáo hội theo hai nghĩa: vừa như một thực tại không còn gợi lên sự tín nhiệm nơi xã hội, vừa như một thể chế nhiều khi không còn có khả năng khơi dậy nơi các thành viên của mình những hành vi được ghi dấu bằng chính kinh nghiệm Kitô giáo của họ. Nói chung, trên nhiều phương diện, sự yếu kém của Công giáo trong lãnh vực kỹ thuật số là một triệu chứng của tình trạng Giáo hội và tôn giáo vừa khủng hoảng vừa phức tạp này.

Theo cách đó, Kitô giáo bắt đầu bị diễn giải qua lăng kính của chủ nghĩa giật gân, văn hóa dân gian và truyền thông đại chúng, như một sản phẩm văn hóa thuần túy, mang tính công nghiệp hóa, nhẹ dạ, phù phiếm và được kết nối, để bất cứ ai và theo bất kỳ cách nào cũng có thể tiêu thụ. Tính đặc thù của Kitô giáo, vì thế, bị đơn giản hóa, bị pha loãng và bị mờ nhạt bởi sự cá nhân hóa và tư hữu hóa tột độ của việc thực hành tôn giáo, nếu không muốn nói là bị thương mại hóa hoàn toàn. Dù mang tính công khai, những thực hành này lại chỉ nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiêng liêng và riêng tư của cá nhân, trong khi gạt sang bên lề viễn tượng vị tha, cộng đoàn và xã hội của sự mở ra cho tha nhân – vốn là trung tâm của đức tin Kitô giáo. Với tình trạng này, kinh nghiệm Kitô giáo thôi không còn mang tính Giáo hội, tức mang tính cộng đoàn, mà trở thành cá nhân, mang tính quy ngã.

Thật nghịch lý, rõ ràng người ta có thể trở thành một người ảnh hưởng trong môi trường kỹ thuật số được truyền cảm hứng Công giáo mà không hề là một nhà loan báo Tin Mừng hay nhà truyền giáo kỹ thuật số. Thực ra, một nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số, với tư cách là môn đệ-truyền giáo của Đức Giêsu Nadarét trong nền văn hóa đương đại, được mời gọi trở thành một “người phản lại hay chống lại ảnh hưởng kỹ thuật số” (anti/counter-digital influencer). Nếu như ảnh hưởng kỹ thuật số – với tư cách là một hiện tượng xã hội–văn hóa đương đại – đòi hỏi phải tuân thủ những chuẩn mực và thực hành nhất định do thị trường truyền thông và các công ty sở hữu nền tảng kỹ thuật số đặt ra (tính quy chiếu về bản thân, sự hiển thị, mức độ dấn thân, tính cạnh tranh, quảng cáo, thương mại hóa, gây tranh luận và phân cực), thì nhà truyền giáo kỹ thuật số lại hành động theo hướng ngược dòng văn hóa ấy. Bởi vì họ là môn đệ của Đấng đã khước từ cám dỗ của danh vọng, tiền bạc và quyền lực (x. Mt 4,1-11), Đấng không làm tôi hai chủ (x. Mt 6,24), không chấp nhận việc thương mại hóa Nhà Cha (x. Ga 2,13-22), và đã trở nên người phục vụ mọi người, thậm chí rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13,1-11), trung tín cho đến chết, chết trên thập giá. Và “mọi sự đã được đảo ngược trên Thập giá. Đã chẳng có một ‘lượt thích’ nào và hầu như không có một ‘người theo dõi’ nào vào chính lúc vinh quang Thiên Chúa được biểu lộ cách cao cả nhất! Mọi thước đo ‘thành công’ của con người đều bị tương đối hóa bởi chính logic của Tin Mừng.”[25]

Một vài đề nghị để tiếp tục hành trình

“Tiếp tục hành trình” là nhan đề của trang cuối trong Bản Báo cáo Tóm lược của phiên họp thứ nhất Đại hội Thượng Hội đồng. Hướng tới phiên họp thứ hai, cần phải suy tư về ý tưởng rằng: “Đức Giêsu đã nhìn thấy vận mệnh của chính mình được biểu lộ nơi hạt giống rơi xuống đất, một thực tại tưởng chừng vô giá trị và vô nghĩa, được định sẵn để mục nát, nhưng lại chứa đựng một sức sống năng động, sức sống ấy bất khả ngăn chặn, bất khả tiên đoán, và mang tính Vượt Qua” (SR, Kết luận). Và trong Bản Báo cáo Tổng hợp chúng ta còn đọc thấy: “Hôm nay, trong một nền văn hóa nơi con người tranh giành quyền lực với nhau và bị ám ảnh bởi cái hữu hình, Giáo hội được kêu gọi để vang vọng lại lời của Đức Giêsu, để làm cho những lời ấy sống động trở lại trong tất cả sức mạnh của chúng.”

Để nâng đỡ cho việc suy tư một cách vững chắc về thách đố của sứ mạng trong các môi trường kỹ thuật số, chúng tôi muốn nêu ra ở đây một vài điểm nhấn cần phải làm nổi bật trong việc loan báo Tin Mừng trong môi trường kỹ thuật số, được gợi hứng từ Evangelii Gaudium, nhằm phục vụ cho việc công bố Tin Mừng và đối thoại với văn hóa cũng như xã hội.[26]

Trước hết, đó là tính ưu tiên của Tin Mừng: một nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số được mời gọi kín múc từ nguồn mạch Tin Mừng, để cho cung cách hành xử trên mạng phù hợp với kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu ấy và cộng tác trong việc xây dựng Nước Thiên Chúa. “Trong thế giới hôm nay […] sứ điệp mà chúng ta rao giảng có nguy cơ lớn bị xuyên tạc hoặc bị thu hẹp vào một vài khía cạnh thứ yếu của nó” (EG 34). Vì thế, sứ mạng phải khởi đi từ chính trái tim của Tin Mừng: “Trong hạt nhân căn bản này, điều tỏa sáng chính là vẻ đẹp của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại từ cõi chết” (EG 36).

Một nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số được mời gọi không chỉ để nói và dạy về tình yêu, nhưng trên hết là để sống tình yêu ấy và thực hành nó trong toàn bộ ý nghĩa bác ái của nó, mà không tách mình khỏi thực tại của lịch sử, khỏi những lo âu và thách đố của nhân loại, cũng như khỏi dấn thân chung cho thiện ích chung. Chỉ khi ấy, họ mới thực sự là người loan truyền Tin Mừng. Đây chính là tính ưu tiên của đức ái.

Một tính ưu tiên khác cũng phải được dành cho ân sủng. Nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số được kêu gọi từ bỏ tính quy chiếu về bản thân, những tranh luận hời hợt và chủ nghĩa quy ngã, và không được tự tôn vinh hình ảnh hay cá tính của chính mình. Họ phải để mình được Thánh Thần hướng dẫn – Đấng thôi thúc Giáo hội ra đi thi hành sứ mạng – và để cho chính con người Đức Giêsu Kitô trở thành trọng tâm của việc công bố: “Chính Thiên Chúa làm cho Nước Người được thể hiện trên trần gian.”[27] Sứ mạng của Giáo hội – và của các nhà truyền giáo kỹ thuật số – là cộng tác với hành động thần linh này, chứ không được ngăn cản nó. Trong chiều kích này, lời khuyên của “tông đồ Internet,” chân phước trẻ Carlo Acutis, thật sự soi sáng khi ngài nói: “Hoán cải là một quá trình loại bỏ: làm nhỏ đi chính con người tôi để nhường chỗ cho Thiên Chúa.”[28]

Trong hành trình của Giáo hội đương đại, một nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số cũng được mời gọi biết lắng nghe, đối thoại và cùng bước đi với các anh chị em khác trong đức tin, cũng như với những người tuyên xưng một niềm tin tôn giáo khác hoặc thậm chí không nhận mình là người có tôn giáo. Như thế, có thể cùng nhau xây dựng những không gian của sáng kiến và hiển diện cho tất cả, để vượt thắng chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa giáo sĩ trị, đồng thời làm sáng tỏ sức mạnh của cộng đoàn. Đây chính là tính ưu tiên của hiệp hành.

Không kém phần quan trọng, trong thời đại của sự cực đoan ý thức hệ, sự hiệp nhất Giáo hội là một ưu tiên then chốt cho việc thực hành và làm chứng Kitô giáo trên môi trường trực tuyến. Dù cho các nền tảng có thể định hướng một số hành vi dựa trên cơ chế phân khúc ngách, vốn xem thường và gạt bỏ những khía cạnh không thể được lập trình bởi thuật toán, thì một nhà loan báo Tin Mừng kỹ thuật số vẫn được kêu gọi thực hành sự đón nhận và sống hài hòa với mọi người, không loại trừ, không làm im tiếng, cũng không làm cho bất cứ ai trở nên vô hình, nhờ đó góp phần vào sự hiệp thông Giáo hội và hòa bình xã hội. Do đó, cần phải thực sự chống lại lối logic của các mạng lưới vốn không phù hợp với đề nghị của Tin Mừng và có thể tạo ra một dạng “tử đạo kỹ thuật số”, nghĩa là thập giá của những thất bại: thập giá của việc không có lượt thích, không có người theo dõi và không có vinh quang.

Sau hơn 2.000 năm, thách đố ấy vẫn tiếp tục: đó là thả lưới vào chỗ nước sâu hơn (x. Lc 5,4). Và trên hành trình hiệp hành, vẫn còn nhiều bước phải đi để có thể thi hành đúng sứ mạng, nhân danh đúng Đấng cần được công bố.

Nữ tư Maria Hoài Ân

Chuyển ngữ từ: laciviltacattolica.com (16/8/2024)

__________

[1] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (EG) về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay, 2013, số 20, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tong-huan-niem-vui-cua-tin-mung-evangelii-gaudium-46656

[2] Đức Phanxicô, Truyền thông phục vụ cho một nền văn hóa gặp gỡ đích thực, Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 48, 01.6.2014, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-cua-duc-thanh-cha-phanxico-nhan-ngay-the-gioi-truyen-thong-xa-hoi-lan-thu-48-17855

[3] X. The Church listens to you, báo cáo của Thượng Hội đồng Kỹ thuật số được thực hiện với 244 người ảnh hưởng từ khắp thế giới. (www.vaticannews.va/pt/igreja/news/2022-09/a-igreja-te-escuta.html).

[4] X. Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Một Giáo hội Hiệp hành trong Sứ mạng, Bản Báo cáo Tóm lược Phiên họp Thứ nhất của Đại hội đồng Thường lệ XVI Thượng Hội đồng Giám mục, 28.10.2023. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bao-cao-tong-hop-dai-hoi-thuong-hoi-dong-giam-muc-khoa-i-2023-mot-hoi-thanh-hiep-hanh-trong-su-vu-54200#_Toc154511869

[5] Đức Phanxicô, Thư gửi Đức Hồng y Mario Grech, 14.3.2024, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-duc-thanh-cha-gui-duc-hong-y-mario-grech-nam-2024-54699

[6] X. M. Sbardelotto, E o Verbo se fez rede. Religiosidades em reconstrução no ambiente digital, São Paulo, Paulinas, 2017.

[7] X. Id., “L’assemblea in rete e la mediamorfosi della fede”, trong Rivista di Pastorale Liturgica 50 (2012/6) 47-51.

[8] X. SR 17l – 17m.

[9] Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Các Nhóm Nghiên cứu về những vấn đề được nêu ra trong Phiên họp Thứ nhất của Đại hội đồng Thường lệ XVI Thượng Hội đồng Giám mục để được khai triển trong cộng tác với các Bộ của Giáo triều Rôma, 14.3.2024, số 3 (https://press.vatican.va/content/salastampa/it/bollettino/pubblico/2024/03/14/0212/00454.html).

[10] Đức Phanxicô, “Chúng ta là chi thể của nhau (Ep 4,25). Từ các cộng đoàn mạng xã hội đến cộng đoàn nhân loại”, Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 53, 02.6.2019.

[11] Sđd.

[12] A. Spadaro, Cyberteologia. Pensare il cristianesimo al tempo della rete, Milan, Vita e Pensiero, 2012, tr. 65.

[13] Các nhóm nghiên cứu về các vấn đề nổi lên trong Kỳ họp thứ nhất, số 3. X. SR 17j.

[14] x.com/Pontifex_it/status/1035127494481870849

[15] Đức Phanxicô, Lời phát biểu tại bữa trưa liên đới với người nghèo, người tị nạn, tù nhân, Bologna, Đền Thờ Thánh Petronio, 01.10.2017.

[16] Các nhóm nghiên cứu về các vấn đề nổi lên trong Kỳ họp thứ nhất, số 3. X. SR 17j.

[17] Các nhóm nghiên cứu về các vấn đề nổi lên trong Kỳ họp thứ nhất, số 3; x. SR 17d.

[18] Sđd.; x. SR 17k.

[19] X. B. Franguelli, “The presence of priests in Social Networks: The case of Brazil”, trong P. Lah, Navigating Hyperspace: A Comparative Analysis of Priests’ Use of Facebook, Eugene, OR, Resource Publications, 2021.

[20] X. F. F. Medeiros và cộng sự, Influenciadores digitais católicos: efeitos e perspectivas, São Paulo, Paulus Editora, 2024.

[21] Sđd., tr. 23.

[22] X. S. Turkle, Insieme ma soli. Perché ci aspettiamo sempre più dalla tecnologia e sempre meno dagli altri, Turin, Einaudi, 2019.

[23] Bộ Truyền thông, Hướng tới một sự Hiện diện Trọn vẹn. Một suy tư mục vụ về sự dấn thân với truyền thông xã hội, 28.5.2023, số 76 (https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/huong-toi-su-hien-dien-tron-day---ghi-chep-ve-boi-canh-ra-doi-tai-lieu-suy-tu-muc-vu-ve-mang-xa-hoi).

[24] A. Matteo, Pastorale 4.0. Eclissi dell’adulto e trasmissione della fede alle nuove generazioni, Milan, Àncora, 2020.

[25] Bộ Truyền thông, Hướng tới sự hiện diện…, sđd., số 79.

[26] X. F. Medeiros và cộng sự, Influenciadores digitais católicos: efeitos e perspectivas, sđd.

[27] Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 42.

[28] A. S. Acutis – P. Rodari, Il segreto di mio figlio. Perché Carlo Acutis è considerato un santo, Casale Monferrato (AL), Piemme, 2021.

Nguồn: hdgmvietnam.com