ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ - ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG

19/02/2025
26

WHĐ (18/02/2025) - Trong bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Loan Báo Tin Mừng’, sau phần ‘Khái Niệm Loan Báo Tin Mừng’, các phần tiếp theo là: (1) Tiên Báo Về Đức Giê-su Trong Cựu Ước, (2) Đức Giê-Su Loan Báo Tin Mừng Trong Tân Ước, (3) Giáo Hội Loan Báo Tin Mừng, (4) Theo Đức Giê-su - Đường Loan Báo Tin Mừng và (5) Khó Khăn Trong Việc Loan Báo Tin Mừng.
 

NỘI DUNG CHÍNH

Dẫn Nhập

Khái niệm Loan báo Tin mừng

I. TIÊN BÁO VỀ ĐỨC GIÊ-SU TRONG CỰU ƯỚC

II. ĐỨC GIÊ-SU LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG TÂN ƯỚC

2.1 Tin mừng Nước Thiên Chúa

2.2 Chúa Thánh Thần trong việc Loan báo Tin mừng

2.3 Các môn đệ Đức Giê-su loan báo Tin mừng

III. GIÁO HỘI LOAN BÁO TIN MỪNG

3.1 Căn tính Giáo hội Loan báo Tin mừng

3.2 Đời sống Giáo hội Loan báo Tin mừng

3.3 Sứ mệnh Giáo hội Loan báo Tin mừng

IV. THEO ĐỨC GIÊ-SU - ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG

4.1 Tân Loan báo Tin mừng

4.2 Hội nhập văn hóa như là Loan báo Tin mừng

4.3 Đối thoại liên tôn như là Loan báo Tin mừng

5. KHÓ KHĂN TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG

Kết luận

 

Dẫn Nhập

Là con người, ai cũng muốn nghe tin mừng hơn là tin dữ, tin tốt hơn là tin xấu, tin vui hơn là tin buồn. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của muôn vật muôn loài trong vũ trụ. Phẩm giá con người cao quí vì con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhưng con người đã phạm tội và hậu quả là con người trở thành nô lệ tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa hằng yêu thương con người bằng tình yêu vô điều kiện. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa đã trở thành con loài người, giống con người mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa ở giữa thế gian để cứu độ và giải thoát con người: Đây là Tin Mừng lớn lao cho mọi người trong gia đình nhân loại.

Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết trong hành trình trần thế của Đức Giê-su, nhất là ba năm rao giảng công khai, Người đã thể hiện căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thực thi chương trình của Thiên Chúa. Ưu tiên của Đức Giê-su khi loan báo Tin Mừng là chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, công bố ơn tha thứ và sự sống vĩnh cửu cho những ai thành tâm đến với Người. Tin Mừng của Người là Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một để ai hiệp nhất nên một với Người trong hành trình trần thế thì được cùng Người chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Các trình thuật Tân Ước cho chúng ta biết ngay từ buổi đầu loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã chọn Nhóm Mười Hai để họ ở lại với Người, học hỏi từ Người và cùng Người loan báo Tin Mừng cho muôn dân nước.

Trong bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Loan Báo Tin Mừng’, sau phần ‘Khái Niệm Loan Báo Tin Mừng’, các phần tiếp theo là: (1) Tiên Báo Về Đức Giê-su Trong Cựu Ước, (2) Đức Giê-Su Loan Báo Tin Mừng Trong Tân Ước, (3) Giáo Hội Loan Báo Tin Mừng, (4) Theo Đức Giê-su - Đường Loan Báo Tin Mừng và (5) Khó Khăn Trong Việc Loan Báo Tin Mừng.

 

Khái niệm Loan báo Tin mừng

Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sứ mệnh của Thiên Chúa (Missio Dei) đối với con người và toàn thể thế giới thụ tạo được thực hiện bởi sứ mệnh của Đức Ki-tô (Missio Christi) trong sứ mệnh của Chúa Thánh Thần (Missio Spiritus). Sứ mệnh này được tiếp tục bởi các Tông Đồ (Missio Apostolorum) và Giáo Hội (Missio Ecclesiae) trong hành trình lịch sử nhân loại. Nói cách khác, tất cả các hình thức loan báo Tin Mừng theo dòng lịch sử cần được nhìn nhận dưới nhãn quan sự quan phòng của Chúa Ba Ngôi đối với con người cũng như muôn vật muôn loài: Được khởi sự bởi Chúa Cha qua Chúa Con trong Chúa Thánh Thần tới các môn đệ và diễn tiến trong Giáo Hội cho đến tận thế.

Hạn từ Tin Mừng (Good News) được dịch từ tiếng Hy-lạp ‘Εὐαγγέλιον/ Euangelion’. Từ này kết hợp bởi ‘εὐ-’ (eu), nghĩa là tốt (good) và ‘ἄγγελος/ ángelos/ sứ giả (messenger) hay sứ điệp (message)’ bởi động từ ‘ἀγγέλλω/ angéllō’nghĩa là loan truyền (to announce), công bố (to proclaim). Khi kết hợp với nhau, chúng trở thành ‘Εὐαγγέλιον/ Euangelion’, nghĩa là Tin Mừng. Các ngôn ngữ hiện đại thường dịch từ này theo hai cách: (1) Phiên âm thuật ngữ Hy-lạp: Εὐαγγελιον/ Evangelium (La-tinh), Evangelo hay Vangelo (Ý), Évangile (Pháp); (2) Dịch nghĩa thuật ngữ kết hợp ‘Εὐ-ἄγγελιον’: Bonne Nouvelle (Pháp); Good News hoặc phổ biến hơn là Gospel (Anh); trong tiếng Việt ‘Tin Mừng’ hoặc ‘Phúc Âm’ (gốc Hán). Động từ ‘εὐαγγελίζω/ euangelizō’ với nghĩa là rao giảng/ loan báo Tin Mừng hay truyền giảng Tin Mừng (to evangelize the Good News, to proclaim the Good News, to preach the Gospel) có gốc liên quan đến danh từ ‘Εὐαγγέλιον/ Euangelion’. Động từ của danh từ La-tinh ‘Evangelium’ là ‘evangelizare’ với nghĩa là đem Tin Mừng hoặc loan báo Tin Mừng cho mọi người. Như vậy, loan báo Tin Mừng nghĩa là loan báo điều tốt, sứ điệp tốt hoặc tin vui, tin bình an, tin hạnh phúc. Đặc biệt, sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập rất đa diện, do đó, không có định nghĩa hay hình thức liệt kê nào có thể khái quát được sứ mệnh cao cả và thánh thiêng này.

Trọng tâm của việc loan báo Tin Mừng là lời của Thiên Chúa, lời quyền năng và huyền nhiệm, chẳng hạn: Lời của Thiên Chúa tác thành vạn vật (Kn 9,1); lời làm nên chín tầng trời (Tv 33,6); lời luôn bền vững (Is 40,8); lời trở thành ngọn đèn soi bước (Tv 119,105); lời làm cho con người được sống (Mt 4,4); lời là thần khí và là sự sống (Ga 6,63); lời là sự thật thánh hóa các môn đệ (Ga 17,17); lời chữa lành (Mt 8,8); lời làm cho kẻ chết sống lại (Ga 11,43-44); lời làm cho bánh và rượu trở thành Mình và Máu Đức Giê-su (Lc 22,19-20); ở lại trong lời thì trở thành môn đệ Đức Giê-su (Ga 8,31); trời đất qua đi nhưng lời tồn tại (Mt 24,35); lời trục xuất ma quỷ (Mc 1,25-26); lời làm cho trời yên biển lặng (Mc 4,39); lời biến đổi thân phận con người (Mt 4,19); lời biến đổi trật tự tự nhiên (Ga 2,7-9). Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: Xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa” (Dt 4,12-13). Hơn nữa, bao trùm lên tất về ‘lời’ được thánh Mác-cô diễn tả trong câu đầu tiên: “Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Văn phạm Hy-lạp (thuộc cách/ genitive) cho thấy Tin Mừng ở đây là ‘Tin Mừng của Đức Giê-su’, Tin Mừng về Đức Giê-su’ và ‘Đức Giê-su là Tin Mừng’ được biểu lộ nơi căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người.

Trong bài suy niệm tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ XIII với chủ đề ‘Tân Loan Báo Tin Mừng Để Truyền Đạt Đức Tin Ki-tô Giáo’ (8.10.2012), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI khẳng định: “Tin Mừng có nghĩa là: Thiên Chúa phá vỡ sự im lặng của Người, Thiên Chúa phán dạy, Thiên Chúa hiện hữu. Chính sự thật này là ơn cứu độ: Thiên Chúa biết chúng ta, Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Người bước vào lịch sử. Đức Giê-su là Lời của Người, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là Thiên Chúa cho chúng ta thấy rằng Người yêu thương chúng ta, rằng Người chịu đau khổ với chúng ta cho đến chết và sống lại. Đây là Tin Mừng. Thiên Chúa phán dạy, Người không còn là Đấng xa lạ, nhưng đã tỏ mình ra, và đây chính là ơn cứu độ.” Quả thực, Thiên Chúa luôn hiện diện trong môi trường thế giới thụ tạo, trong môi trường con người theo nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, nhờ sự vâng phục của Đức Giê-su, Thiên Chúa đi vào lịch sử, Thiên Chúa hiện diện ‘bằng xương bằng thịt’ để thông dự sự sống con người và cho phép con người đến với Thiên Chúa theo cách cụ thể và thân mật nhất.

Tin Mừng Đức Giê-su loan báo là Tin Mừng Nước Thiên Chúa hay Triều Đại Thiên Chúa. Trình thuật của thánh Mác-cô cho chúng ta biết lời đầu tiên của Đức Giê-su khi công khai loan báo Tin Mừng là: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). ‘Thời kỳ đã mãn’ (πεπλήρωται ὁ καιρὸς) mà Đức Giê-su nói ở đây không mang nghĩa ‘thời gian tâm lý’ hay thời gian theo trình tự lịch sử (χρόνος/ chronos) mà là thời gian theo nghĩa ‘cơ hội’, ‘dịp’, ‘biến cố’, chẳng hạn như chúng ta nói rằng ‘đúng thời’, ‘đúng buổi’: Thời kỳ Thiên Chúa hành động, thời kỳ Thiên Chúa hiện diện giữa gia đình nhân loại để nối kết con người với Thiên Chúa, nối kết con người với nhau và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Đây cũng là ‘thời kỳ hay cơ hội’ để con người gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe lời của Thiên Chúa và hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Giê-su cho mọi người biết Nước Thiên Chúa đến với con người và con người được mời gọi hoán cải. Để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa, con người cần cộng tác với Người để biến đổi tâm trí mình sao cho phù hợp với Tin Mừng mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng bằng đời sống của Người.

Trong những thập niên hậu bán thế kỷ XX, khái niệm ‘tân loan báo Tin Mừng’ hay ‘loan báo Tin Mừng theo hình thức mới’ (new evangelization/ nouvelle évangélisation) trở nên khá phổ biến trong đời sống Giáo Hội. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8). Điều này có nghĩa rằng nội dung Tin Mừng Đức Giê-su không thay đổi trong không gian, thời gian hay bất cứ môi trường nào đó của xã hội loài người. Thánh Phao-lô khẳng định: “Dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” (1 Cr 15,11). Tuy nhiên, cách thức loan báo Tin Mừng cần được thực hiện sao cho phù hợp với tâm thức của người đương thời trong các nền văn hóa. Chính thánh Phao-lô quả quyết: “Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái… Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật” (1 Cr 9,20-21). Đức Giê-su luôn mời gọi các môn đệ của Người loan báo Tin Mừng và Người hứa ở cùng các ngài cho đến tận thế. Do đó, các môn đệ Đức Giê-su cần phải quan tâm nhiều hơn bối cảnh nơi Tin Mừng được loan báo. Điều này có nghĩa rằng không thể áp dụng cùng cách thức loan báo Tin Mừng cho mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi. Chẳng hạn, việc loan báo Tin Mừng trong các nền văn hóa, xã hội in đậm cảm thức thánh thiêng không cùng cách thức với việc loan báo Tin Mừng trong các nền văn hóa nặng về thế tục hay chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tương đối (relativism), chủ nghĩa tiêu thụ (consumerism) hay chủ nghĩa thực dụng (pragmatism).

Trong Tông Huấn ‘Loan Báo Tin Mừng’, thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI khẳng định: “Sứ điệp Tin Mừng thật cần thiết, duy nhất mà không gì có thể thay thế được. Sứ điệp Tin Mừng không chấp nhận sự lãnh đạm, sự dung hợp và một thêm bớt nào. Vì chính đây là vấn đề cứu rỗi của con người. Chính nó thể hiện vẻ đẹp của mạc khải. Nó mang sự khôn ngoan không thuộc về thế gian này. Tự nó có thể khơi dậy đức tin, một đức tin dựa trên quyền năng của Thiên Chúa” (Evangelii Nuntiandi 5). Trong Tông Thư ‘Ubicumque et Semper’ (2010) Thiết Lập Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Tân Loan Báo Tin Mừng (the Pontifical Council for Promoting the New Evangelization), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI viết: “Căn nguyên của mọi công cuộc loan báo Tin Mừng không phải là một kế hoạch mở rộng của con người, mà là khát khao chia sẻ món quà vô giá mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta, để chúng ta được thông phần vào chính sự sống của Người”. Đặc biệt, trong diễn văn trước các tham dự viên của Đại Hội Toàn Thể thuộc Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Tân Loan Báo Tin Mừng (30.5.2011), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI nói: “Thuật ngữ ‘Tân loan báo Tin Mừng’ nhắc nhở về nhu cầu cần có một cách thức loan báo mới mẻ, đặc biệt dành cho những người sống trong bối cảnh như ngày nay, khi sự phát triển của thế tục hóa đã có tác động nặng nề, ngay cả ở những quốc gia truyền thống Ki-tô Giáo”.

 

I. TIÊN BÁO VỀ ĐỨC GIÊ-SU TRONG CỰU ƯỚC

Hai trình thuật sáng tạo ở chương một và chương hai sách Sáng Thế cho chúng ta biết Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài trong tình trạng tốt lành. Đặc biệt, con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người vừa là trung tâm vừa là tột đỉnh của chương trình Thiên Chúa sáng tạo. Tuy nhiên, sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết con người đã vô ơn, kiêu ngạo và tội lỗi đã thâm nhập trần gian. Thế nhưng, chương trình tình yêu của Thiên Chúa không thay đổi bởi vì Người đã ‘loan báo tin mừng’: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Trích đoạn này thường được gọi là ‘tin mừng đầu tiên’ hay ‘phúc âm đầu tiên’ (protoevangelium) của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại rằng quyền lực của Xa-tan thật mạnh nhưng tình yêu Thiên Chúa còn mạnh hơn: Xa-tan sẽ bị đánh bại bởi ‘dòng giống người nữ’ là Đức Giê-su.

Trình thuật sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết Thiên Chúa đã kêu gọi Nô-ê và ông đã tuân phục huấn lệnh của Người, nhờ đó ông và những người thân thuộc của ông khỏi bị nước lũ tiêu diệt. Ông được gọi là ‘A-đam mới trong Cựu Ước’. A-đam cũ bất tuân phục Thiên Chúa còn A-đam mới thì tuân phục. Ông đã làm theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa trong việc đóng tàu để cả gia đình mình được sống (St 6,1-14); đem các sinh vật vào tàu (St 7,2-3); cùng với những người trong gia đình (St 7,7). Sau cơn hồng thủy, Nô-ê và mọi người trong gia đình ra khỏi tàu (St 8,15-18). Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Nô-ê qua biểu tượng ‘gác cây cung lên mây’. Đây là giao ước mang tính hoàn vũ, vô điều kiện và bền vững: “Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất” (St 9,16). Sách Sáng Thế cũng cho chúng ta biết Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham và ông đã lắng nghe và thực thi sứ mệnh của Thiên Chúa: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi… Ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông” (St 12,1-4).

Khi Thiên Chúa kêu gọi Áp-ram (sau này được Thiên Chúa đổi tên thành Áp-ra-ham) cũng là khi Thiên Chúa báo cho ông biết: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Thiên Chúa của Áp-ra-ham cũng là Thiên Chúa của mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta gặp nhiều trình thuật minh chứng điều đó. Chẳng hạn, tác giả Thánh Vịnh viết: “Toàn thế giới, muôn người nhớ lại và trở về cùng Chúa. Mọi dân tộc dưới trần phủ phục trước Tôn Nhan. Bởi vì Chúa nắm quyền vương đế, Người thống trị chư dân” (Tv 22,28-29). Tương tự như thế, nhiều trình thuật trong các sách Ngôn Sứ cũng cho chúng ta biết điều đó: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Nước nước dập dìu đưa nhau tới, dân dân lũ lượt kéo nhau đi. Rằng: Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa” (Mk 4,1-2) hay: “Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56,7).

Nhiều trình thuật trong các sách Ngũ Thư, các sách Lịch Sử, các sách Khôn Ngoan, các sách Ngôn Sứ loan báo về sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng trần thế. Đặc biệt, một số nhân vật điển hình trong Cựu Ước, chẳng hạn như Men-ki-xê-đê, I-xa-ác, Giu-se, Mô-sê, Đa-vít giúp chúng ta hiểu biết hơn về Đức Giê-su trong Tân Ước. Sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại được tiên báo trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14); “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 9,5) hay: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11,1-2).

Sách ngôn sứ I-sai-a loan báo tin mừng và gợi lên trong chúng ta khuôn mặt Đấng Mê-si-a thật cao cả và hùng mạnh: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6). Đồng thời, Đấng Mê-si-a phải gánh chịu những đau khổ cùng cực vì con người: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53,5). Những trích đoạn này tiên báo về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mọi người trong tình trạng Người là Đấng đáng được xót thương nhất.

 

II. ĐỨC GIÊ-SU LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG TÂN ƯỚC

2.1 Tin mừng Nước Thiên Chúa

Sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng trần thế là niềm vui của toàn thể nhân loại. Niềm vui này được sứ thần Gáp-ri-en loan báo cho Đức Ma-ri-a trong Biến Cố Truyền Tin: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28). Đức Ma-ri-a không giữ niềm vui cho riêng mình nhưng đã vội vã ra đi loan báo. Khi vừa đón Đức Ma-ri-a đến viếng thăm, bà Ê-li-sa-bét nói: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1,44). Tại nhà bà Ê-li-sa-bét, Đức Ma-ri-a cất lên bài ca ‘Ngợi Khen’ (Magnificat, Lc 1,46-55). Trong biến cố Giáng Sinh của Đức Giê-su, sứ thần Thiên Chúa báo với những người chăn chiên ngoài đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11). Khi Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa, ông Si-mê-ôn đã cất lên bài ca ‘An Bình Ra Đi’ (Nunc dimittis, Lc 2,29-32). Quả thực, Thiên Chúa ban tặng Đức Giê-su là Vầng Đông, là Ánh Sáng cho gia đình nhân loại để mọi người được hưởng niềm vui, bình an và hạnh phúc chân thật giữa muôn hình thức tăm tối của thế sự.

Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa lòng trần thế, Thiên Chúa không chỉ là Hữu Thể thiêng liêng, vô thủy, vô chung, trừu tượng nữa mà đã ‘trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’ (Ga 1,14). Đức Giê-su đã ‘trút bỏ vinh quang’, mang lấy thân phận con người, nối kết với con người, hiệp nhất nên một với con người. Nói cách khác, nơi Đức Giê-su, Thiên Chúa kéo con người đến cùng Thiên Chúa. Bởi vì, theo ngôn ngữ của thánh Au-gút-ti-nô (354-430), vì tội lỗi, con người ở ‘ngoài chính mình’ trong khi Thiên Chúa lại ở trong. Nhờ Đức Giê-su, con người không còn ‘ở ngoài mình nữa’ vì Người đã kéo con người vào trong, vào với mình, vào với Thiên Chúa. Quả thực, nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đã ‘ra khỏi chính mình’, Thiên Chúa đã đi vào lịch sử, đã trở thành thành phần của lịch sử. Nhờ Đức Giê-su, con người có thể nghe, thấy, đụng chạm và thiết lập tương quan mật thiết với Thiên Chúa (1 Ga 1,1).

Sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại! Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1; Mt 4,15-16). Nhờ sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su là Thiên Chúa thật và con người thật, gia đình nhân loại bước sang trang sử mới vì ánh sáng của Người chiếu rọi mọi ngõ ngách của cuộc sống trần đời. Hơn thế nữa, Đức Giê-su còn dùng hình ảnh mạnh mẽ và sống động hơn, chẳng hạn như: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12) hay: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49). Ở đây, Đức Giê-su không chỉ loan báo Tin Mừng cho người Do-thái mà còn cho cả dân ngoại bởi vì mọi người ‘đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng’. Đức Giê-su là Ánh Sáng giữa thế gian tăm tối mịt mù.

Các trình thuật Tin Mừng cũng cho chúng ta biết sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su chính là sự hiện diện và hoạt động của Nước Thiên Chúa. Hơn ai hết, Đức Giê-su cho mọi người biết điều này, chẳng hạn: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12,28; Lc 11,20). Cùng ngữ cảnh là Đức Giê-su trừ quỷ vương Bê-en-dê-bun nhưng trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết Đức Giê-su không dùng hạn từ ‘Nước Thiên Chúa’ nhưng người nói: “Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó” (Mc 3,27). Như vậy, Đức Giê-su mạnh hơn quỷ vương Bê-en-dê-bun, Người ‘trói quỷ vương’ và điều này cũng cho chúng ta nhận thức rằng sức mạnh của Đức Giê-su là sức mạnh của Thiên Chúa, sự hiện diện của Đức Giê-su là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa. Nhờ đó, Người giải thoát những ai bị sức mạnh của Xa-tan kìm hãm và cho họ được sống trong tình yêu của Thiên Chúa.

Tin Mừng của Đức Giê-su là Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khó. Câu hỏi đặt ra: ‘Ai là người nghèo khó?’ Theo nghĩa rộng, mọi người trong gia đình nhân loại đều là người nghèo khó bởi vì mọi người đều cần đến lòng Chúa thương xót. Theo nghĩa hẹp, người nghèo khó là người thiếu thốn điều kiện vật chất và tinh thần hay những người bị lãng quên hoặc bị đặt bên lề xã hội. Đặc biệt, người nghèo khó là người mà phẩm giá của họ dễ bị tổn thương hay bị xâm phạm, chẳng hạn như những người không đủ điều kiện sinh sống tối thiểu, những người bị bệnh tật về thể chất hay tinh thần, những người bị loại trừ hay bị bỏ rơi trong xã hội; những người bị vu oan giáng họa. Thông thường, con người đối xử với nhau theo ‘cảm tính’ hơn là theo cách thức Đức Giê-su thực thi trong hành trình trần thế của Người. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su cảm nhận được tâm hồn tan nát của những người nghèo khó, những người mà tiếng kêu của họ thường bị lãng quên.

Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su, Nước Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong không gian, thời gian. Tuy nhiên, Nước này luôn siêu việt không gian, thời gian. Nước Thiên Chúa là thực tại nhiệm mầu bởi vì thực tại này vừa hiện diện, vừa sống động, vừa không ngừng lớn lên giữa gia đình nhân loại. Tương quan giữa người với người trong Nước Thiên Chúa vượt quá mọi giới hạn các tương quan mà con người có được theo kinh nghiệm giữa thế giới thụ tạo. Vương Quốc Thiên Chúa là cho mọi người trong gia đình nhân loại: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời” (Mt 8,11). Các thành của dân ngoại được xét xử khoan hồng hơn những thành thuộc dân Do-thái nhưng không lắng nghe giáo huấn của Đức Giê-su (Mt 11,21-24). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su loan báo rằng mọi dân khắp thiên hạ sẽ hiện diện trong cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Hành trình loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su là hành trình tiệm tiến từ dân Do-thái tới dân ngoại. Chẳng hạn, khi sai mười hai môn đệ loan báo Tin Mừng, Người nói: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần” (Mt 10,6-7). Ở Mt 15,24, Đức Giê-su cũng nói rằng Người đến với những con chiên lạc của Ít-ra-en. Đây là cách mà thánh Mát-thêu dùng để diễn tả rằng Thiên Chúa luôn trung thành với Giao Ước đã ký kết với dân Ít-ra-en, Giao Ước được thực hiện nơi Đức Giê-su. Quả thực, dù dành ưu tiên cho dân Ít-ra-en, dần dần, Đức Giê-su cho mọi người biết Người đến với ‘muôn dân’, chẳng hạn như Người đến chữa đầy tớ của viên đại đội trưởng (Lc 7,1-10); Người chữa con gái một bà gốc Phê-ni-xi, xứ Xy-ri (Mc 7,24-30). Trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an, Đức Giê-su nói cho mọi người biết: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).

Dưới nhãn quan các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm, những lời cuối cùng của Đức Giê-su phục sinh trước khi về trời là những lời liên quan đến việc ‘loan báo Tin Mừng khắp thế gian’. Chẳng hạn, thánh Mát-thêu viết: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,18-19); thánh Mác-cô viết: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15); thánh Lu-ca viết: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,46-48). Các môn đệ đã thấm nhuần những lời trăng trối của Đức Giê-su và đã ra đi loan báo Tin Mừng, đồng thời, làm chứng cho Tin Mừng bằng chính cuộc sống hy sinh gian khổ của mình. Chẳng hạn, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô đã chịu tử đạo để minh chứng cho đức tin mà các ngài đã đón nhận, sống và loan báo.

 

2.2 Chúa Thánh Thần trong việc Loan báo Tin mừng

Chúa Thánh Thần luôn hiện diện với Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người. Chẳng hạn, trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết trong biến cố truyền tin: Đức Ma-ri-a ‘chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần’ (Lc 1,35). Khi Đức Giê-su chịu phép rửa, Thần Khí của Thiên Chúa như chim bồ câu ngự xuống trên Người (Mc 1,9-11). Thần Khí hiện diện cùng Đức Giê-su khi Người chịu cám dỗ bốn mươi ngày trong sa mạc (Mc 1,12). Sau khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giê-su trở về Ga-li-lê loan báo Tin Mừng. Thánh Lu-ca trình thuật: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh” (Lc 4,14-15). Trong diễn từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su nói: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6,63). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,16-17). Sau khi phục sinh, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).

Thánh Lu-ca trình thuật rằng, trong hội đường Na-da-rét (nơi Đức Giê-su sinh trưởng), người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19; Is 61,1-2). Đồng thời, Đức Giê-su nói rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Đây là Tin Mừng, là Tin Vui cho người Do-thái cũng như mọi người trong gia đình nhân loại bởi vì Đức Giê-su loan báo Tin Mừng với sự đồng hành và hướng dẫn của Thần Khí Chúa. Lời tiên báo trong sách ngôn sứ I-sai-a khoảng bảy trăm năm trước đã trở nên hiện thực nơi sự hiện diện của Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15,26-27).

Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ trình thuật lời Đức Giê-su phục sinh đối với các môn đệ thân tín của Người: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cũng cho chúng ta biết khi những người chứng kiến Đức Giê-su phục sinh về trời thì có hai người đàn ông mặc áo trắng nói với họ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Các chứng nhân của Đức Giê-su không chỉ nhìn trời mà còn được mời gọi đón nhận ơn Chúa Thánh Thần để đến với mọi người trên mặt đất và loan báo Tin Mừng cứu độ cho họ.

Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi mọi người đang tụ họp thì: “Từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,2-4). Trong bối cảnh Kinh Thánh, ‘gió’ là biểu tượng của Chúa Thánh Thần; là ‘hơi thở Thiên Chúa’, là quyền năng trao ban sự sống mới. ‘Lửa’ cũng là biểu tượng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta biết lửa tự nhiên cung cấp ánh sáng, loại trừ độc tố, biến đổi vạn vật. Nhờ lửa tự nhiên, gia đình nhân loại bước sang trang sử mới với sự phát triển mọi chiều kích trong cuộc sống con người. Lửa trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống là hình ảnh của sự thanh luyện, bảo vệ; lửa biểu thị quyền năng biến đổi và trao ban sứ vụ; ‘lưỡi giống như lưỡi lửa’ biểu thị ‘khả năng nói’, ‘ơn ngôn ngữ’, cho phép các môn đệ Đức Giê-su loan báo Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ của gia đình nhân loại. Quả thực, các dân tụ họp tại Giê-ru-sa-lem lúc đó thật đông đảo: Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, A-xi-a, Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, Li-by-a, Cơ-rê-ta, Ả-rập. Mọi người đều nghe các môn đệ dùng tiếng nói của họ để loan báo Tin Mừng Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Tại nhà của viên đại đội trưởng người Rô-ma tên là Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô nói: “Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).

Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong hành trình loan báo Tin Mừng của các môn đệ Đức Giê-su trong Giáo Hội sơ khai ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Gio-en như sau: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta trên tôi nam tớ nữ” (Ge 2,28-29). Khi loan báo Tin Mừng, thánh Phê-rô đã trích lại lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Gio-en để cho mọi người biết những gì Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước đã được thực hiện nơi Đức Giê-su (Cv 2,16-21). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết thánh Phê-rô được đầy Thánh Thần và lên tiếng giữa Thượng Hội Đồng (Cv 4,8). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cũng cho chúng ta biết Thiên Chúa ban Thánh Thần cho dân Do-thái và dân ngoại khi họ cùng nhau nghe lời thánh Phê-rô giảng dạy (Cv 10,44-45).

Thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có đoạn: “Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1 Tx 1,4-5). Thánh nhân cũng khẳng định: “Không ai có thể nói rằng: Đức Giê-su là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12,3). Trong Tông Huấn ‘Lời Chúa’ (Verbum Domini, 2010), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI viết: “Chúa Thánh Thần, tác nhân chính của mọi công cuộc truyền giáo, sẽ luôn hướng dẫn Giáo hội Chúa Ki-tô trong hoạt động này” (Verbum Domini 97). Như vậy, loan báo Tin Mừng không chỉ có ‘lời’, mà còn ‘quyền năng’, ‘Thánh Thần’ và ‘niềm xác tín’. Tất cả điều đó đều quan trọng để Tin Mừng có thể được đón nhận, được sống động nơi người lãnh nhận và được thông truyền luôn mãi trong mọi môi trường truyền thống, văn hóa, xã hội của gia đình nhân loại. Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI viết: “Chỉ sau khi Thánh Thần đến vào ngày lễ Hiện xuống, các Tông Đồ mới đi khắp chân trời thế giới để khởi sự công cuộc truyền giảng Tin Mừng của Giáo Hội” (Evangelii Nuntiandi 75).

2.3 Các môn đệ Đức Giê-su loan báo Tin mừng

Buổi đầu trong sứ mệnh công khai, Đức Giê-su đã chọn Nhóm Mười Hai để họ ở lại với Người, học hỏi từ Người và được Người sai đi loan báo Tin Mừng (Mc 3,13-19). Chính Đức Giê-su chọn thánh Phê-rô là vị Tông Đồ trưởng của Nhóm Mười Hai (Mt 16,18-19; Lc 22,31-32; Ga 21,15-17). Sau khi thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Người cấm các môn đệ không được cho ai biết điều này bởi vì họ sẽ hiểu sai sứ mệnh của Người. Khi Đức Giê-su nói về cuộc Thương Khó của Người lần thứ nhất, Phê-rô trách Đức Giê-su và Người bảo Phê-rô là ‘Xa-tan’ bởi vì tư tưởng của Phê-rô là tư tưởng của phàm nhân (Mt 16,22-23). Đức Giê-su nói với các môn đệ về điều kiện để theo Người là ‘từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo’ (Mt 16,24). Như vậy, ai theo Đức Giê-su thì đồng hình đồng dạng với Người, nhất là đồng hình đồng dạng với Người trên Đường Thập Giá. Tin Mừng của Đức Giê-su là Tin Mừng ‘qua thập giá tới vinh quang’. Sau khi Đức Giê-su sống lại và lên trời, các môn đệ của Người thực thi tác vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân muôn nước. Câu cuối cùng của trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết: “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).

Trước khi lên trời, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng Người hiện diện với họ mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các môn đệ nguyên là những người ‘giới hạn trăm chiều’, lo lắng, sợ sệt đã trở nên những người khôn ngoan, nhiệt thành, mạnh mẽ. Đức Giê-su lên trời không có nghĩa rằng Người hiện diện ở nơi nào đó trong không gian, thời gian của vũ trụ. Người lên trời có nghĩa rằng Người hiện diện trong ‘môi trường’ phân biệt với môi trường thế giới thụ tạo. Môi trường của Đấng phục sinh siêu việt không gian, thời gian cũng như bất cứ giới hạn nào của thế giới thụ tạo. Nói cách khác, môi trường Đấng phục sinh bao trùm hay bao gồm thế giới thụ tạo mà không bị giam hãm trong môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng Người vừa hiện diện, vừa siêu việt kinh nghiệm của con người như đã được trình bày trong Cựu Ước: “Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài” (Tv 139,8).

Trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô tuyên bố: “Nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị… Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,10-12). Điều thánh Phê-rô nhấn mạnh là nhờ Đức Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất, mà mọi người được cứu độ, được giải thoát khỏi tội lỗi và được trở thành con cái Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Thật thế, mặc dầu người ta cho là có những thần ở trên trời hay dưới đất -quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng nhiều-, nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu” (1 Cr 8,5-6).

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cho chúng ta biết: “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,14). ‘Các ông ở với Người’ đây là điều kiện quan trọng không chỉ cho các môn đệ đầu tiên thuộc Nhóm Mười Hai mà còn cho các môn đệ của Đức Giê-su qua dòng thế kỷ. Khi tranh luận với những người Do-thái, Đức Giê-su nói: "Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,31-32). Trong Tin Mừng, nhiều lần Đức Giê-su căn dặn các môn đệ về sự cần thiết ở lại với Người để có thể sinh hoa kết quả tốt đẹp, chẳng hạn như: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1 Ga 1,3). Như vậy, chỉ những ai biết ở lại với Đức Giê-su, những ai ‘thấy, nghe, chiêm ngưỡng và đụng chạm’ mới có thể loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em mình.

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết sau bài giảng Tám Mối Phúc (Hiến Chương Nước Trời), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Điều này có nghĩa rằng Người mời gọi những ai theo Người thì đón nhận ánh sáng của Người, sống theo ánh sáng của Người và phản chiếu ánh sáng Người trong mọi hoàn cảnh của đời mình. Bởi vì, theo thánh Gio-an: “Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,4). Cũng theo thánh nhân: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Trong hành trình loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).

Ai gặp gỡ Đức Giê-su và ở lại (abide) với Người, gắn bó với Người và học hỏi từ Người thì trở thành môn đệ thực thụ của Người. Chẳng hạn, sau khi gặp gỡ Đức Giê-su, An-rê đã đi gặp em mình là Si-môn và bảo cho em biết là đã gặp Đấng Mê-si-a (nghĩa là Đấng Ki-tô). Khi Si-môn đến gặp Đức Giê-su thì Người đã đổi tên ông: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha [Πέτρος/ Phê-rô]” (Ga 1,42). Trong bối cảnh Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai thì Người cũng trao ban tác vụ mới, chẳng hạn như Thiên Chúa đổi tên Áp-ram thành Áp-ra-ham và ông trở thành cha vô số dân tộc (St 17,5); Thiên Chúa đổi tên Gia-cóp thành Ít-ra-en và ông trở thành cha của mười hai chi tộc Ít-ra-en, hình bóng của Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập. Kể từ khi được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu, An-rê đã gặp gỡ Đức Giê-su, ở lại với Đức Giê-su, lắng nghe Đức Giê-su và trở thành môn đệ loan báo Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a cho em mình là Phê-rô. Như vậy, ai gặp gỡ, ở lại, lắng nghe và sống theo lời Đức Giê-su thì trở thành người loan báo Tin Mừng của Người.

Hai môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an Tông Đồ là An-rê và Gio-an Tông Đồ gặp Đức Giê-su vào khoảng giờ thứ mười (tức 4 giờ chiều). Họ được Đức Giê-su biến đổi và trở thành người loan báo Tin Mừng. Hình ảnh hai môn đệ này giúp chúng ta liên tưởng tới hai môn đệ trên đường Em-mau gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh. Họ cũng gặp gỡ Đức Giê-su trong buổi chiều tà. Sau khi chứng kiến sự chết của Đức Giê-su, họ thất vọng đi về Em-mau, hướng Tây của Giê-ru-sa-lem. Chúng ta biết hướng Tây là hướng mặt trời lặn, hướng của đêm tối. Họ thất vọng vì Đức Giê-su đã chết và hành trình của họ theo Đức Giê-su giờ đây dang dở. Tuy nhiên, qua sự gặp gỡ, Đức Giê-su đã biến đổi họ. Bởi vì, khi được Đức Giê-su phục sinh chia sẻ Lời Chúa và ‘bẻ bánh’, hai môn đệ ‘lòng bừng cháy, chân bước đi’. Họ đã trở lại Giê-ru-sa-lem, hướng Đông, hướng Đức Giê-su là Mặt Trời Công Chính. Cùng với các môn đệ khác của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, họ trở thành cộng đoàn đầu tiên (Giáo Hội tiên khởi) loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho anh chị em đồng loại.

 

III. GIÁO HỘI LOAN BÁO TIN MỪNG

3.1 Căn tính Giáo hội Loan báo Tin mừng

Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết Giáo Hội là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải là ‘sản phẩm’ của con người. Không nơi nào trong Tân Ước cho phép chúng ta hiểu rằng ai đó ‘gợi ý’ hay ‘bàn thảo’ với Đức Giê-su về việc thiết lập Giáo Hội. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết Đức Giê-su nói về việc thiết lập Giáo Hội sau khi thánh Phê-rô tuyên xưng Người là Đấng Mê-si-a (Mt 16,16-18). Trình thuật sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, các môn đệ Đức Giê-su nguyên là những người hèn mọn và giới hạn trăm chiều đã trở thành những người mạnh mẽ loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho muôn dân nước đang tụ họp tại Giê-ru-sa-lem trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Πεντηκοστῆς/ Pentecost).

Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Đức Giê-su để loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc khải Tân Ước cho chúng ta biết về ba hình thức hiện diện của Nước Thiên Chúa: (1) Sự hiện diện của Đức Giê-su giữa lòng trần thế là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, (2) sự hiện diện của Giáo Hội cũng là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa bởi vì Giáo Hội là ‘Bí Tích của Đức Giê-su’. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Chúa Giê-su đã khai sinh Giáo Hội bằng việc rao giảng Tin Mừng rằng Nước Thiên Chúa đã đến” (LG 5). (3) Sự hiện diện của Đức Giê-su quang lâm (Đức Giê-su đến lần thứ hai trong vinh quang) là sự hiện diện của Nước Thiên Chúa viên mãn. Khi thiết lập Giáo Hội, Đức Giê-su nói với Phê-rô: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Như là Nước Thiên Chúa ở trần gian, nhân danh Đức Giê-su, Giáo Hội đến với mọi người trong gia đình nhân loại để loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người. Việc loan báo này vẫn luôn tiếp diễn giữa gia đình nhân loại cho đến tận thế.

Câu đầu tiên của Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II khẳng định Giáo Hội là thực thể loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo: “Ánh sáng muôn dân chính là Chúa Ki-tô, nên Thánh Công Ðồng đang nhóm họp trong Chúa Thánh Thần hết lòng mong ước soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội, bằng việc rao truyền Tin Mừng cho mọi tạo vật” (LG 1). Đặc biệt, Công Đồng Vatican II khẳng định cách minh nhiên rằng: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mệnh của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha” (AG 2). Nói rằng ‘tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, phải loan báo Tin Mừng’ nghĩa là Giáo Hội và hoạt động loan báo Tin Mừng định nghĩa nhau, có trong nhau. Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập để tiếp tục sứ mệnh của Người. Do đó, tương quan giữa Giáo Hội và việc loan báo Tin Mừng quan trọng đến nỗi: Nếu Giáo Hội không loan báo Tin Mừng thì Giáo Hội trở thành thực thể xa lạ với Giáo Hội là thực thể được Đức Giê-su thiết lập và sai đi. Khi Giáo Hội không loan báo Tin Mừng cũng là khi Giáo Hội không còn lý do để hiện diện và hoạt động giữa gia đình nhân loại.

Như thánh Phao-lô, Giáo Hội luôn thâm tín rằng: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6). ‘Chỉ có một thân thể’ nghĩa là gì vậy? Thưa, Đức Giê-su thiết lập Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm của Người ở trần gian và mời gọi mọi người (bất luận sắc tộc, màu da, lãnh thổ hay tiêu chí nào khác) liên kết với Giáo Hội, trở thành thành phần trong Thân Thể mầu nhiệm Đức Giê-su. Trong Giáo Hội, những người chịu Phép Rửa hiệp nhất nên một với nhau trong niềm tin và niềm hy vọng, cùng với Đức Giê-su là Chúa và Chúa Thánh Thần quy hướng về Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng đích của con người và muôn vật muôn loài.

Là bí tích của Đức Giê-su, Giáo Hội tiếp tục chương trình trần thế của Người giữa lòng thế giới. Công Đồng Vatican II nhấn mạnh rằng: “Khi các Tông Ðồ rao giảng Tin Mừng khắp nơi và có nhiều thính giả đón nhận nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, các ngài qui tụ họ thành Giáo Hội phổ quát, Giáo Hội này đã được Chúa thiết lập trên các Tông Ðồ và xây dựng trên Thánh Phêrô, thủ lãnh của các ngài” (LG 19). Cũng theo Công Đồng Vatican II: “Chúa Ki-tô, khi bị treo lên khỏi đất, đã kéo mọi người đến với mình. Khi từ kẻ chết sống lại, Người đã sai Thánh Thần ban sự sống đến với các môn đệ và nhờ Thánh Thần thiết lập thân thể Người là Giáo Hội như bí tích phổ quát cứu rỗi” (LG 48). Quả thực, đặc tính phổ quát của Giáo Hội bắt nguồn từ đặc tính phổ quát của Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người được cứu độ và giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.

Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập trong bối cảnh lịch sử nhất định nhưng sứ mệnh của Giáo Hội là sứ mệnh đến với muôn dân. Điều này đã được trình bày trong Cựu Ước qua những áng văn bóng bẩy như sau: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở, căng các tấm bạt ra, đừng hẹp lòng hẹp dạ. Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc, vì ngươi sẽ tràn ra hai bên tả hữu, dòng dõi ngươi sẽ thừa kế các dân tộc và đến ở trong các thành bỏ hoang” (Is 54,2-3). ‘Hãy nới rộng lều ngươi đang ở’ luôn luôn hiện diện trong ‘tâm trí’ của Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô. Thực vậy, trong hành trình trần thế, Đức Giê-su bị giới hạn bởi không gian, thời gian cũng như nhiều hình thức giới hạn khác nữa nhưng sứ mệnh của Đức Giê-su là cho mọi người trong gia đình nhân loại. Lời của Đức Giê-su đối với các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn đã ứng nghiệm: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa” (Ga 14,12). Quả thực, các môn đệ Đức Giê-su đã loan báo Tin Mừng tới tận ‘chân trời góc biển’ với niềm xác tín vững chắc rằng: “Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Người, không những chỉ từng cá nhân không liên lạc gì với nhau, mà Người còn liên kết họ thành một dân duy nhất, trong đó đoàn tụ mọi con cái đã tản mác khắp nơi” (AG 2).

Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Mở đầu Tông Thư Thiết Lập Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Tân Loan Báo Tin Mừng (Ubicumque et Semper, 2010), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI viết: “Giáo Hội có bổn phận luôn luôn và ở mọi nơi (Ubicumque et Semper) loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Người, nhà loan báo Tin Mừng đầu tiên và tối cao, đã truyền lệnh cho các Tông đồ vào ngày Người lên cùng Chúa Cha.” Loan báo Tin Mừng là giúp anh chị em mình nhận ra Đức Giê-su là ai cũng như đời sống và sứ mệnh của Người như thế nào. Để có thể làm được điều đó, người loan báo Tin Mừng cần có được kinh nghiệm về Đức Giê-su và chia sẻ kinh nghiệm đó cho anh chị em mình. Trong Tông Huấn ‘Loan Báo Tin Mừng’, thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI quả quyết: “Đối với Giáo Hội việc trình bày sứ điệp Tin Mừng không phải là một sự đóng góp tùy hứng: Đó chính là bổn phận đòi buộc Giáo Hội, do Chúa Giê-su truyền lại, để nhân loại có thể tin và được cứu thoát” (Evangelii Nuntiandi 5). Đồng thời, ngài cũng viết: “Tin Mừng được công bố bởi chứng tá của cuộc sống sớm hay muộn cũng phải được công bố bởi lời sự sống. Không có sự loan báo Tin Mừng đích thực trừ khi danh thánh, giáo lý, đời sống, các lời hứa, Vương Quốc và mầu nhiệm của Đức Giê-su thành Na-da-rét, Con Thiên Chúa, được công bố” (Evangelii Nuntiandi 22). Mục đích tối hậu của việc loan báo Tin Mừng là giúp mọi người gặp gỡ Đức Giê-su, sống đời mật thiết với Người và tuân giữ huấn lệnh của Người. Trong Tông Huấn ‘Niềm Vui Tin Mừng’ (Evangelii Gaudium, 2013), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô xác quyết rằng mọi người ‘có quyền’ được nghe Tin Mừng và các tín hữu ‘có bổn phận’ loan báo Tin Mừng (Evangelii Gaudium 14).

3.2 Đời sống Giáo hội Loan báo Tin mừng

Như Đức Ma-ri-a vâng phục đón nhận lời truyền tin của sứ thần Gáp-ri-en để cưu mang Đức Giê-su là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa và trung tín với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Giáo Hội là Mẹ cũng vâng phục đón nhận Đức Giê-su và trung tín với giáo huấn của Người trong mọi nơi mọi lúc. Đời sống của Giáo Hội luôn quy chiếu về Đức Giê-su và lời của Người. Nói cách khác, Đức Giê-su và Tin Mừng của Người nên một với nhau và trở nên lẽ sống của Giáo Hội. Đặc biệt, thánh Phao-lô dùng hình ảnh tương quan giữa Đức Giê-su và Giáo Hội để diễn giải tương quan giữa người chồng và người vợ trong gia đình: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,25-27). Tác giả sách Khải Huyền còn trình bày về ‘tiệc cưới của Con Chiên’, trong đó Đức Ki-tô là ‘Con Chiên’ và Giáo Hội là Hiền Thê của Người (Kh 19,7-9).

Con cái Giáo Hội được sinh ra từ Bí Tích Thanh Tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hiệp nhất nên một với nhau, con cái Giáo Hội là các Ki-tô hữu cũng luôn hiệp nhất nên một với nhau như các cơ phận trong cùng một thân thể. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,13). Tương tự như thế, trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô viết: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl 3,27-28). Con cái Giáo Hội được sinh ra từ Bí Tích Thanh Tẩy thì trở nên thụ tạo mới, thụ tạo được mời gọi kín múc sự sống từ Giáo Hội và góp phần mình làm cho Giáo Hội ngày càng tăng trưởng nhờ lối sống mới.

Công Đồng Vatican II khẳng định: “Hiền thê của Ngôi Lời nhập thể, tức Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ hằng cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình” (DV 23). Việc cử hành các bí tích trong Giáo Hội luôn có phần ‘Lời Chúa’. Đây là dịp quan trọng cho việc loan báo Tin Mừng bởi vì khi Lời Chúa được trân trọng xướng lên và được chia sẻ cũng là khi Lời Chúa đụng chạm nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, biến đổi con người và làm cho con người gắn bó hơn với Thiên Chúa. Theo Công Đồng Vatican II, “Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (DV 21). Trong Tân Ước, tin vào Thiên Chúa đồng nghĩa với việc lắng nghe Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa trong thân phận con người. Quả thực, Đức Giê-su là Lời Chúa nói với con người bằng ngôn ngữ của con người. Do đó, niềm tin của con người vào Lời Chúa có cơ sở vững chắc và luôn đem lại cho con người đời sống và viễn cảnh tốt đẹp hơn.

Với Bí Tích Thanh Tẩy, con cái Giáo Hội được sinh ra; với Bí Tích Thêm Sức, con cái Giáo Hội được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần; với Bí Tích Thánh Thể, con cái Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Đức Giê-su. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Người đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với Giáo Hội cho đến tận thế. Bánh và rượu, hoa màu ruộng đất và công lao của con người cùng với tác động của Chúa Thánh Thần, đặc biệt, với ‘lời quyền năng’ của Đức Giê-su đã trở thành Mình và Máu của Người: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy… Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Sau khi Đức Giê-su sống lại và lên trời, các môn đệ cùng với Đức Ma-ri-a đã cùng nhau cầu nguyện và cử hành Bí Tích Thánh Thể: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Bí Tích Thánh Thể luôn là dấu chỉ của sự hiệp nhất nên một trong Giáo Hội như lời của thánh Phao-lô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17).

Là con cái Giáo Hội, các Ki-tô hữu luôn là người có cảm thức sâu xa về Giáo Hội, nghĩa là luôn đặt ‘bức tranh nhỏ’ của bản thân trong ‘bức tranh lớn’ của Giáo Hội. Quả thực, bức tranh nhỏ của người Ki-tô hữu khởi xuất từ bức tranh lớn của Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập, nuôi dưỡng và củng cố. Người không có cảm thức về Giáo Hội thì cũng không có cảm thức về sự cần thiết phải liên kết mật thiết với anh chị em trong cùng một đức tin. Để có thể là người nhiệt thành tích cực trong Giáo Hội, các Ki-tô hữu cần kết hợp mật thiết với Đức Giê-su, nghĩa là thiết lập tương quan cá vị với Người và sống theo Tin Mừng của Người, cụ thể là: Mọi khía cạnh trong đời sống con người đều thấm nhuần tinh thần của Người. Nhờ đó, các Ki-tô hữu có thể hiện diện với anh chị em mình theo cách thức Đức Giê-su hiện diện, yêu thương anh chị em mình theo cách thức Đức Giê-su yêu thương và phục vụ anh chị em mình theo cách thức Đức Giê-su phục vụ để trong mọi hoàn cảnh, các Ki-tô hữu luôn là cộng đoàn loan báo Tin Mừng.

3.3 Sứ mệnh Giáo hội Loan báo Tin mừng

Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu không ngừng nỗ lực trong việc loan báo Tin Mừng. Thánh nhân viết cho các tín hữu Rô-ma: “Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10,13-15). Là Ki-tô hữu nghĩa là người loan báo Tin Mừng. Năm động từ mà các Ki-tô hữu cần quan tâm ở đây là kêu cầu, tin, nghe, rao giảng, sai đi. Thánh Phao-lô viết theo thứ tự từ kết quả tới nguyên nhân, từ kêu cầu tới sai đi, từ hoa trái của Tin Mừng tới việc cần thiết phải loan báo Tin Mừng. Ý thức về căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình, qua dòng thế kỷ, Giáo Hội luôn mời gọi con cái cộng tác với nhau hầu làm cho Tin Mừng thấm đượm mọi ngõ ngách của đời sống con người.

Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, sau khi nhắc lại việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể, thánh Phao-lô viết: “Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11,26). Điều này có nghĩa rằng cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, cộng đoàn chia sẻ Mình và Máu thánh Đức Giê-su cũng là cộng đoàn loan báo Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Nói cách khác, hiệu quả của việc chia sẻ Lời Chúa và hiệp thông trong Bí Tích Thánh Thể là thực thi sứ mệnh Đức Giê-su ủy thác. Tiếp tục tư tưởng truyền thống, khi diễn giải tương quan giữa Giáo Hội và Bí Tích Thánh Thể, trong Thông Điệp ‘Giáo Hội Từ Bí Tích Thánh Thể’ (Ecclesia de Eucharistia, 2003), thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Bí Tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội và Giáo Hội làm nên Bí Tích Thánh Thể” (Ecclesia de Eucharistia 26). Như hai môn đệ trên đường trở về Em-mau được Đức Giê-su phục sinh chia sẻ Lời Chúa và sau khi nhận ra Người ‘bẻ bánh’ thì đã trở về Giê-ru-sa-lem hiệp hoan với các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng, cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể cũng phải thực thi việc loan báo Tin Mừng như vậy.

Giáo Hội lữ hành là cộng đoàn những người loan báo Tin Mừng như lời của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: “Tất cả những người đã được rửa tội, dù ở vị trí nào trong Giáo Hội hay trình độ hiểu biết đức tin ra sao, đều là những tác nhân của công cuộc loan báo Tin Mừng. Sẽ không đủ nếu chỉ hình dung một kế hoạch loan báo Tin Mừng do những người chuyên môn thực hiện, trong khi phần còn lại của các tín hữu chỉ là những người tiếp nhận thụ động” (Evangelii Gaudium 120). Trong Tông Huấn ‘Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ’ (Gaudete et Exsultate, 2018), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Việc chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau đẩy mạnh tình huynh đệ và làm cho chúng ta trở thành một cộng đoàn thừa sai thánh thiện” (Gaudete et Exsultate 142). Như đề cập ở trên, Công Đồng Vatican II khẳng định: ‘Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải loan báo Tin Mừng’. Do đó, mọi hoạt động loan báo Tin Mừng luôn phải được đặt trong bối cảnh cộng đoàn Giáo Hội cùng nhau đến với mọi người. Điều này có nghĩa rằng không có hoạt động loan báo Tin Mừng nào chỉ mang tính cá nhân hay phe nhóm nào đó. Quả thực, khi sai các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su căn dặn họ ra đi theo hình thức cộng đoàn (Mc 6,7-13; Lc 10,1-2).

Nếu căn tính của Giáo Hội Đức Giê-su là loan báo Tin Mừng thì căn tính của con cái Giáo Hội cũng là loan báo Tin Mừng. Như vậy, Ki-tô hữu không thể là người ‘hữu danh vô thực’, mang danh Đức Giê-su nhưng không phải là Ki-tô hữu như Đức Giê-su mong muốn. Do đó, là con cái Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, mọi người được mời gọi đóng góp phần mình trong việc loan báo Tin Mừng. Dĩ nhiên, mỗi người với mỗi hoàn cảnh khác biệt nhau được mời gọi loan báo Tin Mừng theo cách thức của mình. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Mỗi Ki-tô hữu là một nhà loan báo Tin Mừng trong mức độ mà họ đã gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Ki-tô Giê-su: Chúng ta không còn nói rằng mình là ‘môn đệ’ và ‘nhà loan báo Tin Mừng’ riêng rẽ, mà đúng hơn, chúng ta luôn là ‘môn đệ loan báo Tin Mừng’” (Evangelii Gaudium 120).

Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết sau thời các Tông Đồ, các Ki-tô hữu tiếp tục diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội bằng tình yêu chân thành và điều này làm cho những người không cùng niềm tin thán phục. Thực vậy, Tertullian (văn sĩ Ki-tô Giáo, 155–220) cho chúng ta biết ‘dân ngoại’ vô cùng cảm kích trước ‘tình yêu lạ lùng’ của cộng đoàn Giáo Hội thời sơ khai thể hiện (Tertullian, Apology 39). Cũng là con người với nhau ‘tại sao các Ki-tô hữu lại yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, hiệp nhất nên một với nhau như vậy?’ Đâu là động lực đã và đang biến đổi tâm hồn họ? Vì ai mà họ có thể chết cho nhau? Ai là hy vọng mà họ nhắm tới? Đâu là viễn cảnh mà họ mong đợi? Quả thực, loan báo Tin Mừng bằng tình yêu là cách loan báo hữu hiệu nhất bởi vì tình yêu luôn là ‘mẫu số’ hay ‘ngôn ngữ’ chung’ của mọi người trong gia đình nhân loại giữa những khác biệt về chủng tộc, truyền thống, văn hóa hay phương thức xã hội.

Để có thể loan báo Tin Mừng cách hiệu quả, Giáo Hội được mời gọi ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống mình, đồng thời, luôn sẵn sàng minh chứng cho điều Giáo Hội loan báo bằng chính đời sống của con cái Giáo Hội như lời của Công Đồng Vatican II: “Điều có thể làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa hơn cả là đức ái huynh đệ của các tín hữu như họ đồng tâm nhất trí cộng tác cho đức tin Tin Mừng và tỏ ra họ là dấu chỉ hiệp nhất” (GS 21). Cũng theo Công Đồng Vatican II, “Giáo Hội được Chúa Ki-tô sai đi trình bày và thông ban tình yêu Thiên Chúa cho hết mọi người và mọi dân tộc, nhận thức rằng mình còn phải thực hiện công việc truyền giáo bao la” (AG 10). Trong bài giảng bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa (26.10.2008), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI nhắc nhở mọi người rằng toàn bộ lề luật của Thiên Chúa gói gọn trong từ ‘yêu’. Đồng thời, ngài chỉ rõ sự cần thiết của việc diễn tả lời của Thiên Chúa mà các Ki-tô hữu loan báo trong hành động yêu thương. Bởi vì, đây là cách thức duy nhất làm cho Tin Mừng trở nên đáng tin cậy cho dù vẫn còn đó những khiếm khuyết của người loan báo Tin Mừng, người đón nhận và sống theo Tin Mừng.

Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI viết rằng Tin Mừng cần được loan báo bằng chứng tá qua việc thấu hiểu, chấp nhận, chia sẻ đời sống với người khác, nỗ lực vì những điều trân quý, hy vọng vào những điều cao thượng. Ngài nhấn mạnh rằng: “Qua chứng tá không lời này, những Ki-tô hữu này khơi dậy những câu hỏi không thể cưỡng lại trong lòng những ai chứng kiến cách họ sống: Tại sao họ lại như thế? Tại sao họ sống theo cách này? Điều gì hay ai là nguồn cảm hứng cho họ? Tại sao họ lại ở giữa chúng ta? Một chứng tá như thế đã là một sự loan báo thầm lặng về Tin Mừng, và là một sự loan báo rất mạnh mẽ và hiệu quả. Đây là hành động khởi đầu của việc loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi 21). Ngài còn khẳng định: “Con người thời nay sẵn lòng lắng nghe các chứng nhân hơn là các thầy dạy và nếu họ lắng nghe các thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy ấy là những chứng nhân” (Evangelii Nuntiandi 41). Đối với thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, chứng tá bằng hành động luôn là điều không thể thiếu được trong việc loan báo Tin Mừng. Tư tưởng và cách thức nhìn nhận của thánh nhân không chỉ đúng vào thời của ngài mà còn đúng trong mọi thời đại. Hơn ai hết, Đức Giê-su là Mô Mẫu chứng nhân và thầy dạy cho bất cứ ai, trong bất cứ lãnh vực nào.

Dưới nhãn quan của Công Đồng Vatican II, sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội luôn là sứ mệnh mời gọi mọi người ý thức hơn về phẩm giá cao quý của con người (GS 22). Điều này có nghĩa rằng Tin Mừng Đức Giê-su cho phép con người sống xứng đáng với phẩm giá con người trong đời sống xã hội, đồng thời, cho phép con người được chung hưởng sự sống Thiên Chúa. Nói cách khác, Tin Mừng của Đức Giê-su là Tin Mừng vừa cho phép con người được ‘phát triển toàn diện’ về đời sống thể chất và tinh thần trong hành trình trần thế, vừa giúp con người vững tâm trong hy vọng rằng qua những biến chuyển của thời cuộc, con người được kết hiệp vĩnh cửu với Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của mình trong Nước Trời.

 

IV. THEO ĐỨC GIÊ-SU - ĐƯỜNG LOAN BÁO TIN MỪNG

4.1 Tân Loan báo Tin mừng

Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng Người là Đường (Ga 14,6). Quả thực, Đường Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Loan Báo Tin Mừng. Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng việc loan báo Tin Mừng để mời gọi mọi người theo Đường Đức Giê-su luôn phải đối diện với những thực tại đa diện. Sự cần thiết trong việc đổi mới phương thức loan báo Tin Mừng được quan tâm cách đặc biệt sau Công Đồng Vatican II. Chẳng hạn, vào năm 1968, tại Medellin, Colombia, các Giám Mục Châu Mỹ La-tinh (CELAM) nhấn mạnh điều đó. Như đề cập ở trên, một trong những khái niệm khá phổ biến trong những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay là ‘tân loan báo Tin Mừng’ (new evangelization/ nouvelle évangélisation). Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II sử dụng khái niệm ‘tân loan báo Tin Mừng’ lần đầu tiên trong bài giảng nhân dịp viếng thăm Ba-lan (09.6.1979): “Công cuộc tân loan báo Tin Mừng đã bắt đầu như thể đó là lời loan báo mới, mặc dù thực tế nó vẫn luôn là lời loan báo từ trước đến nay. Thánh Giá vươn cao trên thế giới đang xoay chuyển”. Khái niệm ‘tân loan báo Tin Mừng’ trở nên phổ biến trong Giáo Hội qua diễn văn của thánh nhân trong dịp các Giám Mục Châu Mỹ La-tinh họp tại Port-au-Prince, Haiti (09.3.1983). Trong đó, khái niệm ‘tân loan báo Tin Mừng’ không nhắm đến việc ‘làm mới nội dung’ nhưng ngài mời gọi con cái Giáo Hội ‘làm mới việc loan báo Tin Mừng’ với nhiệt huyết, phương pháp và cách thể hiện.

Trọng tâm của việc tân loan báo Tin Mừng là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa trong thân phận con người, đem ơn cứu độ cho mọi người trong gia đình nhân loại. Nội dung của việc loan báo Tin Mừng không thay đổi nhưng cách thức loan báo Tin Mừng cần quan tâm đến bối cảnh truyền thống, văn hóa, tôn giáo của mọi người. Mục đích của tân loan báo Tin Mừng là sao cho Tin Mừng Đức Giê-su đem lại hiệu quả tốt hơn hầu giúp mọi người nhận ra Người là Đường duy nhất dẫn đưa mọi người đến cùng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: Đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi” (1 Tm 2,5-6). Cũng theo thánh Phao-lô: “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).

Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II quả quyết rằng Tin Mừng Đức Giê-su là duy nhất nhưng cần được loan báo với năng lực, tinh thần mới cũng như ngôn ngữ, biểu tượng phù hợp với tâm thức của người đương thời trong các nền văn hóa. Trong Thông Ðiệp ‘Sứ Mệnh Đấng Cứu Thế’ (Redemptoris Missio, 1991), thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Thiên Chúa đang mở ra trước Giáo Hội những chân trời của nhân loại được chuẩn bị đầy đủ hơn để đón nhận hạt giống Tin Mừng. Tôi cảm nhận rằng thời điểm đã đến để dồn tất cả năng lực của Giáo Hội vào công cuộc tân loan báo Tin Mừng và sứ mệnh ad gentes [đến với muôn dân]. Không một tín hữu nào trong Đức Ki-tô, không một tổ chức nào của Giáo Hội có thể trốn tránh bổn phận tối thượng này: Loan báo Đức Ki-tô cho mọi dân tộc” (Redemptoris Missio 3). Quả thực, tiến trình toàn cầu hóa đòi hỏi Giáo Hội cần quan tâm hơn cách thức mới mẻ trong việc loan báo Tin Mừng hầu đem lại lợi ích thiết thực cho sự phát triển con người toàn diện để kiến tạo nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống của xã hội loài người.

Chương trình Thiên Chúa được thực hiện qua Biến Cố Đức Giê-su là chương trình một lần cho tất cả (once and for all). Tuy nhiên, tân loan báo Tin Mừng không phải là một lần cho tất cả bởi vì Tin Mừng Đức Giê-su luôn gặp gỡ những cơ hội cũng như thách thức mới không ngừng nảy sinh trong các môi trường truyền thống, văn hóa, xã hội của gia đình nhân loại. Các môn đệ chân chính Đức Giê-su không bao giờ nghĩ rằng mình được bao bọc cách an toàn bởi những quy chuẩn hay luật lệ bất biến. Đặc biệt, các môn đệ Đức Giê-su luôn ý thức rằng đặc ân Ki-tô hữu không làm cho mình trở thành những thực thể miễn nhiễm những bấp bênh của thế sự. Quả thực, không có cách thức đầy đủ, rõ ràng, duy nhất có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh hầu thực thi công cuộc tân loan báo Tin Mừng hiệu quả bởi vì mỗi sắc tộc, mỗi nền văn hóa, mỗi hình thức xã hội đều có những đặc trưng riêng. Do đó, tân loan báo Tin Mừng luôn đòi hỏi nỗ lực đặc thù nơi mỗi sắc tộc, nền văn hóa và hình thức xã hội.

Công Đồng Vatican II khẳng định: “Hoạt động loan báo Tin Mừng không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần” (AG 9). Trong Thông Điệp ‘Thiên Chúa Là Tình Yêu’ (Deus Caritas Est, 2005), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI viết: “Trở thành Ki-tô hữu không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả nhưng là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một con người, mang lại cho cuộc sống chân trời mới và hướng đi quyết định” (Deus Caritas Est 1). Ki-tô hữu là người lĩnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi, được đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su và được mời gọi loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Để được như vậy, các Ki-tô hữu cần ý thức về lời của Thiên Chúa trong đời sống và sứ mệnh của bản thân mình giữa gia đình nhân loại.

Việc loan báo Tin Mừng được thực hiện theo nhiều cách thức các nhau. Chúng ta có thể khẳng định rằng mọi tư tưởng, lời nói, hành động của các Ki-tô hữu đều là loan báo Tin Mừng, chẳng hạn, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Cầu nguyện cho người mà chúng ta đang giận dữ là một bước tiến tốt đẹp tiến về phía tình yêu và là một hành động loan báo Tin Mừng” (Evangelii Gaudium 101). Tương tự như vậy, chúng ta có thể nói rằng mong muốn những điều tốt đẹp cho người khác là loan báo Tin Mừng; đau với nỗi đau của người khác là loan báo Tin Mừng; kiên nhẫn chịu đựng người khác là loan báo Tin Mừng; sẵn lòng giúp đỡ người khác là loan báo Tin Mừng; quan tâm đến những người dễ bị tổn thương là loan báo Tin Mừng; thông cảm với tha nhân là loan báo Tin Mừng; nhìn nhận mọi người là anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là loan báo Tin Mừng.

Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trình bày về ba tình trạng căn bản của việc loan báo Tin Mừng trong bối cảnh mới (Redemptoris Missio 33): (1) Những nơi Tin Mừng chưa được biết đến hoặc thiếu cộng đoàn Ki-tô hữu với đức tin kiên vững để có thể loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần thực thi sứ mệnh ‘đến với muôn dân’ (ad gentes) theo đúng nghĩa; (2) các cộng đoàn Ki-tô hữu trưởng thành, sống và làm chứng cho Tin Mừng cách hiệu quả, Giáo Hội cần chăm sóc mục vụ tận tình, nghĩa là đồng hành và hướng dẫn các Ki-tô hữu và (3) những nơi Tin Mừng đã bám rễ sâu nhưng dần mai một khi các tín hữu không thực thi sứ vụ của mình, không có cảm thức về Giáo Hội hay sự cần thiết phải loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần thực thi tân loan báo Tin Mừng (new evangelization) hoặc tái loan báo Tin Mừng (re-evangelization). Những điều thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II quan sát, đúc kết, hướng dẫn đáng được Giáo Hội quan tâm trong mọi hoàn cảnh.

Loan báo Tin Mừng cũng chính là loan báo lòng Chúa thương xót. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Một số nhà thần học khẳng định rằng lòng thương xót là thuộc tính và sự hoàn thiện cao cả nhất của Thiên Chúa, và Kinh Thánh, Truyền Thống, cùng toàn bộ đời sống đức tin của Dân Chúa cung cấp những bằng chứng đặc biệt về điều này” (Dives in Misericordia 13). Lòng Chúa thương xót chính là tình yêu Thiên Chúa diễn tả trong thế giới thụ tạo từ sáng tạo đến cánh chung. Đặc biệt, lòng Chúa thương xót được diễn tả cách cụ thể trong hành trình trần thế của Đức Giê-su. Nói cách khác, nơi Đức Giê-su, lòng Chúa thương xót ‘có hình có dạng’. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Giáo Hội phải xem đây là một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình -ở mọi giai đoạn lịch sử và đặc biệt là trong thời đại ngày nay- để loan báo và đưa vào đời sống mầu nhiệm của lòng thương xót, được tỏ lộ cách tuyệt hảo nơi Chúa Giê-su Ki-tô” (Dives in Misericordia 14). Lòng Chúa thương xót thật cao cả, nhiệm mầu, vượt quá mọi hiểu biết của trí khôn con người bởi vì lòng Chúa thương xót tha thứ tội lỗi, khôi phục tâm hồn con người bị biến dạng vì tội lỗi, làm cho phẩm giá con người ngày càng được tăng trưởng. Điều này được thể hiện trên thập giá khi Đức Giê-su chịu chết với trái tim bị đâm thủng, máu cùng nước chảy ra. Đây là hình ảnh quán xuyến tâm hồn những ai gắn bó mật thiết với Đức Giê-su trong hành trình trần thế của mình.

Để có thể loan báo Tin Mừng cách hiệu quả, người loan báo Tin Mừng cần ý thức rằng mình loan báo Đức Giê-su chứ không phải loan báo bản thân mình; loan báo Tin Mừng Đức Giê-su chứ không phải tin thất thiệt của mình; động lực và tinh thần loan báo Tin Mừng là Chúa Thánh Thần chứ không phải là ‘thần khí nhuốm màu tội lỗi’ của mình. Đặc biệt, người loan báo Tin Mừng cần ý thức rằng khi mình không thể cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần trong việc loan báo Tin Mừng thì ít ra mình không phải là chướng ngại ngăn cản Tin Mừng Đức Giê-su đến với người lãnh nhận theo muôn vàn cách thức khác. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Trong thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết rằng: "Anh em là bức thư của Đức Ki-tô" (2 Cr 3,3). Mỗi Ki-tô hữu phải là bức thư của Đức Giê-su cho người khác, bức thư sống động, bức thư thấm nhuần Thần Khí của Người. Mỗi Ki-tô hữu phải là một bức thư để ai đọc bức thư này thì nhận ra Đức Giê-su là Đấng mà họ cần gặp gỡ, tiếp xúc và cảm nhận tình yêu vô điều kiện của Người, Đấng nhân danh Thiên Chúa chí thánh đến với mọi người trong gia đình nhân loại tội lỗi.

 

4.2 Hội nhập văn hóa như là Loan báo Tin mừng

Từ ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation) được Joseph Masson (1908-1998), thần học gia Dòng Tên, người Bỉ, sử dụng lần đầu tiên trong bài viết ‘L'Église ouverte sur le monde/ Giáo Hội mở ra với thế giới’, xuất bản trong tạp chí ‘Nouvelle Revue Théologique’ (84 N0 10 1962)Theo Joseph Masson: “Aujourd'hui, alors que, tout justement, l'exigence se fait plus urgente d’un catholicisme inculturé d’une façon polymorphe” [“ngày nay, yêu cầu về việc Giáo Hội Công Giáo hội nhập văn hóa cách đa dạng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết”]. Từ ‘hội nhập văn hóa’ (inculturé) được sử dụng trong câu này là phân từ quá khứ đóng vai trò như một tính từ. Từ ‘hội nhập văn hóa’ (tiếng La-tinh: inculturatio) với nghĩa thần học được sử dụng tại Tổng Công Nghị Dòng Tên lần thứ 32 vào năm 1975.

Trong văn kiện chính thức của Giáo Hội Công Giáo, từ hội nhập văn hóa (inculturatio/ inculturation) được thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II sử dụng trong Tông Huấn ‘Catechesi Tradendae’ (1979) về việc dạy Giáo Lý trong thời đại chúng ta. Đặc biệt, trong Thông Điệp ‘Slavorum Apostoli’ (1985: Về hai thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô, các Tông Đồ của người Slav), thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Công cuộc loan báo Tin Mừng mà họ thực hiện như những người tiên phong trên vùng lãnh thổ của các dân tộc Slav bao hàm mô hình của điều mà hôm nay được gọi là ‘hội nhập văn hóa’ – nghĩa là việc nhập thể Tin Mừng vào các nền văn hóa địa phương và đồng thời đưa các nền văn hóa này vào đời sống của Giáo hội” (John Paul II, Slavorum Apostoli 21). Ở đây, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trình bày khái niệm ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation) như là ‘nhập thể’ (incarnation). Chúng ta có thể thêm rằng hội nhập văn hóa còn bao gồm sự tích hợp những gì tao nhã, chân thật, tốt lành trong tiến trình thích nghi (adaptation), chuyển dịch (translation), bản địa hóa (indigenization), bối cảnh hóa (contextualization), hấp thụ văn hóa (enculturation) và tiếp biến văn hóa (acculturation) nữa.

Chúng ta có thể hiểu hội nhập văn hóa trong bối cảnh loan báo Tin Mừng là hội nhập đức tin Ki-tô Giáo vào các nền văn hóa mới. Trong đó, đức tin không bị biến dạng, các yếu tố tốt đẹp của văn hóa được bảo toàn và con người được thừa hưởng sức sống mới nhờ sự kết hợp thâm sâu và lành mạnh giữa đức tin và văn hóa. Điều này có nghĩa rằng tiến trình hội nhập văn hóa sinh hoa kết quả tốt đẹp khi sự gặp gỡ giữa đức tin và văn hóa nảy sinh thực thể mới (a new reality) cho phép con người sống xứng đáng hơn với phẩm giá cao quý của mình là được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Đấng từ ‘môi trường văn hóa trời’ đến với ‘môi trường văn hóa người’ để biến đổi và siêu thăng ‘môi trường văn hóa người’ hầu mưu cầu lợi ích cho mọi người.

Tin Mừng Đức Giê-su là Tin Mừng cho mọi người, trong mọi thời và khắp mọi nơi. Loan báo Tin Mừng trong bối cảnh hội nhập văn hóa là điều kiện cho phép con người hòa giải với Thiên Chúa và với nhau bởi vì tất cả đều là anh chị em trong cùng Gia Đình Thiên Chúa như lời của thánh Phao-lô: “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su” (Ep 2,19-20). Hội nhập văn hóa vừa làm cho Tin Mừng đến với văn hóa, vừa làm cho văn hóa trở nên khí cụ đón nhận và thông truyền Tin Mừng cho mọi người. Văn hóa trở thành phương tiện làm cho Tin Mừng được hình thành trong tâm hồn những người được định dạng bởi văn hóa trong tiến trình phát triển nhân cách của họ. Nhờ tiến trình hội nhập văn hóa đúng nghĩa, những người đón nhận Tin Mừng Đức Giê-su không lo sợ phải từ bỏ văn hóa của mình hay bị cưỡng bách tiếp nhận nền văn hóa ngoại lai, xa lạ nào đó.

Mặc dù từ ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation) xuất hiện muộn màng vào những thập niên hậu bán thế kỷ XX, tiến trình hội nhập văn hóa đã diễn ra trong chương trình mặc khải của Thiên Chúa giữa gia đình nhân loại. Chẳng hạn, sự hình thành các sách Kinh Thánh là tiến trình hội nhập văn hóa giữa mặc khải của Thiên Chúa và các nền văn hóa quanh vùng Địa Trung Hải. Việc loan báo Tin Mừng ngay từ thuở sơ khai của Giáo Hội cũng như việc hình thành nội dung đức tin Ki-tô giáo là tiến trình hội nhập văn hóa. Việc sử dụng tiếng Hy-lạp trong Bản Bảy Mươi (Septuaginta/ LXX/ Septuagint), bản dịch Kinh Thánh Do-thái (the Hebrew Bible) và một số sách khác là tiến trình hội nhập văn hóa. Sự hình thành Kinh Tin Kính và giáo lý Chúa Ba Ngôi cũng được xem là tiến trình hội nhập văn hóa, chẳng hạn: Những từ như yếu tính (οὐσία/ ousia), bản tính (φύσις/ physis), ngôi vị (ὑπόστασις/ hypostasis) từ văn hóa Hy-lạp được sử dụng để diễn tả nội dung trọng tâm của đức tin Ki-tô Giáo. Trong Thông Điệp ‘Đức Tin và Lý Trí’, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Khi lần đầu tiên tiếp xúc với các nền văn hóa lớn, Giáo Hội không thể từ bỏ những gì mà Giáo Hội đã đạt được từ việc hội nhập văn hóa trong thế giới tư tưởng Hy-La” (Fides et Ratio 72).

Tiến trình hội nhập văn hóa để đem Tin Mừng đến với muôn dân cần quan tâm ba lớp văn hóa (three layers of culture), đó là: (1) Lớp văn hóa cho phép Tin Mừng được hình thành: Tin Mừng được hình thành bởi sự giao thoa của nhiều nền văn hóa, chẳng hạn như Do-thái, Hy-lạp, La-tinh; (2) lớp văn hóa của người loan báo Tin Mừng: Những người loan báo Tin Mừng sinh ra, lớn lên chịu ảnh hưởng của văn hóa địa phương nơi mình hiện diện, đồng thời, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nữa trong quá trình giao tiếp; (3) lớp văn hóa của người đón nhận Tin Mừng: Những người đón nhận Tin Mừng vốn làm quen và được định dạng bởi các yếu tố văn hóa cũng như các thực thể khác trong nền văn hóa của họ. Do đó, người loan báo Tin Mừng cần phải học hỏi nhiều để có thể hiểu biết ‘nội dung Tin Mừng’, ‘nội dung các nền văn hóa’ cũng như sự giao thoa giữa Tin Mừng và các nền văn hóa. Câu hỏi: ‘Làm sao để ‘nhân’ hay ‘cốt lõi’ của Tin Mừng (the core of the Gospel) có thể bén rễ trong các nền văn hóa mới?’ vẫn luôn là câu hỏi trọng tâm trong việc đem Tin Mừng đến với các nền văn hóa của gia đình nhân loại. Việc loan báo Tin Mừng đem lại hoa trái khi có được sự hòa hợp giữa Tin Mừng và các yếu tố nảy sinh từ các nền văn hóa.

Dưới nhãn quan của thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Tin Mừng không đồng hóa với bất cứ nền văn hóa đặc thù nào. Tuy nhiên, mọi người trong gia đình nhân loại đón nhận Tin Mừng qua lăng kính văn hóa mà mình thụ hưởng. Mặc dù không sử dụng hạn từ ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation), thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI chỉ ra mối liên hệ sâu đậm giữa Tin Mừng và văn hóa. Ngài viết: “Sự tách biệt giữa Tin Mừng và văn hóa quả là một thảm trạng của thời đại chúng ta cũng như của những thời đại trước. Do đó, phải dồn mọi nỗ lực để tiến tới sự loan báo Tin Mừng một cách rộng rãi, đúng hơn phải loan báo Tin Mừng mọi nền văn hóa. Chúng phải được cải hóa nhờ tiếp xúc với Tin Mừng, nhưng sẽ không có tiếp xúc nếu Tin Mừng không được công bố” (Evangelii Nuntiandi 20). Trong diễn văn tại Lễ Thành Lập Hội Đồng Giáo Hoàng Về Văn Hóa (20.05.1982), thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Một đức tin mà không trở thành văn hóa là một đức tin không được đón nhận trọn vẹn, không được suy tư thấu đáo, và không được sống một cách trung tín”. Còn Đức Hồng Y Joseph Ratzinger (Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI) khẳng định rằng không có hình thức đức tin trần trụi, bản thân đức tin là văn hóa, đức tin mà không trở thành văn hóa thì đức tin đó không đáng sống (Joseph Ratzinger, Christ, Faith and the Challenge of Cultures (1993), FABC 78).

Các Ki-tô hữu loan báo Tin Mừng với niềm xác tín rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hoạt động trong các nền văn hóa như lời của thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI: “Chúa Thánh Thần họat động trong mỗi nhà truyền giảng Tin Mừng, nếu họ để Người chiếm hữu và hướng dẫn, Người đặt nơi môi miệng họ những lời mà một mình họ không thể tìm ra, đồng thời sửa soạn tâm hồn của những người nghe để họ mở rộng đón nhận Tin Mừng và nước trời đang được loan báo” (Evangelii Nuntiandi 75). Đặc biệt, theo ngài: “Không có Thánh Thần, công khó chuẩn bị kỹ lưỡng nhất của nhà rao giảng cũng không mang lại được gì. Không có Người, các biện luận vững chắc nhất cũng bất lực đối với trí óc con người. Không có Người, những lược đồ xã hội và tâm lý soạn thảo kỹ lưỡng nhất cũng mau mất hết giá trị” (Evangelii Nuntiandi 75). Quả thực, Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Tin Mừng được hình thành cũng là Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các nền văn hóa, nơi những người loan báo Tin Mừng cũng như nơi những người đón nhận, sống và làm chứng cho Tin Mừng trong hoàn cảnh cụ thể của họ.

 

4.3 Đối thoại liên tôn như là Loan báo Tin mừng

Hành trình trần thế của Đức Giê-su là hành trình đối thoại với con người thuộc mọi tầng lớp. Người đối thoại với dân Do-thái, với một số sắc dân trong miền Pa-lét-tin, với những người Rô-ma. Cách thức đối thoại của Người là ‘hình mẫu’ cho mọi hình thức đối thoại trong gia đình nhân loại. Chẳng hạn, trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giê-su không bắt đầu với những chuyện cao siêu, chẳng hạn như giới thiệu căn tính của Người: ‘Tôi là Ngôi Hai Thiên Chúa’, ‘Tôi là Đấng hằng hữu’, ‘Tôi được sinh ra từ trước muôn đời’, ‘Tôi vừa là Thiên Chúa, vừa là con người’. Người mở đầu cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bằng việc xin chị nước uống, nghĩa là bắt đầu với việc thông thường nhất. Dần dần, Người đề cập tình trạng tâm hồn người phụ nữ và qua đó giúp người phụ nữ biến đổi tâm hồn và nhận ra căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người. Đặc biệt, Đức Giê-su đã biến đổi nhãn quan của người phụ nữ Sa-ma-ri cũng như nhiều người khác về việc phụng tự Thiên Chúa. Cụ thể là việc phụng tự Thiên Chúa không lệ thuộc vào vị trí địa lý nhưng là phụng tự trong thần khí và sự thật (Ga 4,23). Người phụ nữ múc nước ở giếng mà luôn khát cho đến khi gặp Đức Giê-su, Đấng cho chị ‘nước hằng sống’. Thánh Gio-an trình thuật rằng: “Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4,39).

Trở về với nội dung mặc khải Ki-tô Giáo và lịch sử Giáo Hội, Công Đồng Vatican II nhìn nhận đối thoại với các tôn giáo khác như là phương cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu. Dưới nhãn quan của Công Đồng Vatican II, luôn có những ‘hạt giống Lời Chúa’ tiềm ẩn nơi các nền văn hóa, truyền thống, tôn giáo cũng như các hình thái xã hội trong gia đình nhân loại. Đó là lý do tại sao việc loan báo Tin Mừng luôn đi đôi với việc nhận diện ‘hạt giống Lời Chúa’ giữa muôn dân nước: “Phải lấy làm sung sướng và kính cẩn mà khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ” (AG 11). Trong Tuyên Ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Ki-tô Giáo (Nostra Aetate, 1965), Công Đồng Vatican II nhận định: “Các tôn giáo khác trên hoàn cầu đều cố công làm cho tâm hồn con người thoát khỏi những băn khoăn bằng nhiều phương thế khác nhau, bằng cách vạch đường chỉ lối, tức đề xướng những giáo thuyết và luật sống cũng như những lễ nghi phụng tự” (NA 2).

Đặc điểm chung của mọi người trong gia đình nhân loại là tìm kiếm chân lý (sự thật), không chỉ là chân lý thực nghiệm, chân lý triết học hay lô-gích mà còn là chân lý tôn giáo. Theo Công Đồng Vatican II, “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo [Ấn Giáo, Phật Giáo]” (NA 2). Giáo Hội cũng nhìn nhận việc đối thoại liên tôn (interreligious dialogue) là dịp để những người không cùng niềm tin tìm kiếm chân lý, nhận diện chân lý, sống theo chân lý trong hành trình trần thế của mình. Theo Công Đồng Vatican II: “Do bản tính tự nhiên thúc đẩy, cũng như do bổn phận luân lý đòi buộc, con người phải tìm kiếm chân lý, nhất là chân lý liên quan đến tôn giáo. Họ cũng phải tin theo chân lý đã nhận biết, và hướng dẫn toàn thể đời sống mình theo những đòi hỏi của chân lý” (Digitatis Humanae 2). Dù dưới bất cứ hình thức hay hoàn cảnh nào, chân lý luôn là nguồn phát xuất mọi thiện hảo trong gia đình nhân loại cũng như trong thế giới thụ tạo. Thánh Phao-lô quả quyết rằng “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Công Đồng Vatican II khẳng định: “Qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (DV 8). Do đó, mọi người được mời gọi mở rộng lòng mình cho chân lý. Dưới nhãn quan của thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, sứ điệp Tin Mừng là chân lý. Đây là sứ điệp đáng cho các môn đệ của Đức Giê-su toàn tâm toàn ý loan báo và nhiệt thành dõi theo đến cả hy sinh tính mạng của mình (Evangelii Nuntiandi 5).

Đối thoại liên tôn là điều cần thiết để giúp Giáo Hội và các tôn giáo khác tìm kiếm những điểm chung trong tinh thần hiểu biết cũng như tôn trọng sự thật và tự do. Theo Công Đồng Vatican II: “Quyền tự do tôn giáo đặt nền tảng trên chính bản tính con người, chứ không phải trên thái độ chủ quan của con người” (Digitatis Humanae 2). Cũng theo Công Đồng Vatican II: “Giáo lý về tự do tôn giáo bắt nguồn từ Mạc Khải của Thiên Chúa, nên người Ki-tô hữu càng phải thành kính tuân theo” (Digitatis Humanae 9). Do đó, đối thoại cho phép mọi người vừa là chứng tá, vừa khám phá niềm tin của nhau. Đối thoại là điều kiện không thể thiếu được trong sứ mệnh trần thế của Giáo Hội. Do đó, câu hỏi không phải là ‘Giáo Hội cần phải đối thoại liên tôn hay không?’ mà là ‘Giáo Hội cần phải đối thoại liên tôn như thế nào?’. Quả thực, đối thoại liên tôn không phải là chọn lựa của Giáo Hội nhưng thuộc về sứ mệnh của Giáo Hội. Nói cách khác, đối thoại liên tôn như là hình thức đặc biệt trong việc loan báo Tin Mừng.

Dựa trên tư tưởng của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài phát biểu của ngài tại Phiên Họp Toàn Thể của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Đối Thoại Liên Tôn (Pontifical Council For Inter-Religious Dialogue), tài liệu ‘Đối Thoại và Loan Báo’ của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Đối Thoại Liên Tôn (Dialogue and Proclamation, 1991) tóm lược bốn hình thức đối thoại căn bản như sau: (1) Đối thoại cuộc sống (dialogue of life): Mọi người sống với nhau trong tinh thần cởi mở, thân thiện và cùng nhau quan tâm đến các vấn đề đương thời; (2) đối thoại hành động (dialogue of action): Mọi người hợp tác với nhau, cùng nhau hành động cho sự phát triển con người; (3) đối thoại trao đổi thần học (dialogue of theological exchange): Những người chuyên môn tìm hiểu và chia sẻ gia sản tôn giáo mình cũng như của người khác và (4) đối thoại kinh nghiệm tôn giáo (dialogue of religious experience): Cùng nhau chia sẻ về mặt thiêng liêng, chẳng hạn như cầu nguyện, chiêm niệm, đức tin, hy vọng hướng về Thiên Chúa hay Đấng Tuyệt đối (Dialogue and Proclamation 42).

Đối với Giáo Hội tại Á Châu, kể từ năm 1970, Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) giới thiệu ba hình thức đối thoại chính yếu (the Triple Dialogue): (1) Đối thoại với người nghèo, (2) đối thoại với các nền văn hóa và (3) đối thoại với các tôn giáo. Trong đó, đối thoại với người nghèo bằng cách liên đới với những người đối diện với muôn hình thức tổn thương, đau khổ, bị bỏ rơi bởi vì Tin Mừng Đức Giê-su là ‘Tin Mừng cho người nghèo khó’; đối thoại với các nền văn hóa bằng cách loan báo Tin Mừng cho các nền văn hóa hay hội nhập văn hóa (inculturation) sao cho sự gặp gỡ giữa Tin Mừng và văn hóa đem lại lợi ích cho mọi người sống trong nền văn hóa đó; đối thoại với các tôn giáo bằng cách sống hòa hợp với anh chị em không cùng niềm tin; cùng nhau hành động cho sự phát triển con người; chia sẻ kinh nghiệm tôn giáo cho nhau với niềm xác tín sâu xa rằng những gì chân thực, lành thánh, tốt đẹp thì gặp gỡ nhau bởi vì tất cả đều xuất phát từ cùng một nguồn nhằm định hướng con người về Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối.

Trong Thông Ðiệp ‘Sứ Mệnh Đấng Cứu Thế’, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nhận xét rằng có nhiều người chủ trương việc loan báo Tin Mừng là làm cho mọi người sống nhân bản hơn, trung thành hơn với tôn giáo của mình hay cổ vũ công lý, tự do, hòa bình, hòa hợp là đủ. Theo ngài, điều bị bỏ qua là mọi người ‘có quyền’ được nghe Tin Mừng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giê-su. Nhờ đó, họ có thể sống xứng đáng hơn với ơn gọi của mình (Redemptoris Missio 46). Như vậy, nhiệt tâm đối thoại liên tôn và loan báo Tin Mừng luôn đi đôi với nhau. Ở đây, việc loan báo Tin Mừng theo phương thức ‘giới thiệu’ hay ‘mời gọi hãy đến mà xem’ chứ không theo phương thức ‘lôi kéo’ hay ‘ép buộc bằng mọi giá’. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy việc đối thoại liên tôn luôn phải đương đầu với nhiều thách đố nảy sinh từ sự bất tương hợp không chỉ về những khía cạnh tôn giáo mà còn nhiều khía cạnh khác nữa trong môi trường sống đa diện của xã hội loài người.

 

5. KHÓ KHĂN TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG

Đức tin Ki-tô Giáo luôn phải đối diện với muôn vàn hình thức khó khăn trong việc đón nhận, sống và loan báo bởi vì đức tin này đặt nền tảng trên mặc khải cũng như được hình thành trong lịch sử nhưng siêu việt lịch sử, kinh nghiệm cũng như lý trí thuần lý của con người. Đức tin Ki-tô Giáo đặt trọng tâm ở biến cố Đức Giê-su phục sinh (1 Cr 15,14). Tuy nhiên, biến cố này chỉ có thể được nhận diện đầy đủ hơn khi con người ý thức về đau khổ và cái chết của Người trên thập giá. Quả thực, ai không thể cảm nhận được những diễn biến liên quan đến Đức Giê-su trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng không thể cảm nhận được những diễn biến liên quan đến Người trong Ngày Chúa Nhật, ngày Người phục sinh vinh hiển. Thiên Chúa thông phần đau khổ với con người không chỉ trong hành trình trần thế lắm ngang trái, nhiều bấp bênh và muôn vàn thử thách mà còn thông dự vào vực thẳm sự chết của con người để giải thoát con người khỏi vực thẳm đó. Vốn dĩ là Thiên Chúa, Đức Giê-su là Đấng hằng sống nhưng vì yêu thương nhân loại, Người đã mang lấy thân phận phải chết. Người đã chết, đã an nghỉ trong lòng đất và đã phục sinh để đánh bại sự chết một lần cho tất cả hầu trao ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin tưởng, yêu mến và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 15,55-57).

Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su phải đương đầu với người Do-thái, chẳng hạn như các kinh sư, những người Pha-ri-sêu và các thế lực thuộc đế chế Rô-ma trong vùng Pa-lét-tin. Sau khi Đức Giê-su chịu đau khổ, chịu chết, phục sinh và lên trời, các môn đệ Người phải đối diện với nhiều thách đố trong việc loan báo Tin Mừng. Chẳng hạn, thánh Phao-lô cho mọi người biết rằng vì loan báo Tin Mừng, ngài phải gánh chịu muôn thử thách như: Ở tù, chịu đòn, nhiều lần suýt chết, năm lần bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi, thực hiện nhiều cuộc hành trình; phải đối diện với nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi; nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; vất vả mệt nhọc, thức đêm, đói khát, nhịn ăn nhịn uống, chịu rét mướt trần truồng (2 Cr 11,23-27). Đồng thời, ngài cũng cho biết ngài đồng hình với những ai yếu đuối, vấp ngã, bận tâm vì Giáo Hội (2 Cr 11,28-28). Đặc biệt, ngài khẳng định rằng nếu phải tự hào thì ngài tự hào về những yếu đuối của mình (2 Cr 11,30).

Trong mười hai môn đệ được Đức Giê-su tuyển chọn, Giu-đa Ít-ca-ri-ốt bán Đức Giê-su và tự kết liễu đời mình. Ngoại trừ thánh Gio-an Tông Đồ, mười môn đệ khác đều chịu tử đạo để làm chứng cho Đức Giê-su và Tin Mừng của Người. Sau này, thánh Phao-lô cũng minh chứng cho Đức Giê-su và Tin Mừng của Người bằng cái chết tử đạo. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, thánh nhân viết thư cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi” (1 Tx 2,8). Quả thực, các ngài đã thể hiện tình yêu cao cả nhất mà Đức Giê-su truyền dạy các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Từ khi được Chúa Giê-su thiết lập đến nay, Giáo Hội luôn phải đối diện với muôn hình thức khó khăn, gian khổ: Thời sơ khai, Giáo Hội phải đương đầu với nhiều thế lực bách hại thuộc các dân tộc quanh vùng Địa Trung Hải. Thời Trung Cổ, Giáo Hội phải đương đầu với nhiều hình thức lạc giáo cũng như ly giáo. Với Kỷ Nguyên Ánh Sáng, Giáo Hội phải đương đầu với những người coi tri thức như là phương tiện chính yếu cho sự tiến triển của con người. Thời hiện đại, Giáo Hội phải đương đầu với các triết thuyết và thể chế coi Giáo Hội như là thực thể nguy hại. Hiện nay, Giáo Hội phải đương đầu với nhiều hình thức chủ nghĩa chẳng hạn như chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ. Đặc biệt, sự xuất hiện của thế giới kỹ thuật số (the digital world) và thế giới ảo (the virtual world) cũng nảy sinh nhiều thách đố mới cho Giáo Hội trong việc loan báo Tin Mừng.

Trong bối cảnh hiện tại, vẫn còn đó những dân tộc trên thế giới nại đến truyền thống, tôn giáo, văn hóa của mình để đoạn tuyệt với việc lắng nghe và đón nhận Tin Mừng. Họ sẵn sàng loại trừ bất cứ những gì được xem là bất tương hợp với truyền thống, tôn giáo và văn hóa của họ. Họ không chỉ đóng cửa lòng mình trong việc đón nhận Tin Mừng mà còn xuyên tạc nội dung Tin Mừng mà các Ki-tô hữu loan báo. Hơn nữa, nơi một số dân tộc, người ta còn bách hại những ai loan báo Tin Mừng dưới bất cứ hình thức nào. Đối với họ, trở thành Ki-tô hữu đồng nghĩa với việc từ bỏ gia sản truyền thống, tôn giáo, văn hóa của tổ tiên. Trở thành Ki-tô hữu đồng nghĩa với việc trở thành những người xa lạ với bản sắc vốn có của mình. Nhiều khi trong cùng một đất nước hay vùng lãnh thổ với nhiều dân tộc: Có những dân tộc sẵn sàng đón nhận Tin Mừng, có những dân tộc chưa sẵn sàng, có những dân tộc chống đối, có những dân tộc dửng dưng, có những dân tộc bách hại công khai. Với Công Đồng Vatican II, Giáo Hội nhắn nhủ con cái mình: “Tất cả mọi người phải sẵn sàng tuyên xưng Chúa Ki-tô [tuyên xưng đức tin] trước mặt mọi người, và bước theo Người trên đường thập giá giữa những cuộc bách hại không hề thiếu vắng trong Giáo Hội” (LG 42). Do đó, sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Giáo Hội không bao giờ vắng bóng khổ đau hay nghịch cảnh.

Theo Bộ Giáo Lý Đức Tin: “Sứ mệnh của các Tông đồ và sự tiếp tục trong sứ mệnh của Giáo Hội sơ khai vẫn là mô hình nền tảng cho công cuộc loan báo Tin Mừng mọi thời: Đó là sứ mệnh thường được ghi dấu bằng sự tử đạo, như lịch sử thế kỷ XX đã chứng minh” (Congregation for the Doctrine of the Faith [hiện tại là: The Dicastery for the Doctrine of the Faith], Doctrinal Note on Some Aspects of Evangelization (2007) 8). Trong diễn văn trước các tham dự viên của Đại Hội Toàn Thể thuộc Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Vũ Tân Loan Báo Tin Mừng (2011), Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI nói: “Loan báo Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới ngày nay phức tạp hơn so với quá khứ; nhưng sứ mệnh của chúng ta vẫn giống như vào buổi đầu lịch sử. Sứ vụ không thay đổi, và lòng nhiệt thành cũng như sự can đảm đã thúc đẩy các Tông Đồ và những môn đệ đầu tiên cũng không được thay đổi” (Address of His Holiness Benedict XVI to Participants in the Plenary Assembly of the Pontifical Council for Promoting the New Evangelization, 2011).

Khó khăn trong việc loan báo Tin Mừng không chỉ đến từ bên ngoài mà còn từ bên trong, từ con cái Giáo Hội nữa. Cụ thể là khi các Ki-tô hữu lãnh đạm, ‘không nóng cũng không lạnh’ với các nhân đức căn bản (tin, cậy, mến) cũng là khi họ không có khả năng sống và làm chứng cho Tin Mừng. Khi tư tưởng, lời nói và việc làm của các Ki-tô hữu đối nghịch với Tin Mừng thì họ không thể trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng được. Do đó, việc loan báo Tin Mừng không chỉ hướng ngoại (ad extra) mà còn hướng nội (ad intra) nữa, nghĩa là khơi dậy lòng nhiệt huyết với Đức Giê-su và Tin Mừng của Người nơi các Ki-tô hữu. Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI nhận định rằng một trong những ngăn trở trong việc loan báo Tin Mừng là ‘sự thiếu nhiệt thành’. Theo ngài: “Điều này càng nghiêm trọng hơn vì nó xuất phát từ bên trong. Nó biểu hiện ở sự mệt mỏi, sự vỡ mộng, sự thỏa hiệp, sự thiếu quan tâm và trên hết là sự thiếu niềm vui và hy vọng” (Evangelii Nuntiandi 80).

Để có thể đối diện với muôn vàn khó khăn trong hành trình đón nhận, sống và loan báo Tin Mừng, các Ki-tô hữu cần ý thức hơn lời của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Thánh nhân cũng viết rằng: “Tôi tin chắc rằng cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39). Đức tin và hy vọng vào Đức Giê-su cho phép các Ki-tô hữu có được tầm nhìn vượt qua những gì thuộc thế gian này, kể cả muôn vàn chông gai, đau khổ, sự chết. Nói cách khác, đức tin và hy vọng của các Ki-tô hữu được đan dệt bởi những đặc tính cánh chung (eschatological characteristics), nhờ đó, các Ki-tô hữu biết hướng về Quê Hương vĩnh cửu, về Đức Giê-su, Đấng đã nhập thể, chịu nhiều đau khổ, chịu chết, phục sinh và lên trời vinh hiển.

 

Kết luận

Sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa lòng trần thế đã được loan báo trong Cựu Ước và trở nên hiện thực trong Tân Ước. Để cứu độ nhân loại lầm than, khốn khổ vì tội lỗi cũng như hậu quả khôn lường của tội lỗi là sự chết, Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình, trở nên người phàm giữa gia đình nhân loại. Trong hành trình trần thế, Người đã loan Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người. Người đã chữa bệnh, trừ quỷ, tha thứ tội lỗi, hồi sinh kẻ chết, công bố những tiêu chuẩn luân lý mới đặt nền tảng trên tình yêu để minh chứng rằng Người từ Thiên Chúa mà đến và Người là Thiên Chúa. Đặc biệt, Người đã chọn Nhóm Mười Hai và thiết lập Giáo Hội để tiếp tục chương trình trần thế của Người cho đến tận thế.

Là bí tích của Đức Giê-su và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn theo thánh ý Chúa Cha, Giáo Hội đồng hành với gia đình nhân loại. Loan báo Tin Mừng thuộc về bản chất của Giáo Hội: ‘Là Giáo Hội’ cũng có nghĩa ‘là loan báo Tin Mừng’ cho muôn dân muôn nước. Giáo Hội loan báo Tin Mừng với niềm xác tín rằng trong khi Tin Mừng của Đức Giê-su không thay đổi thì chính Tin Mừng đó đổi thay tư tưởng, lời nói và việc làm của con người, nghĩa là Tin Mừng thâm nhập, tạo năng lực mới và làm cho con người ngày càng sống xứng hợp hơn với phẩm giá cao quý của mình giữa môi trường thế giới thụ tạo. Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là mời gọi mọi người đón nhận Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất của gia đình nhân loại, đồng thời, mời gọi mọi người hiệp nhất nên một với Người nhờ sống theo giáo huấn của Người.

Để Tin Mừng có thể thẩm thấu mọi chiều kích của xã hội loài người, Giáo Hội cổ vũ công cuộc tân loan báo Tin Mừng, nghĩa là loan báo với phương thức mới, động lực mới, nhiệt huyết mới cũng như ngôn ngữ và biểu tượng phù hợp với tâm thức của con người trong mọi thời đại. Các thực thể trong môi trường truyền thống, văn hóa và xã hội của gia đình nhân loại không ngừng biến đổi. Do đó, Giáo Hội được mời gọi không ngừng quan tâm cách thức loan báo Tin Mừng của mình sao cho sứ điệp cốt lõi của Tin Mừng luôn được duy trì giữa những đổi thay của bối cảnh, đồng thời, sứ điệp đó được hiện diện và nảy sinh kết quả tốt đẹp trong tâm hồn những người đón nhận. Đến với muôn dân, Giáo Hội luôn ý thức mình không chỉ là ‘Giáo Hội giảng dạy’ (teaching Church) mà còn là ‘Giáo Hội học hỏi’ (learning Church). Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình tham gia tiến trình hội nhập văn hóa và đối thoại liên tôn để tìm hiểu và chia sẻ các giá trị Tin Mừng cũng như các giá trị văn hóa và tôn giáo của các dân tộc.

Giáo Hội luôn thâm tín rằng Đức Giê-su là Đường cho mọi người trong gia đình nhân loại và Đường của Người là Đường Loan Báo Tin Mừng về sự hiện diện và hoạt động của Nước Thiên Chúa giữa trần gian. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đón nhận Đường Đức Giê-su, sống theo Đường Đức Giê-su và trở nên khí cụ của Đường Đức Giê-su cho anh chị em mình. Do đó, mệnh lệnh Đức Giê-su truyền cho các môn đệ xưa kia cũng là mệnh lệnh cho mỗi chúng ta hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Điều này có nghĩa rằng Tin Mừng Đức Giê-su cần được loan báo trong mọi thời và khắp mọi nơi cho đến khi Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su của thời cánh chung, nghĩa là thời Người quang lâm, hiển trị. Đây chính là thời được thánh Phao-lô diễn tả: “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết... Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,25-28).