Ý Niệm Chết trong Thánh Kinh và Thần Học - Phần I

14/11/2017
3387
Tháng 11 là tháng các linh hồn. Cũng là tháng để ta suy niệm về sự chết, một sự kiện hãi hùng nhưng chắc chắn sẽ xẩy ra cho mọi người, ít nhất, mọi người phàm phu tục tử như chúng ta. Dựa vào Tân Từ Điển Bách Khoa Công Giáo, chúng tôi sẽ trình bầy ít nét căn bản về ý niệm sự chết trong Thánh Kinh, và Thần Học và sau cùng, một vài nét về việc chuẩn bị đón chờ sự chết. 

I. Sự Chết trong Thánh Kinh

Vì nhân học của Do Thái xưa hay quan niệm về thành phần cấu tạo ra con người rất khác với quan điểm lưỡng phân (dichotomistic) của người Hy Lạp, một quan điểm mà ngày nay không thiếu người ủng hộ, nên quả là không chính xác khi định nghĩa sự chết trong tư duy Thánh Kinh như là việc linh hồn lìa khỏi thân xác. Muốn hiểu rõ, ta cần tìm hiểu các dữ kiện Thánh Kinh. Thành thử, việc đầu tiên là cần xem xét giáo huấn Thánh Kinh về sự chết trên quan điểm sinh lý học, rồi sau đó trên quan điểm thần học, và sau cùng là các cách dùng từ ngữ này theo lối ẩn dụ. 

1. Phương diện sinh lý học 

Đối với người Phương Đông cổ thời, sống và chết không phải là các thực thể trừu tượng, mà là hai lãnh vực chống đối nhau. Chết (tiếng Hípri ma¯ wet) không chỉ được cảm nghiệm về không gian như một nơi dành cho người chết mà còn được cảm nghiệm một cách đầy năng động qua các sức mạnh của nó nữa (Hs 13:14). Người Do Thái không suy niệm về sự chết như một diễn trình sinh lý học; mà họ cũng không mô tả sự chết như là việc hồn lìa khỏi xác như người Hy Lạp. Đúng hơn, họ coi sự chết như một việc mất đi sinh lực một cách tối hậu và không được ta ước muốn. Chỉ ở tuổi già, sự chết mới được chấp nhận như một điều tự nhiên (Tv 90:10). Lúc hấp hối được mô tả một cách cụ thể như là sự ra đi của nepesˇ, tức linh hồn hay một sinh lực (St 35.18; 2 Sm 1.9; 1 V 17.21).

Con người mất sinh lực của họ với hơi thở cuối cùng hắt ra (G 11:20; Grm 15:9). Dựa vào quan sát thực nghiệm thấy sự sống được biểu lộ qua hơi thở, nên sự chết của con người hay thú vật đều được mô tả như hơi thở cuối cùng (tiếng Hípri: rûah) của thân xác, như trong các Tv 146:4; 104:29; G 12:10; Gv 8:8; 12:7. Với một quan niệm về sau, máu mới được coi chủ yếu là yếu tố tạo sinh lực. Máu được gọi là trung tâm sự sống; khi máu tuôn ra hết, sự sống cũng hết luôn (Lv 17:11; Đnl 12:23).

Tân Ước cũng mô tả tương tự hiện tượng sinh lý học của sự chết (qßnatoj). Cả ở đây, nguyên lý của sự sống cũng là khí (spirit) hay hơi thở (pneuma) do Thiên Chúa ban (Cv 17:25). Chết là thở ra hết thứ khí này (Mt 27:50; Lc 23:46: Ga 19:30) hay linh hồn (fucø; xem Ga 10:11; 15:17; 13:37). Không có thứ khí này, thân xác sẽ chết (Gcb 2:26); khi người chết sống lại, khí này sẽ trở lại (Lc 8:55). 

2. Phương diện thần học

Trong Cựu Ước và trong Tân Ước, có một sự liên tục về giáo huấn sự chết. Vì trong cả hai, sự chết được coi như hậu quả tối hậu của tội lỗi. Thế nhưng, trong Tân Ước, vì Chúa Kitô đã chiến thắng tội lỗi và vương quốc ma qủy và do sự đồng hình đồng dạng của Kitô Hữu với cái chết và sự phục sinh của Người, nên sự chết đã mang một ý nghĩa mới, ít khủng khiếp hơn. 

Trong Cựu Ước. Vì bạo lực của sự chết là một sự xấu khủng khiếp, nên con người tự nhiên nối kết nguồn gốc của nó với việc vi phạm nguyên thủy và hình phạt do đó mà ra. Chứ nó không hề có trong ý hoàn toàn tốt lành của Thiên Chúa, Đấng vốn muốn cho con người được sống (St 2:9; 3:22); chỉ vì vi phạm lề luật Thiên Chúa, nên con người mới chết (St 2:17; 3:3; xem thêm Rm 5:12-21). Chết là một tất yếu không thể tránh khỏi, thế nhưng những ai chết “sau một cuộc sống mãn nguyện” (St 25:8) hay “lúc tuổi già hạnh phúc” (St 15:15; Tl 8:32) đều được ca ngợi. 

Đối với người Do Thái, sự chết không những tác động trên thân xác, mà nó còn đánh dấu việc kết thúc các sinh hoạt tôn giáo. Khó định nghĩa được mối tương quan của Thiên Chúa với Sheol (âm ty hay âm phủ, hay nơi ở của người chết) (xem Is 38:11). Nó tùy thuộc quyền lực vô biên của Người (Am 9:2; Is 7:11; Tv 139:8; G 26:6), nhưng xem ra Người không hề quan tâm tới người chết (Tv 88:6). Cũng thế, sau khi chết, con người bị cho là không thuộc về Giavê hay các kỳ công của Người nữa (Tv 6:6; 88:13). Họ không còn ca ngợi sự tốt lành và lòng trung tín của Thiên Chúa nữa (Tv 30:10; 88:12; 115:17; Is 38:18), hay không còn vinh danh Chúa hay ca tụng sự chính trực của Người nữa (Br 2:17). Đây là nhận định dứt khoát nhất và cũng tan nát cõi lòng nhất về người chết trong Cựu Ước. Nó tất nhiên tạo ra nỗi kinh hoàng đối với sự chết, một nỗi kinh hoàng chỉ được làm nhẹ bớt phần nào nhờ cuộc sống trường thọ, được coi như bằng chứng cụ thể nhất của ơn huệ Thiên Chúa. Đến mãi sau này, Do Thái Giáo mới có một ý niệm khải huyền về thế giới, và ý niệm này dọn đường cho sự thay đổi dứt khoát về thái độ đối với sự chết trong Tân Ước. Từ đó trở đi, người ta mới tin rằng Thiên Chúa chiến thắng sự chết, ít nhất, cho một phần nào đó của nhân loại, qua việc phục sinh có tính cứu rỗi cánh chung và qua việc khai mở một thời đại mới.

Trong Cựu Ước, sự chết được coi như đỉnh điểm mọi đau khổ và sầu buồn, một sự ra xa lạ tối hậu với Thiên Chúa, phát khởi từ cơn giận của Thiên Chúa và bị khiêu khích bởi tội nguyên tổ và tội bản thân (Cn 2:18; 7:27; 21:16; 22:23; Is 5:14). Cuộc sống trường thọ được coi là phần thưởng cho nhân đức và lòng trung thành giữ lề luật Thiên Chúa (Đnl 30:15-20; 32:47; Br 3:14). Khi phạm tội, người Do Thái mang cái chết yểu đến cho họ (Tv 55:24; G 15:32; 22:16). Nhờ thực hành nhân đức, các việc làm tốt lành, và bố thí, con người có thể đền bù tội lỗi mình và nhờ thế cứu mình khỏi chết sớm (Cn 10:2; 11:4; Tb 4:11; 12:9). Tuy nhiên Kn 4:7-20 cho ta thấy không nên tổng quát hóa học lý này; điều này phản ảnh một thái độ trưởng thành hơn đối với vấn đề thưởng phạt. 

Trong Tân Ước. Quan tâm nổi bật trong Tân Ước không phải là sự chết, mà là sự sống trong Chúa Kitô. Cốt lõi của sơ truyền tông đồ là: sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô đem lại ơn cứu rỗi cho mọi người và bảo đảm sự phục sinh của họ. Chúa Kitô “đã tiêu diệt sự chết” (2Tm 1:10) bằng cách chính Người chịu chết và đền thay tội lỗi chúng ta. Bằng sự chết của Người, Người tiêu diệt kẻ nắm giữ đế quốc sự chết, đó là ma qủy (Dt 2:14-15). Sự chết nay không còn sức lực hữu hiệu nào nữa đối với người được cứu chuộc. Sau cùng, nói theo ngôn từ khải huyền, sự chết sẽ “bị ném vào lò lửa” (Kh 20:14), và nhờ chiến thắng của Chúa Kitô, “sự chết không còn nữa” (Kh 21:4).

3. Theo nghĩa ẩn dụ

Đôi khi, sự chết không hẳn chỉ việc hồn lìa khỏi xác, cho bằng việc mất đi những điều vốn tạo ra hạnh phúc đích thực cho con người ở đời này cũng như ở đời sau. Thí dụ, tội lỗi làm con người mất tình thân hữu của Thiên Chúa và đem đến sự chết (Cn 11:19). Ngoài ra, những con đường lắt léo của dối trá và các thói hư khác cũng dẫn tới sự chết (Cn 12:28; 14:12; 16:25; Kn 1:12). Trong Tân Ước, chữ chết thường năng được dùng để chỉ sự chết đời đời nghĩa là trầm luân, hậu quả của bất tín và tội lỗi (Ga 5:24; 8:51; Rm 7:9-11; Gcb 1:15; 1Ga 3:14; 5:16); Sách Khải Huyền sử dụng kiểu nói “cái chết thứ hai” để chỉ việc này (2:11; 20:6, 14; 21:8). Cái chết thiêng liêng sẽ được vượt qua nhờ sự phục sinh thiêng liêng nghĩa là nhờ ăn năn và hồi tâm (Cv 11:18). Sau cùng, chữ chết được Thánh Phaolô dùng theo nghĩa bóng để chỉ việc từ tình trạng tội lỗi bước qua tình trạng ơn thánh nhờ Phép Rửa: người tin “chết” cho tội lỗi (Rm 6:2-11; 1Pr 2:24), họ được chôn cất với Chúa Kitô (Rm 6:4, 8), để sống lại với Chúa Kitô trong cuộc sống mới nơi Thiên Chúa (Rm 6:5; Cl 3:1-4). Thánh Gioan cũng mô tả việc công chính hóa con người như là bước chuyển tiếp từ chết qua sống (1Ga 3:14). Ai chiếm hữu Chúa Con, nghĩa là kết hợp với Người trong đức tin và đức mến, đều được hưởng sự sống thiêng liêng mới mẻ làm con nuôi Thiên Chúa, một việc sau cùng được nên trọn trong vinh quang thiên quốc. 

II. Sự chết trong thần học 

Thần học về sự chết sẽ được bàn dưới 3 chủ đề sau đây: 1. vấn đề sự chết nghĩa là các mâu thuẫn biểu kiến xuất hiện khi con người cố gắng hiểu hiện tượng chết của con người; 2. mầu nhiệm sự chết, nghĩa là câu trả lời cho vấn đề vừa rồi như đã có trong mạc khải Thiên Chúa (chủ đề này sẽ có hai khía cạnh chính: sự chết như hậu quả của tội lỗi và sự chết được biến đổi nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô); 3. Cái hiểu của thần học về mầu nhiệm sự chết nghĩa là cố gắng đi sâu vào ý nghĩa của câu trả lời do mạc khải cung cấp cho vấn đề sự chết. 

1. Vấn đề sự chết 

Trên bình diện nhân bản, nhận thức của con người về sự chết chỉ xuất phát từ quan sát bên ngoài. Không ai trải nghiệm sự chết, rồi giải thích cho người khác biết bản chất và ý nghĩa của trải nghiệm này. Khi người ta quan sát hiện tượng chết này, hai phán đoán xem ra mâu thuẫn nhau liên quan đến nó tự xuất hiện trong đầu óc ta, và đây là điều tạo ra vấn đề sự chết. Một đàng, đối với con người, sự chết xem ra hoàn toàn là điều tự nhiên, phù hợp với bản nhiên họ. Nhưng đàng khác, sự chết xem ra hoàn toàn phi lý, hoàn toàn mâu thuẫn với các đặc điểm vốn phân biệt con người với mọi tạo vật khác trong thế giới vật chất.

a. Tính tự nhiên của sự chết

Chết xem ra hoàn toàn tự nhiên khi ta xem xét sự gần gũi hiển nhiên giữa con người và sự sống vật chất trong vũ trụ. Con người sở hữu một cơ cấu hữu cơ phức tạp vốn được thay đổi và hoàn thiện qua nhiều thế kỷ phát triển và thích ứng. Cơ cấu hữu cơ này nhận được sự hỗ trợ từ môi trường bao quanh nó, một môi trường, ở khắp nơi, cho thấy rõ chu kỳ sinh ra, lớn lên, suy tàn, và rồi chết. Đặc điểm của mọi loại cây cỏ và đời sống động vật là cá nhân kinh qua một diễn trình trưởng thành, trong diễn trình này, cá nhân được hưởng lợi ích từ khu vực bao quanh và đồng thời góp phần làm lợi cho các khu vực bao quanh này. Khi diễn trình trưởng thành này hoàn tất và chức năng của cá nhân đã được thể hiện, lúc chết, nó sẽ nhường bước cho các cá nhân khác thuộc cùng loại tiếp tục diễn trình này. Do đó, khi con người cá thể trải qua các giai đoạn này của cuộc sống một cách tự nhiên, họ sẽ thấy sự chết như một tận cùng bình thường và thích đáng của họ. Ở Do Thái cổ thời, chỉ những cái chết thình lình giữa tuổi thanh xuân mới bị coi là không thích đáng mà thôi. Các người Do Thái tiên khởi ít khi suy tư về sự hiện hữu bên kia nấm mồ. Họ thanh thản chấp nhận viễn tượng chết ở cuối cuộc sống trọn vẹn, một sự chết với nghĩa chấm dứt trọn vẹn sự hiện hữu có ý nghĩa thực sự, theo sự hiểu biết của họ. Sự sống là một ơn phúc của Thiên Chúa. Và khi nó kết thúc, điều này không hẳn không phải là một ơn phúc của Người. 

b. Tính phi lý của sự chết 

Tuy nhiên, việc thanh thản chấp nhận sự chết trên đây như một phần tự nhiên, bình thường của hiện hữu nhân bản gặp khó khăn lớn khi ta xét tới các đặc tính đặc biệt của sự sống con người. Vì đối với mọi sinh vật, ngoại trừ con người, sự chết ở cuối diễn trình tuổi già đã hoàn tất là một kết thúc hợp lý đối với một sự sống trong đó mọi tiềm năng của cá thể đã được thể hiện. Cây cối đã trổ hoa và sinh trái cùng hạt giống. Chim chóc đã lớn lên đẹp đẽ, biết bay biết hót, đã sinh sôi nẩy nở những đứa con có thể làm cùng những việc ấy. Mỗi con vật hạ đẳng đều tiến tới kết thúc bình thường đời nó sau khi đã hoàn tất trọn vẹn hay rất gần như thế mọi điều nó có khả năng hoàn tất. Nhưng cái chết đến với con người lúc họ chưa thực sự hoàn tất, các tiềm năng của họ chưa thể hiện, các tài nguyên của nhân cách họ chưa được tận dụng trọn vẹn. Khả năng tinh thần con người để đạt tình bạn, đạt sự thật, đạt sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp, đạt việc soi sáng cho người khác và truyền bá hạnh phúc, phát triển kỹ thuật, thăng tiến luân lý, các kinh nghiệm mới và phong phú hóa, và muôn vàn điều khác, tất cả cái khả năng này, với cái chết, đã ra đi mà chỉ được thể hiện một phần. Và nghịch lý thay, nhân cách con người càng phát triển, thì xem ra cái chết càng đến bất chợt và phi lý hơn. Nếu Einstein sống lâu hơn, có lẽ ông đã có thể lên công thức cho sự đơn nhất nền tảng của mọi hiện tượng vật chất. Nếu Beethoven không chết sớm, nhiều hòa tấu khác đẹp đẽ hơn có lẽ đã phát khởi từ đầu óc tuyệt vời của ông. Nếu Thánh Tôma Aquinô sống lâu hơn, sự đóng góp của ngài vào kho tàng khôn ngoan của con người chắc chắn còn lớn lao hơn nhiều nữa.

Sự phi lý trên của sự chết cũng tự biểu lộ trong nỗi sợ hãi đặc biệt của con người đối với sự chết. Nỗi sợ hãi này không phải chỉ là bản năng sinh học muốn tự bảo tồn thân xác. Vì con người ý thức được một cách phản tỉnh và minh nhiên chính sự sống và sinh hoạt bản thân của mình, nên sự chết quả là một đe dọa đối với yếu tính họ ngay trong bình diện sâu sắc nhất. Việc tự chiếm hữu của con người trong nhận thức và việc họ tự cho đi trong yêu thương, tất cả xem ra đang chờ bị tiêu diệt trong cái chết. Chết xem ra là cái xấu tối cao đối với con người trong tư cách một ngôi vị. 

Các suy tư triết học về bản chất đặc biệt của linh hồn con người rất ít có khả năng làm dịu cái nỗi sợ hãi hùng này. Đúng là nơi con người, các hiện tượng như phản tỉnh có ý thức trọn vẹn về chính họ và các hoạt động của họ, nhận thức trừu tượng, phổ quát, và tất yếu, tự quyết tự do trong chọn lựa cố ý, tất cả đều cho thấy: nguồn gốc bên trong của các hoạt động này không phải là vật chất, cũng không chủ yếu lệ thuộc vật chất mới hiện hữu và hoạt động được; linh hồn con người có thể hiện hữu và hoạt động dù tách biệt với thân xác. Nhưng tình trạng tách biệt như thế phải bị coi là cưỡng chế (violent) và không tự nhiên. Không có điều gì con người hiện làm, không có mối tương quan nào họ có với thế giới vật chất và với người khác, mà lại không có một thành tố có tính thân xác từ nền tảng. Viễn ảnh hiện hữu và hoạt động một cách hoàn toàn từ bỏ mối liên kết này với vật chất xem ra hết sức đáng sợ, vô ích và hư ảo. 

c. Các quan điểm 

Đứng trước nan đề trên của sự chết, người ta có thể có hai thái độ: thái độ vô thần và thái độ tôn giáo. Người vô thần chấp nhận sự phi lý của cái chết nhân bản như là biểu hiện cho sự phi lý toàn diện của hiện hữu. Sự sống con người phải nói là không có mục tiêu hay số phận hợp lý thế nào, thì toàn bộ cơ cấu của thực tại cũng không giải thích hay có ý nghĩa nào như thế. Không cần phải đi tìm một nguyên lý hay nguyên nhân tối cao để giải thích điều ta trải nghiệm, vì điều ta trải nghiệm là vô lý, phi lý, không có khả năng để được giải thích. Thực vậy, theo quan điểm của con người, không có chỗ nào dành cho Thiên Chúa cả. Vì tinh thần của con người chỉ có thể sống với phi lý nếu nó có thể tạo ra các giá trị ở nơi không có một giá trị nào. Việc hiện hữu của Thiên Chúa sẽ bác bỏ sự tự do trọn vẹn của con người trong việc lập ra các mục đích và cố gắng đạt được các mục đích này, trong việc tự cho mình một yếu tính có thể làm cho nỗi thống khổ của cuộc hiện hữu phi lý trở thành chịu đựng được. Đó là chủ trương của thuyết hiện sinh vô thần hiện đại. 

Người tôn giáo chấp nhận sự phi lý của cái chết như là bằng chứng cho thấy họ không biết đầy đủ về toàn bộ. Họ thừa nhận rằng một chi tiết hay một thành phần, bất kể quan trọng và chính yếu đến đâu, xem ra cũng sẽ rất phi lý nếu xét nó một cách tách biệt khỏi tính toàn bộ mà nó vốn thuộc về. Việc họ nhìn nhận không có khả năng tự mình nắm được vấn đề sự chết đã chuẩn bị để họ chấp nhận từ mạc khải Thiên Chúa một giải đáp cho vấn đề này, một giải đáp kết hợp mọi khía cạnh của sống và chết mà họ từng quan sát được. 

2.Mầu Nhiệm Sự Chết

Mặc khải Thiên Chúa cho con người biết rằng nói chung, sự chết và sự chết đặc thù của mỗi cá nhân đều nằm trong kế hoạch sắp đặt đầy khôn ngoan và tình yêu hiến mình của Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của mạc khải này, sự chết trở nên một mầu nhiệm chứ không còn là một vấn đề. Nghĩa là: nó không còn là một tổng hợp các mâu thuẫn nữa, mà là một thực tại mà ý nghĩa trọn vẹn của nó đụng tới cõi vô biên và do đó, vượt quá sự thấu hiểu trọn vẹn của con người. Ở đây, ta không còn nhấn mạnh tới bóng tối và dấu kín nữa, mà nhấn mạnh tới ánh sáng và sự phong phú của điều được Thiên Chúa mạc khải cho con người.

Nhìn như trên, sự chết như một biến cố tự nhiên không những biểu lộ sự gần gũi của con người với vũ trụ vật chất, nó còn soi sáng cho mối liên hệ có tính yếu tính của họ với Thiên Chúa nữa. Họ nhìn ra sự khác biệt về yếu tính với Thiên Chúa và sự lệ thuộc hoàn toàn của họ vào Người. Một mình Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối bất tử; con người là loài tử sinh. Thiên Chúa tự do ban sự sống cho con người. Cũng thế, Người tự do lấy nó đi. Người là chúa tể hữu thể yếu tính của con người. Sự tự do và quyền chúa tể này không hàm nghĩa thất thường hay chuyên chế, nhưng chúng quả nhấn mạnh tới sự kiện này: số phận của con người, xét cho cùng, không nằm trong tay họ mà là nằm trong tay Thiên Chúa.

Điều trên đặc biệt có liên hệ với vấn đề sống còn của linh hồn con người sau khi thân xác họ chết. Mặc dù sinh hoạt có tính nhân bản chuyên biệt đã nhắc đến trên đây cho thấy nguyên lý của sự sống có khả năng hiện hữu và hoạt động tách biệt khỏi thân xác, nhưng bất cứ mưu toan nào nhằm quan niệm rằng sinh hoạt này có thể thực hiện bất cần các điều kiện thời gian và không gian vốn phát sinh từ thân xác thì mưu toan này đều rất ít thành công. Ở đây, con người phải sẵn lòng phó thác sự chết của mình cho Thiên Chúa như họ vốn phó thác sự sống của họ cho Người. Sự tín thác trước bóng đêm và tối tăm này là thái độ tôn giáo sớm sủa nhất của người Do Thái đối với sự chết.

Nhưng, trong trật tự lịch sử thực sự của sự vật, phản ứng của con người đối với sự chết như một điều phi lý và không được chào đón có cơ sở khá vững. Như Sách Khôn Ngoan từng dạy ta, “Vì Thiên Chúa không tạo nên sự chết, mà Người cũng không hân hoan trước cái chết... Thiên Chúa đã tạo nên con người để được bất diệt; Người đã tạo nên họ giống hình ảnh bản tính của Người. Nhưng vì sự ác ghen ghét, nên sự chết đã nhập vào thế giới” (1:13; 2:23-24). Sự chết là hậu quả của tội lỗi, của việc con người tự do chấp nhận sự cám dỗ của ma qủy. Thiên Chúa cho phép tội lỗi này và hậu quả của nó, và trong đức khôn ngoan đầy yêu thương của Người, Người rút sự tốt lành từ đó mà ra.

Sự chết, hậu quả của tội lỗi

Câu truyện dựng nên con người và sự sa ngã của họ trong Sáng Thế chương 2 và 3 thuộc các truyền thống tôn giáo lâu đời nhất của Israel. Tác giả thánh cố gắng giải thích hiện tượng tội lỗi và chết chóc phổ quát trong thế giới. Thiên Chúa là Chúa Tể sống động và thánh thiện, làm thế nào sự chết và sự dữ lại có thể có chỗ đứng trong công trình của Người được? Chúng không thể có trong kế hoạch và ý định nguyên thủy của Người được. Do đó, Thiên Chúa đã được mô tả như Đấng đặc biệt lưu ý tới việc tạo nên con người, thổi sự sống vào con người, phú ban cho họ một đời sống kết hợp thân mật với Người trong một điều kiện ngây thơ nguyên khởi. Sống là chia sẻ điều vốn thuộc quyền một mình Thiên Chúa hằng sống một cách viên mãn. Bao lâu con người còn duy trì được sự kết hợp này với Thiên Chúa hằng sống, không bao giờ họ đánh mất hồng ân sự sống. Nhưng nếu họ quay lưng khỏi Thiên Chúa trong bất phục, thì việc mất sự sống là điều không thể tránh được. Thần dữ cám dỗ con người tìm cách sống độc lập khỏi Thiên Chúa và con người đã chiều theo ảo tưởng này và tự làm mình ra xa lạ với Người. Kết quả, con người bị cắt đứt khỏi Thiên Chúa hằng sống và sa vào vòng hư nát và chết chóc. 

Sự hỗn loạn trên trở thành thân phận nguyên khởi của con người. Nó ảnh hưởng tới toàn bộ loài người, vì nó ảnh hưởng tới nguyên thủy của nòi giống. Bản tính con người như được truyền từ nguyên tổ tới mọi con người về sau mất đi mối liên kết với Thiên Chúa, mối liên kết vốn đảm bảo sự không hư nát và sự sống. Về phương diện lịch sử, sự nhất thiết phải chết của mọi người cho thấy không những sự gần gũi của con người với thế giới vật chất, mà cả sự thất bại của họ trong việc bám vào Người, Đấng vốn là sự sống. Và, trừ khi được Thiên Chúa ban phương thuốc cứu chữa, kinh nghiệm chết trong thân xác hẳn đã đóng ấn tín cho việc con người ra xa lạ với Thiên Chúa. 

Như thế, sự chết đơn giản không phải là một hình phạt chuyên chế của tội lỗi, một trong các cách khả hữu để thi hành công lý. Từ trong nội tại, sự chết liên kết với việc xa lìa Thiên Chúa. Quả thực, nếu con người không được mời gọi sống đặc biệt thân mật với Thiên Chúa, một việc vốn tạo ra trật tự siêu nhiên, thì sự chết, như một hiện tượng tự nhiên, đã không bị chứng tỏ là một sự lạc xa thánh Ý Chúa về phương diện luân lý. Nhưng, trong trật tự hiện nay của sự vật, tính bất tử của con người không thể tồn tại ở nơi tội lỗi đã cắt đứt gốc rễ tính bất tử ấy trong mối liên hệ của con người với Thiên Chúa; mà tính bất tử có lẽ cũng sẽ không mất bao lâu gốc rễ kia vẫn tồn tại.

Điều trên cũng giải thích chiều kích sâu sắc hơn của việc con người co rúm vì sợ chết. Do tội lỗi, con người không bao giờ đánh mất việc họ được sắp đặt cho một mục đích siêu nhiên, dù họ có đánh mất các tài nguyên bên trong đáng lẽ có thể dẫn họ tới mục đích này. Do đó, con người luôn duy trì được một sự sắp xếp nền tảng hướng tới tính bất tử ngay trong thân xác của họ. Bởi thế, nỗi sợ sự chết là một phản ứng phát sinh từ một ý thức có tính bản năng rằng họ có thể đánh mất số phận bất tử của mình.

Nơi những kẻ tội lỗi không được Chúa Kitô cứu chuộc, sự chết là một hình phạt không những vì tội nguyên tổ mà còn vì tội riêng chính họ phạm nữa. Không phải một bản tính nhân loại cụ thề chết, mà là một nhân vị độc đáo. Nếu nhân vị này, bằng các chọn lựa có chủ tâm, tự ý phê chuẩn việc xa lìa Thiên Chúa mà bản nhiên họ vốn thừa hưởng từ Ađam, thì vào lúc chết, họ sẽ sống thực việc xa lìa Thiên Chúa mà họ đã tự ý chọn làm kinh nghiệm bản thân của họ, làm kết quả của việc họ đã bác bỏ sự sống trong Thiên Chúa. 

Hình phạt mà sự chết mang theo có hai khía cạnh. Nó là việc hủy diệt thân xác và cô lập linh hồn. Hạnh phúc của con người không thể tìm thấy bên ngoài sự thống nhất và hòa hợp nội tâm của họ cũng như việc họ hòa hợp với toàn thể vũ trụ. Sự chết tiêu diệt cả hai phương diện này nơi kẻ tội lỗi. Qua việc hồn lìa khỏi xác và sau đó thân xác bị hủy hoại, sự thống nhất và hòa hợp nội tâm của con người sẽ không còn. Hơn nữa, linh hồn con người chỉ tự nhiên được lồng vào vũ trụ nhờ sự kết hợp của nó với thân xác, bằng cách tổ chức vật chất thành dụng cụ cho kinh nghiệm, cho việc phát triển và tự diễn tả của nó. Khi mất thân xác, sự hiện hữu của nó bị cô lập khỏi mọi sự vật khác, chỉ còn lại bơ vơ một mình không lối thoát trong chính sự bất toàn và tiềm năng chưa thể hiện của mình.

Sự chết của người có tội là một sự qui phục sau cùng đối với đế quốc Satan. Tội luôn mang theo mối tương quan nào đó với ảnh hưởng ma qủi; không phải vì mọi cơn cám dỗ đều trực tiếp phát xuất từ ma qủi, nhưng sự bất trung nguyên thủy của con người và việc họ đánh mất sự toàn vẹn bên trong quả là gợi ý của ma qủi và chính sự đánh mất này tiếp tục tự biểu lộ cách nào đó trong mọi cuộc nổi loạn về sau. Mỗi tội cá nhân là nối dài thêm sự hỗn loạn của ma qủi, và sự chết của người có tội biến điều kiện này thành ổn định và vĩnh viễn. Dĩ nhiên, người ta có thể lầm khi tưởng tượng vương quốc Satan như một quyền lực có thể điều hướng người ta hay các biến cố vào việc phục vụ các mục đích của nó; Satan, thực ra, chỉ thống trị theo nghĩa rút lại một điều gì đó khỏi mục đích tức khắc mà Thiên Chúa đã định cho điều này. Sự chết của người có tội sau cùng đã rút họ khỏi con đường trong đó Thiên Chúa vốn muốn tỏ mình Người ra trong họ và cho họ, đó là con đường cứu rỗi. Như thế, sự chết này quả là thành tích tối hậu của quyền lực ma qủi

Thánh Kinh mô tả bằng nhiều cách việc con người cần sự cứu rỗi. Họ được trình bầy như bị cầm tù hay câu thúc, bị làm nô lệ, lang thang lạc đường, mắc nợ, sống theo xác thịt (theo nghĩa yếu đuối của Thánh Phaolô, vì bị cắt đứt khỏi sức mạnh của Thiên Chúa), bệnh hoạn, sống trong bóng tối, lệ thuộc phù hoa. Nhưng tất cả các cách mô tả này cũng như nhiều lối mô tả khác chung qui có ý nói rằng con người tội lỗi là kẻ tử sinh, sống trong bóng sự chết, thực sự đã chết trong tội. Sự chết trong các lối mô tả này không hoàn toàn chỉ có nghĩa cái chết thể chất của thân xác hoặc cái chết thiêng liêng của linh hồn, mà là cái chết toàn diện vì nó ảnh hưởng tới trọn bản vị của con người. Như thế, sự cứu rỗi phải được hiểu là việc biến đổi thân phận tử sinh của con người, sự thay đổi từ chết qua sống. 

Việc Thiên Chúa quyết định cứu rỗi con người không có nghĩa Người xóa bỏ sự chết và giả vờ coi tội lỗi của con người như chưa bao giờ diễn ra. Việc Thiên Chúa tôn trọng tự do và sinh hoạt của tạo vật không bao giờ cho phép Người hành động như thể một biến cố thực sự nào đó chưa xẩy ra. Sự kiện con người phạm tội còn đó và các hậu quả của sự kiện này cũng còn đó. Nhưng Thiên Chúa có thể thay đổi ý nghĩa bên trong của các hậu quả này, và, chỉ miễn là con người sẵn lòng, thì căn cứ vào đó Thiên Chúa sẽ làm cho các hậu quả này có lợi cho hạnh phúc tối hậu của con người, chứ không có lợi cho sự hủy diệt tối hậu của họ. Sự thay đổi này không thể là một cách nhìn khác từ bên ngoài đối với sự chết, cũng không phải là một nối kết sự chết một cách võ đoán vào một số hậu quả hữu ích mà nó không hề có bất cứ tương quan nội tại nào. Đúng hơn, chính bản chất sự chết phải được thay đổi để nó có thể dẫn tới Thiên Chúa và sự sống, thay vì ra xa Người mà bước vào sự hủy diệt vĩnh viễn. 

Sự chết của Chúa Kitô

Để thể hiện sự biến đổi cái chết từ bên trong và thân phận con người này, Thiên Chúa đã sai Con của Người xuống thế gian “trong sự tương tự của xác thịt tội lỗi” (Rm 8:3). Con Thiên VChúa trở thành con người tử sinh; vô tội trong chính Người, Người mang lấy một bản tính vốn được tạo nên để chịu đau đớn và chết chóc vì tội lỗi con người. Khi tính vị kỷ, sự dốt nát, và ma quái của người đương thời buộc Người phải chết, Người tự ý và sẵn lòng chấp nhận cái chết trong một tinh thần yêu thương vâng theo thánh ý Cha Người. Nơi Chúa Kitô, sự chết, mà bản chất nội tại vốn đầy rẫy bất tuân và bác bỏ, nay tràn ngập yêu thương và tuân phục. Nó trở thành hành vi hiến tế, biểu lộ cách cao nhất việc hiến mình và từ bỏ mình hoàn toàn của Người. Tình yêu đầy thờ phượng này, một tình yêu vốn thuộc một Ngôi Vị Thiên Chúa, mang theo nó một quyền lực chuyển Chúa Kitô trong bản tính nhân loại của Người vào lãnh vực thần linh của sự sống và vinh quang bất tử. Việc Người hiến mình trong sự chết được Cha của Người chấp nhận, Đấng làm cho Người sống lại từ cõi chết và đổ đầy nơi Người sự sống không bao giờ chết của Chúa Thánh Thần. Sự chết bị nuốt chửng trong vinh thắng. Nơi Chúa Kitô, ý nghĩa sự chết đã hoàn toàn được biến đổi. Nó không còn có nghĩa việc con người phản loạn chống lại Thiên Chúa nữa; nay nó là dấu chỉ sự hiện diện của tình yêu cứu rỗi của Thiên Chúa trong trần gian. 

Điều quan trọng phải ghi nhận là: trong hành vi hiến tế của Người, Chúa Kitô không hành động như một cá nhân tư riêng nhưng như thầy cả thượng phẩm được Thiên Chúa thiết lập cho loài người. Người chịu chết vì con người, không theo nghĩa chịu hình phạt mà con người đáng phải chịu và nhờ thế thỏa mãnh các đòi hỏi vô bản vị của một lề luật bị vi phạm, mà theo nghĩa chia sẻ với các người đồng loại của Người sự chiến thắng Người giành được nhờ sự chết. Là Ađam mới, người tạo lập một nhân loại mới, tóm gọn trong Người toàn bộ giống nòi nhân loại, trở thành một với con người bằng thịt bằng máu, Người vì con người vâng lời cho đến chết. Nhờ thế, Người được Chúa Cha tôn vinh và đưa lên địa vị hoàn toàn hoàn hảo bên tay phải Thiên Chúa. Được hoàn hảo như thế, Chúa Kitô là nguồn cứu rỗi của con người, là nguyên lý Thần Khí, Đấng dẫn dắt con người trong tư cách con cái Thiên Chúa qua đau khổ và sự chết mà bước vào hưởng gia tài vĩnh viễn cùng với Chúa Kitô, Chúa chúng ta. Điều này có nghĩa: toàn bộ tình huống của con người sa ngã đã thay đổi. Họ không còn ngụ cư trong bóng sự chết nữa, mà ánh sáng sự sống chiếu soi trên họ. Vì giữa nòi giống nhân loại, nơi một trong các thành viên của nó đã chiến thắng sự chết và tội lỗi, có cả một nguồn sự sống vĩnh cửu đầy hiệu quả và không hề hư hại. 

Sự chết của Kitô hữu

Sự chết của người ở trong Chúa Kitô, sự chết của người Kitô hữu, do đó, cực kỳ khác với sự chết của người có tội, người chết trong Ađam. Đã đành sự chết mà họ đang tới gần vẫn tỏ ra đen tối và hãi hùng, vì nó vẫn là hậu quả của tội lỗi. Nhưng nay, sự chết không bị coi là hình phạt của tội lỗi nữa, vì không còn điều gì nơi người Kitô hữu đang sống trong Chúa Kitô bị lọt vào sự phán xét kết án của Thiên Chúa (xem Rm 8:1). Vì sự chết hoàn toàn có tính tự nhiên đối với con người, nên Thiên Chúa có thể để nó là thành phần của hiện hữu con người nhưng không vì thế hàm ý bất cứ sự bác bỏ hay thiếu yêu thương tha thứ nào, bất kể sự kiện này: theo lịch sử, sự hiện diện của nó vốn biểu thị cho sự kiện sa ngã của con người, còn nay sự chết biểu thị mục đích cứu chuộc của Thiên Chúa, và đối với Kitô hữu, cũng như đối với chính Chúa Kitô, nó trở thành một đối tượng để chấp nhận một cách khiêm nhường. Nó trở thành dịp để thể hiện sự sống Thiên Chúa một cách nồng nàn và tinh trong mà nó không thể đạt được cách khác. 

Sự biến đổi cái chết trong trường hợp Kitô hữu cá thể không hẳn là hậu quả tự động của sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Nó là kết quả tuyệt đỉnh của toàn bộ đời sống thiêng liêng và bí tích của người Kitô hữu, nhờ đó, lúc còn sống, họ đã mở lòng ra cho quyền lực Thiên Chúa, một quyền lực vốn hành động xuyên suốt đời sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và tiếp tục hoạt động trong nhân tính vinh hiển của Người. Điều này đặc biệt thấy rõ trong việc phát triển các nhân đức đối thần tin, cậy, mến, vốn tạo nên sinh hoạt yếu tính của đời sống thiêng liêng, và trong hậu quả của mọi bí tích, có thể chỉ trừ bí tích Truyền Chức và bí tích Hôn Phối, là các bí tích, trong tư cách các bí tích ơn gọi, có liện hệ trực tiếp nhiều hơn với cách sống của người Kitô hữu trong thế gian. 

Sự chết: Sự nên trọn của cuộc sống ơn thánh

Đức tin là sinh hoạt nền tảng của đời sống siêu nhiên, tức đời sống ơn thánh. Ở đây, con người mở lòng mình cho mạc khải cứu rỗi mà Thiên Chúa đã thực hiện trong và qua Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô. Nhờ đức tin, con người trả lời mạc khải này bằng hành vi hoàn toàn chấp nhận và hoàn toàn hiến dâng, chấp nhận từ Thiên Chúa ý nghĩa tối hậu của đời mình trong một định mệnh vượt quá sự hiểu biết của mình và các khả năng thực hiện từ bên trong của mình, và tự dấn thân bước tới việc thể hiện định mệnh này. Như thế, nhờ đức tin, con người tự hướng mình về một mục đích vốn vượt quá các giới hạn hữu hình của sự sống tử sinh này. Do đó, đức tin nhất thiết nói lên một thái độ đối với sự chết thể xác. Đối với tín hữu, sự chết đang tới gần là bức màn che dấu mục đích họ đã dấn bước tới. Sự chết không phải là thất bại, cũng không phải là tiêu diệt, hay tối hậu ra xa lạ với Thiên Chúa. Chính nhờ diễn ra nơi một con người mà tâm trí đã tin tưởng hướng về sự thật đời đời của Thiên Chúa, tự biểu lộ như Đấng Cứu Rỗi, nên kinh nghiệm sự chết nay có nghĩa việc vén mở thánh nhan Thiên Chúa. Đức tin được biến thành thị kiến. Đúng là những tội nhẹ hơn chưa được tha thứ hay một hình phạt chưa được đền trả cho các tội đã được tha thứ có thể triển hạn hậu quả trọn vẹn của việc biến đổi sau cùng này cho tới khi sự thanh tẩy hoàn tất; nhưng trong sự chết, nó đã được hoàn tất triệt để và chủ yếu rồi. Nếu linh hồn trong luyện ngục chưa được thấy tận mắt, thì nó cũng không thấy như trong gương mờ. Ánh sáng chói lọi của Thiên Chúa đã bắt đầu rõi chiếu trên nó một cách không thể lầm lẫn được nữa, và lời hứa sự rạng sáng sắp đến đã thể hiện trong cảm nghiệm, dù chưa có chứng cớ bề ngoài. Cũng có thể nói một điều như thế về đức cậy, đức mến và các bí tích. 

Đức cậy là sinh hoạt đang phát triển của đời sống siêu nhiên. Ở đây, con người, vì bị thách thức bởi các khó khăn và sự yếu đuối bên trong của họ, nên phải luôn dựa vào sự tốt lành, quyền lực và sự khôn ngoan lớn lao hơn của Thiên Chúa. Sự dựa vào này, lúc gặp thử thách, liên tục kéo họ tới gần Thiên Chúa hơn và làm cho sự sống thần linh nở rộ mạnh mẽ và tinh trong hơn. Nhưng tất cả các gian nan mà con người phải chịu và mọi sự yếu đuối bên trong mà họ cảm thấy ở trong đời đều tập trung trong biến cố chết thể xác. Không có đức cậy, con người chỉ có thể kinh qua sự chết trong vô vọng; không có trung điểm. Đối với những người mà trọn tín thác và sức mạnh của họ đều ở nơi Thiên Chúa, thì sự chết sẽ biến đổi sự tin tưởng chắc chắn của đức cậy thành niềm vui chiếm hữu. 

Sau cùng, đức mến là sinh hoạt hoàn hảo, chín mùi của đời sống siêu nhiên. Ở đây, con người đáp trả sáng kiến đầy yêu thương của Thiên Chúa bằng một hành vi tự hiến trọn vẹn và đồng hóa xúc cảm. Họ không còn sống cho họ nữa mà là sống cho Thiên Chúa, và cho Đấng đã chết và sống lại vì họ. Diễn trình từ bỏ mình để qua đó, con người cố gắng yêu Thiên Chúa với hết tâm, trí, sức lực và ý chí họ sẽ đạt tới chỗ hoàn toàn thể hiện trong biến cố chết thể xác hoàn toàn từ bỏ mình này. Đối với người biết yêu thương, giây phút tan rã này là giây phút hoàn thành tối hậu, trong đó, cùng với Chúa Kitô, họ phó linh hồn họ trong tay Thiên Chúa, Cha của Người.

Sự chết: việc hoàn tất các bí tích

Chính nhờ các bí tích mà con người bước một cách thấu đáo nhất vào quyền lực biến đổi của cuộc khổ nạn, sự chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Trong mỗi bí tích (ngoại trừ bí tích truyền chức thánh và bí tích hôn phối như đã nói trên đây), điều đã khởi sự khi lãnh nhận bí tích sẽ được hoàn hảo hóa trong kinh nghiệm chết của người Kitô hữu. Phép Rửa là một cuộc tái sinh siêu nhiên; nó là bước quá độ từ chết qua sống nhờ được mai táng và trỗi dậy với Chúa Kitô. Mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm được hoàn tất nơi Chúa Kitô, được áp dụng cho con cháu Ađam vốn bị nguyên tội nhiễm độc; nó chuyên chở họ từ bóng tối vào vương quốc Con yêu qúy của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được ban cho họ như lời đoan hứa, một khởi đầu thực sự của sự sống đời đời sắp tới. Đây là khởi đầu của cuộc hành trình mà đích điểm sẽ đạt tới qua kinh nghiệm sự chết. Việc con người được tích nhập vào sự chết của Chúa Kitô qua Phép Rửa là một chuẩn bị cho sự chết của chính họ qua đó sự tích nhập kia trở thành hoàn hảo và lâu dài. 

Thêm Sức là bí tích của việc trưởng thành Kitô Giáo. Thần Khí Chúa Kitô được ban cho không như ban cho một đứa trẻ mà như ban cho một thành viên đã trưởng thành của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Qua hồng ân này của Chúa sống lại, người Kitô hữu được lên sức mạnh để làm chứng bằng lời và việc làm cho thực tại hiện thời của vương quốc Chúa Kitô trong trần gian. Nhưng không ở nơi nào việc làm chứng này trọn vẹn bằng trong sự chết. Vì lý do này, những ai chịu chết vì lòng trung thành với Chúa Kitô được gọi là các vị tử đạo, mà nguyên ngữ Hy Lạp chỉ có nghĩa là nhân chứng, nhân chứng ngoại hạng. Nhưng, cũng như các vị tử đạo từng làm một cách đáng thán phục khi chịu mất mọi sự vì Chúa Kitô, cùng một việc làm chứng như thế đã được thực hiện, không kém trung thực tuy tầm thường hơn, trong việc hàng ngày sống thực đời sống Kitô hữu, và nhất là, trong việc tin tưởng chấp nhận sự chết ở cuối đường đời. Cuối cùng, mọi Kitô hữu chết trong Chúa Kitô đều đã hiến mạng sống mình cho đức tin; và sứ mệnh được trao phó cho họ lúc chịu Thêm Sức, nhờ đó, đã được hoàn thành một cách hoàn hảo. 

Việc cử hành Thánh Thể trong Thánh Lễ là thực tại của hành vi hiến tế chết và sống lại của Chúa Kitô được làm cho hiện diện và có tác dụng nơi con người, giúp họ hàng ngày biết liên kết mọi chuyển vần của cuộc sống họ với các chuyển vần của sự sống Người. Việc lãnh nhận Thánh Thể lúc Hiệp Lễ là tham dự vào sự sống của Lễ Vật hiển vinh, làm cho con người được cư ngụ nơi Người và Người cư ngụ nơi họ và hướng dẫn bản chất tử sinh của họ tới vinh thắng phục sinh tương lai. Như thế, qua Phép Thánh Thể, con người vừa liên tục đổi mới việc dâng hiến đời họ cho Thiên Chúa trong sự kết hợp với Chúa Kitô vừa được nuôi dưỡng bằng nhân tính hiển vinh của Người để hàng ngày sống thực việc dâng hiến này. Trong kinh nghiệm chết thực của họ, việc dâng hiến này, cuối cùng, đã hoàn toàn đạt được. Vì lý do này, trong truyền thống Giáo Hội, hơn bất cứ bí tích nào khác, Phép Thánh Thể là bí tích của người hấp hối. Của ăn đàng, theo truyền thống, vốn là lương thực của cuộc hành trình xuyên qua sự chết mà vào cuộc sống trường sinh trong tinh thần vâng phục và yêu thương đầy thờ lạy. 

Mặc dù lòng đạo bình dân từ thời Trung Cổ coi Phép Xức Dầu Bệnh Nhân là bí tích đặc biệt của người hấp hối, nhưng trong quan niệm lâu dài hơn của truyền thống Kitô Giáo, phạm vi của nó rộng hơn thế, cho dù người ta tập chú vào ý nghĩa đặc biệt của nó trong giờ chết. Bệnh tật là bằng chứng cho thấy sự thống trị của Satan đối với nhân loại do hậu quả của Sự Sa Ngã. Tân Ước phản ảnh quan điểm này, nhất là trong việc thuật lại các phép lạ chữa bệnh của Chúa Kitô. Theo đó, bệnh tật, nhất là bệnh nặng, có thể là thời gian thử thách lớn lao về thiêng liêng, khi các lực lượng của sự dữ hành động trên con người trong tình huống suy yếu, khiến họ ra uể oải trong việc thực hành yêu thương, chỉ chú ý đến mình và đòi hỏi khắt khe, lo lắng và mất tin tưởng vào tình yêu bền vững của Thiên Chúa dành cho họ. Trong thời điểm đặc biệt cần thiết này, Chúa Kitô đến với họ trong Phép Xức Dầu Bệnh Nhân để nâng tâm hồn họ lên và tăng sức cho họ. Như thế, rõ ràng là cơn bệnh sau cùng của họ là thời gian thử thách đặc biệt. Các Giáo Phụ và Công Đồng Trent dạy rằng giờ chết là giờ con người tranh đấu lớn lao lần cuối với ma qủy. Nếu Kitô hữu nào từng sống một cuộc sống trung thành sùng kính Thiên Chúa, Sa tan sẽ ráng lôi kéo họ ra khỏi lòng sùng kính này. Nếu họ từng sống một cuộc sống tắc trách và tội lỗi, ma qủy sẽ cố gắng củng cố họ trong việc ra xa lạ với Thiên Chúa bằng cách cám dỗ họ ngã lòng và làm lòng kiêu căng của họ ra chai đá thêm. Trong giờ phút này, Chúa Kitô đến với họ để trang bị cho họ trong cuộc chiến đấu này và khuyến khích họ qua Phép Xức Dầu Bệnh Nhân. Sự chết, do đó, trở thành giây phút bác bỏ tối hậu và đầy chiến thắng mọi quyền lực của Satan đối với con người. 

Thống Hối, bí tích tha các tội phạm sau Phép Rửa, được Chúa Kitô ban cho Giáo Hội vào ngày Người sống lại từ cõi chết. Nhờ nó, các Kitô hữu lấy lại được sự sống họ đã đánh mất vì các tội trọng bản thân phạm sau khi được tái sinh trong Chúa Kitô. Bí Tích Thống Hối có chức năng đặc biệt là làm cho hữu hiệu trước mặt Thiên Chúa cả sự buồn sầu vì tội lỗi mình của người Kitô Hữu lẫn các việc họ làm trong sự kết hợp với Chúa Kitô để đền bù cho các tội lỗi này. Vì các hậu quả của nó kéo dài trong đời sống hàng ngày của Kitô hữu, bí tích này không những che chở họ khỏi các tội tương lai mà còn biến đổi các đau khổ và việc làm trong đời thành sức mạnh canh tân thực sự, đền bù được sự hỗn loạn và vi phạm của tội lỗi bản thân. Điều này làm cho chính sự chết trở thành việc đền bù và đền tội cho các tội lỗi quá khứ. Thực vậy, cái chết được hoàn toàn chấp nhận trong kết hợp với Chúa Kitô có thể biến sự chết của Người ở trong mình thành của mình nhờ Phép Thống Hối. Điều này sẽ hoàn tất việc rửa sạch tội lỗi và làm cho luyện ngục không còn cần thiết. Mọi thứ tình yêu mình và dính bén vô trật tự sẽ biến mất, và tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa sẽ sản sinh ra hậu quả đầy đủ của nó trong hồng ân tức khắc là hưởng phúc sáng lạn. Việc hoàn toàn chấp nhận sự chết trong tinh thần thống hối, chủ yếu, không phải là việc làm của con người, mà là việc làm của Thiên Chúa nơi con người, sản sinh ra qua Bí Tích Thống Hối, được thực sự lãnh nhận hay trong ước muốn thành thực được lãnh nhận nhiệm cục tha thứ và thanh luyện này của Người. 

Sau cùng, mặc dù các bí tích ơn gọi, tức Hôn Phối và Truyền Chức Thánh, xem ra không sản sinh ra hậu quả trực tiếp trong sự chết, tuy nhiên, việc cam kết với Thiên Chúa sống cuộc sống phục vụ trong Giáo Hội mà các bí tích này thánh hiến đã được sự chết của người Kitô hữu đem đến kết thúc và được tiếp nối bằng một quan tâm phổ quát hơn đối với toàn bộ hiệp thông các thánh. 

Sự chết: Việc xuất hiện của Nước Thiên Chúa

Sự chết của người tội lỗi là một nối dài của đế quốc Satan thế nào, thì sự chết của người Kitô hữu là một bước tiến tới việc xuất hiện phổ quát của Nước Thiên Chúa như thế. Qua cái chết trong sự kết hợp với Chúa Kitô này, một phạm vi của sáng thế đã vĩnh viễn được cứu vớt khỏi quyền lực sự dữ và sẵn sàng được nhập vào nước cánh chung của tình yêu Thiên Chúa. Đối với chính cá nhân, sự sống đời đời đã dứt khoát bắt đầu. Việc được lồng vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô trong thời kỳ trước đó chỉ có tính phôi thai. Thần Khí được lãnh nhận và chiếm hữu lời đoan hứa cuộc sống vĩnh cửu như các hoa trái đầu tiên. Theo quan điểm con người, tất cả các điều này đều mỏng manh và tạm thời. Nhưng giờ đây, sự chết đã làm cho việc lồng vào này trở thành dứt khoát; Chúa Thánh Thần được chiếm hữu một cách không thể nào còn mất được nữa. 

Ngoài ra, biến cố này vượt quá phạm vi cá nhân, đụng tới việc thể hiện tối hậu, toàn diện, và không thể thất bại sự khôn ngoan, quyền lực, và tình yêu Thiên Chúa trong thành thánh các người được chúc phúc, tức vương quốc đời đời của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Chúa và là Đấng Cứu Rỗi ta. Từng viên một, các viên đá sống động của Giêrusalem thiên giới, được chuẩn bị sẵn sàng cho tới ngày tận cùng và Chúa Con sẽ dâng nước này lên Chúa Cha. 

Cũng vì lý do trên, việc chia lìa do cái chết đem lại không toàn diện và tuyệt đối như người ta tưởng. Đã đành, ngay trong trường hợp Kitô hữu, sự chết vẫn phá hủy mọi mối liên hệ quen thuộc với người khác. Nhưng đây không hề muốn nói: sự cô lập khủng khiếp này là một hình phạt tội lỗi. Vì sự chết trong Chúa Kitô không chỉ thâm hậu hóa và củng cố cuộc sống siêu nhiên, mà nó còn thâm hậu hóa và củng cố các mối liên hệ mà Kitô hữu vốn có với mọi người khác ở trong Chúa Kitô. Sự chết của Kitô hữu là khởi đầu của việc kết hợp tối hậu với Chúa Kitô, của sự hiện diện đầy thân mật với Chúa Kitô, nơi Người, mọi người đã trở nên một. Điều này có nghĩa: được kết hợp một cách đầy hiểu biết và yêu thương hỗ tương với mọi người đã chết trong Chúa Kitô. Điều này cũng có nghĩa: được liên hệ mới mẻ trong yêu thương với mọi người mà sự sống vẫn còn đang bị thử thách, mà giây phút cam kết cuối cùng trong sự chết vẫn còn cần được thể hiện. 

Sau cùng, cái chết của Kitô hữu đã được liên kết với sự phục sinh của thân xác. Vì sự tan rã của việc kết hợp thể xác trong yêu thương và vâng lời đã mở cửa cho linh hồn đón nhận sự viên mãn của Thần Khí Chúa Kitô. Chính Thần Khí cư ngụ này, nay đang lên năng lực trọn vẹn cho linh hồn, sẽ ban quyền lực của Người cho cả thân xác phục sinh. Linh hồn được vinh quang biến đổi sẽ là dụng cụ thích đáng để quyền lực Chúa Kitô làm cho thân xác trỗi dậy từ cõi chết. Nó chỉ chờ đợi lời ra lệnh, lời quả quyết rằng công trình của Thiên Chúa đã hoàn tất, cùng đích đã vươn tới, và nước trời đã đến.

Như thế, hiện tượng chết nói lên một cách hữu hình một mặt của mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô đang được tái tạo trong sự sống của người Kitô hữu. Mặt kia, mặt mà nó có liên hệ nội tại, là việc phục sinh thân xác của người chết, một sự biến đổi được thực hiện bởi việc Chúa Kitô đã làm cho thân xác thấp hèn của con người đồng hình đồng dạng với thân xác vinh hiển của Người nhờ uy quyền Người vốn có trong việc bắt mọi sự phải quy phục Người khi phái Thần Khí ban sự sống tới. 

(Kỳ sau: III. Cái hiểu thần học về mầu nhiệm sự chết)

Vũ Văn An

(Nguồn: Vietcatholic.net)