Lúc 08:30 sáng Chúa Nhật 5/12, ĐTC rời Toà Sứ thần, đi đến sân bay Athens cách đó 23km để bay đến sân bay Mytilene trên đảo Lesbos, bắt đầu ngày thứ hai chuyến tông du bằng việc thăm những người tị nạn ở “Trung tâm Tiếp nhận và Định danh”.
Đây là khu vực được trang bị cho việc tiếp nhận những người tị nạn ở Mytilene. Nó thay thế trung tâm tiếp nhận và định danh Mória, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Trại tị nạn Mória, là trại tị nạn lớn nhất ở châu Âu cho đến tháng 9 năm 2020, khi nó bị hỏa hoạn thiêu rụi. Trung tâm này nằm bên ngoài làng Mória gần Mytilene và đó là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm vào ngày 16/4/2016. Khu vực được trang bị mới ở Mytilene thường được người Hy Lạp gọi là “Mória 2.0” và chào đón hàng nghìn người.
ĐTC đến Trung tâm lúc 10:45, ngài đi dọc con đường dẫn vào nơi gặp gỡ và chào những người tị nạn tại đây. Có khoảng 200 người tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha.
Buổi gặp gỡ bắt đầu bằng một bài hát, sau đó Tổng thống Hy Lạp đã có một bài phát biểu ngắn, sau đó là chứng từ của một người tị nạn và một tình nguyện viên.
Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài diễn văn sau bài hát của một ca đoàn người tị nạn.
Bắt đầu bài diễn văn, ĐTC nói:
Anh chị em thân mến,
Cảm ơn về những lời của anh chị em. Tôi cảm ơn Bà Tổng thống, vì sự hiện diện và những lời của bà. Thưa anh chị em, tôi lại đến đây để gặp anh chị em. Tôi ở đây để nói với anh chị em rằng tôi gần gũi anh chị em. Tôi nói từ trái tim. Tôi ở đây để nhìn thấy khuôn mặt của anh chị em, để nhìn vào mắt anh chị em, đôi mắt đầy sợ hãi và mong đợi, đôi mắt đã nhìn thấy bạo lực và nghèo đói, đôi mắt nhíu lại vì quá nhiều nước mắt. Đức Thượng Phụ Đại Kết và người anh em Bartholomeo, cách đây 5 năm tại hòn đảo này, đã nói một điều khiến tôi bị đánh động: “Những người sợ anh chị em đã không nhìn thẳng vào mắt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn vào khuôn mặt của anh chị em. Những người sợ anh chị em đã không nhìn thấy con cái của anh chị em. Quên rằng phẩm giá và tự do vượt cao hơn nỗi sợ hãi và chia rẽ. Quên rằng di cư không phải là vấn đề của Trung Đông và Bắc Phi, của châu Âu và Hy Lạp, nhưng là một vấn đề của thế giới ”( Diễn văn, ngày 16 tháng 4 năm 2016).
Vâng, đó là một vấn đề của thế giới, một cuộc khủng hoảng nhân đạo ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Đại dịch đã ảnh hưởng đến chúng ta ở cấp độ toàn cầu, nó khiến tất cả chúng ta thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, nó khiến chúng ta học được thế nào là có cùng nỗi sợ hãi. Chúng ta hiểu rằng các vấn đề lớn phải được giải quyết cùng nhau, bởi vì trong thế giới ngày nay, các giải pháp rời rạc là không phù hợp. Nhưng trong khi chúng ta hết mình tiêm chủng toàn cầu, dẫu cho có những chậm trễ và do dự, hoặc có những bước tiến trong việc chống biến đổi khí hậu, nhưng điều này dường như gặp một sự lẩn tránh khủng khiếp đối với vấn đề di cư. Tuy nhiên, có nhiều người mà cuộc sống họ đang bị đe dọa! Tương lai của tất cả mọi người đang bị đe dọa, và chỉ sẽ bình yên nếu được hội nhập. Chỉ khi được hòa giải với những người yếu nhất thì tương lai đó mới thịnh vượng. Bởi vì khi người nghèo bị từ chối, thì hòa bình cũng bị từ chối.
Lịch sử dạy chúng ta rằng sự đóng lại và chủ nghĩa quốc gia sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại. Thật vậy, như Công đồng Vatican II đã nhắc lại, “ý chí cương quyết muốn tôn trọng người khác, những dân tộc khác cũng như phẩm giá của họ và sự ân cần thực thi tình huynh đệ là những điều kiện thiết yếu để xây dựng hòa bình.” (Gaudium et spes, 78). Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng làm như vậy là đủ để mình được an toàn, bảo vệ bản thân khỏi những kẻ yếu nhất đến gõ cửa chúng ta. Trong tương lai, chúng ta còn tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Để làm tương lai trở nên tốt đẹp, điều chúng ta cần không phải là những hành động đơn phương, nhưng là những chính sách mở rộng. Tôi nhắc lại, lịch sử đã dạy điều đó, nhưng chúng ta chưa học được. Đừng quay lưng lại với thực tế, đừng mãi thoái thác trách nhiệm, đừng luôn đẩy vấn đề di cư cho người khác, như thể chẳng ai liên can và đó chỉ là một gánh nặng vô ích mà ai đó buộc phải gánh vác!
Những chị em, anh em, những khuôn mặt và ánh mắt của anh chị em yêu cầu chúng ta không quay lưng lại, không phủ nhận nhân tính chung của chúng ta, biến câu chuyện của anh chị em thành của chúng ta và đừng quên những thảm kịch của anh chị em. Elie Wiesel, nhân chứng của thảm kịch lớn nhất thế kỷ qua, đã viết: “Chính vì tôi nhớ về sự khởi đầu chung của chúng ta mà tôi xích lại gần hơn với đồng loại của mình. Đó là bởi vì tôi không quên rằng tương lai của họ cũng quan trọng như tương lai của tôi.” (From the Kingdom of Memory, Reminiscences, New York, 1990, 10). Vào Chúa Nhật này, tôi cầu xin Chúa đánh thức chúng ta khỏi sự khước từ của chúng ta đối với những người đau khổ, đánh thức chúng ta khỏi chủ nghĩa cá nhân vốn loại trừ người khác, đánh thức những trái tim bị điếc của chúng ta trước nhu cầu của người khác. Và tôi cũng kêu gọi mọi người: chúng ta hãy vượt qua sự tê liệt của nỗi sợ hãi, sự thờ ơ giết chết, sự thờ ơ yếm thế kết án tử những người bên lề bằng đôi găng tay nhung lụa! Chúng ta hãy phản đối tận gốc tư tưởng thống trị, tư tưởng xoay quanh cái tôi, cái tôi cá nhân và quốc gia ích kỷ, vốn trở thành thước đo và tiêu chí của mọi thứ.
Năm năm đã trôi qua kể từ chuyến thăm được thực hiện tại đây với những người anh em thân yêu Bartolomeo và Jeronymos. Sau tất cả thời gian này, chúng ta vẫn thấy rằng vấn đề di cư chẳng mấy thay đổi. Tất nhiên, nhiều người đã dấn thân chào đón và hội nhập, và tôi muốn cảm ơn nhiều tình nguyện viên và những người ở mọi cấp - tổ chức, xã hội, từ thiện - đã thực hiện những nỗ lực to lớn, chăm sóc người dân và vấn đề di cư. Tôi ghi nhận sự dấn thân hỗ trợ và xây dựng các cơ sở tiếp nhận xứng đáng và tôi chân thành cảm ơn người dân địa phương vì những điều tốt đẹp mà họ đã làm và nhiều hy sinh mà họ đã cố gắng. Nhưng chúng ta phải cay đắng thừa nhận rằng đất nước này, cũng như những nước khác, vẫn đang chịu nhiều áp lực, và ở châu Âu có những người vẫn cương quyết coi vấn đề này như một việc mà họ không quan tâm. Và bao nhiêu điều kiện không xứng đáng với con người! Có bao nhiêu điểm nóng nơi người di cư và người tị nạn sống trong điều kiện hạn chế, mà không có giải pháp nào phía trước! Tuy nhiên, sự tôn trọng đối với các cá nhân và quyền con người, điều không ngừng được cổ võ trên toàn cầu, đặc biệt ở lục địa này, cần phải luôn được bảo vệ, và phẩm giá của mỗi người phải được đặt lên hàng đầu. Thật đáng buồn khi nghe đề xuất như một giải pháp rằng nguồn quỹ chung được sử dụng để xây tường. Tất nhiên, chúng ta hiểu những nỗi sợ hãi và bất an, khó khăn và nguy hiểm. Người ta cảm thấy mệt mỏi và thất vọng, càng trở nên trầm trọng hơn bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và đại dịch, nhưng không phải bằng cách dựng lên các hàng rào thì các vấn đề được giải quyết và sự chung sống được cải thiện. Thay vào đó, cần chung sức để chăm sóc người khác theo khả năng thực tế của mỗi người và tuân theo luật pháp, luôn đặt giá trị không thể chuyển nhượng của sự sống mỗi người lên hàng đầu. Elie Wiesel còn nói: “Khi tính mạng con người bị đe dọa, khi phẩm giá con người gặp nguy hiểm, thì biên giới quốc gia trở thành vô nghĩa” (Diễn văn nhận giải Nobel Hòa bình, ngày 10 tháng 12 năm 1986).
Trong nhiều xã hội khác nhau, có những đối kháng về ý thức hệ giữa an ninh và liên đới, địa phương và phổ quát, truyền thống và cởi mở. Thay vì tranh cãi về các ý tưởng, thì sẽ hữu ích hơn nếu bắt đầu với thực tế: hãy dừng lại, mở rộng tầm nhìn của chúng ta, dìm mình vào các vấn đề của đa số nhân loại, của nhiều nhóm nạn nhân của các trường hợp khẩn cấp nhân đạo mà chính họ không tạo ra nhưng lại phải gánh chịu, sau những chương dài lịch sử khai thác và hiện vẫn đang diễn ra. Người ta dễ dàng lôi kéo dư luận bằng cách khơi dậy nỗi sợ hãi về người khác. Nhưng tại sao chúng ta không nói, với cùng một thái độ, về sự bóc lột người nghèo, về những cuộc chiến bị lãng quên và thường được tài trợ mạnh tay, về những thỏa thuận kinh tế được thực hiện trên xương máu của người dân, về những thủ đoạn ẩn giấu để buôn bán vũ khí và phát triển thương mại vũ khí? Cần đối diện với những nguyên nhân sâu xa, chứ không phải bắt dân nghèo gánh chịu hậu quả, thậm chí bị lợi dụng để tuyên truyền chính trị! Để loại bỏ các nguyên nhân gốc rễ, không thể chỉ dừng lại ở các trường hợp khẩn cấp. Những hành động phối hợp là cần thiết. Những thay đổi mang tính biểu tượng cần được tiếp cận với tầm nhìn xa. Bởi vì không có câu trả lời dễ dàng cho các vấn đề phức tạp. Thay vào đó, cần phải đồng hành với các tiến trình từ bên trong, để vượt qua sự cô lập và khuyến khích hội nhập dần dần và thiết yếu, để chào đón các nền văn hóa và truyền thống của những người khác một cách huynh đệ và có trách nhiệm.
Trên tất cả, nếu chúng ta muốn bắt đầu lại, chúng ta hãy nhìn vào khuôn mặt của những đứa trẻ. Chúng ta tìm thấy can đảm để xấu hổ trước chúng, những người vô tội và là tương lai. Họ đặt câu hỏi về lương tâm của chúng ta và hỏi chúng ta: “Loại thế giới quý vị để lại cho chúng tôi?” Chúng ta đừng lạnh lùng lảng tránh những hình ảnh sống sượng của những tấm thân bé nhỏ nằm bất động trên các bãi biển. Địa Trung Hải, nơi hàng thiên niên kỷ đã gắn kết các dân tộc khác nhau và những vùng đất xa xôi, đang trở thành một nghĩa trang lạnh lẽo không bia mộ. Hồ nước rộng lớn này, cái nôi của nhiều nền văn minh, giờ đây trông giống như một tấm gương chết chóc. Chúng ta đừng để biển của chúng ta (mare nostrum) biến thành biển của sự chết (mare mortuum) hoang tàn, đừng để nơi gặp gỡ này trở thành sân khấu của sự đối đầu! Đừng để “biển của ký ức” này biến thành “biển của sự lãng quên”. Tôi kêu gọi hãy ngăn chặn sự nhấn chìm của nền văn minh này!
Trên các bờ biển này, Thiên Chúa đã trở thành người. Nơi đây, Lời của Người được vang vọng, loan báo rằng Thiên Chúa là “Cha và là Đấng hướng dẫn tất cả mọi người” (St. GREGORY OF NAZIANZO, Discorso 7 per il fratello Cesario, 24). Người yêu chúng ta như những người con và muốn chúng ta là anh em của nhau. Ngược lại, Thiên Chúa bị xúc phạm khi con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa bị xem thường, khi con người bị phó mặc cho sóng biển, trong sự phủi tay thờ ơ, đôi khi ngay cả được biện minh nhân danh điều được cho là các giá trị Kitô giáo. Trái lại, đức tin đòi hỏi lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Nó thúc đẩy lòng hiếu khách, là tình yêu đối với người xa lạ (philoxenia) đã thấm nhuần văn hóa cổ điển, và được biểu lộ rõ ràng nơi Chúa Giêsu, đặc biệt trong dụ ngôn Người Samari nhân hậu (xem Lc 10,29-37) và trong những lời của chương 25 Tin Mừng theo thánh Matthêu (x. cc. 31-46). Đây không phải là một ý thức hệ tôn giáo, nhưng là cội rễ Kitô giáo cách cụ thể. Chúa Giêsu đã long trọng khẳng định rằng Người hiện diện ở đó, nơi người lạ, người tị nạn, người mình trần và đói khát. Và đường lối Kitô giáo được tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Vâng, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã viết: đường lối Kitô giáo “là một con tim biết nhìn”. (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, 31).
Bây giờ chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ mở mắt cho chúng ta trước những đau khổ của anh chị em mình. Mẹ đã vội vã lên đường đến với người chị họ Elizabeth đang mang thai. Biết bao người mẹ mang thai đã chết khi đang hành trình vội vã ngay cả khi đang mang trong mình sự sống! Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta có một cái nhìn mẫu tử, biết nhìn thấy người khác là những người con của Thiên Chúa, là anh chị em để được chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập; và để được yêu một cách dịu dàng. Xin Mẹ Rất Thánh dạy chúng ta đặt thực tế của nhân loại lên trên những ý tưởng và ý thức hệ, và có những bước tiến vội vã để gặp gỡ những người đau khổ.
Sau bài diễn văn, Đức Thánh Cha đã mời mọi người cùng đọc Kinh Truyền Tin.
Kết thúc buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha thăm một số người tị nạn và năm nơi ở của họ. Sau đó, ngài ra sân bay để trở về Athens. Buổi chiều, Đức Thánh Cha dâng thánh lễ với cộng đoàn Công giáo tại “Thính phòng Megaron” của Athens.
Văn Yên, SJ - Vatican News
https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-12/dtc-tham-nguoi-ti-nan-o-mylinene-tren-dao-lesbos-hylap.html