Tháng 11 - Cùng suy tư về sự phục sinh của thân xác

14/11/2025
184


THÁNG 11 – CÙNG SUY TƯ VỀ SỰ PHỤC SINH CỦA THÂN XÁC

Cuối Kinh Tin Kính, Giáo hội tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Trong công thức này chứa đựng một cách ngắn gọn những yếu tố nền tảng của niềm hy vọng về cánh chung của Giáo hội, nghĩa là điều con người mong đợi vào cuối cuộc đời mình. Nền tảng của niềm hy vọng Kitô giáo chính là lời hứa được sống lại cùng với Chúa.

Niềm tin vào sự phục sinh

Nhiều lần, Giáo hội đã tuyên xưng đức tin vào sự phục sinh của tất cả những người đã an nghỉ trong Chúa. Điều này như một sự “mở rộng” sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, “Người là Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29), cho tất cả mọi người, cả người công chính lẫn kẻ tội lỗi; sự phục sinh sẽ xảy ra khi Ngài trở lại vào cuối thời gian để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Khi chết, như chúng ta biết, linh hồn tách rời khỏi thân xác, nhưng với sự phục sinh, thân xác và linh hồn được hợp nhất trở lại trong vinh quang vĩnh viễn[1]. Tín điều về sự phục sinh của thân xác, bên cạnh việc nói về sự trọn vẹn của sự sống bất tử mà con người được định hướng đến, còn được trình bày như một lời nhắc nhở sống động về phẩm giá con người, nhất là về khía cạnh thể xác. Nó nói lên sự tốt lành của thế giới, của thân xác, giá trị của lịch sử sống hàng ngày, và ơn gọi vĩnh cửu của vật chất. Vì thế, đối lại với những người dị giáo Gnostic thế kỷ II, các Giáo phụ đã nhấn mạnh sự phục sinh của xác thịt, tức là sự sống của con người trong tính vật chất thân xác của mình.

Thánh Tôma Aquinô xem sự phục sinh của người chết là điều tự nhiên liên quan đến định mệnh của con người, vì linh hồn bất tử được tạo ra để kết hợp với thân xác, và ngược lại, nhưng lại là điều siêu nhiên liên quan đến Thiên Chúa thực hiện nó, nghĩa là tự nhiên theo “nguyên nhân cuối cùng” và siêu nhiên theo “nguyên nhân hiệu lực”[2].

Thân xác được phục sinh sẽ thật sự có thực và vật chất, nhưng không thuộc trần gian và không chết nữa. Thánh Phaolô phản đối ý tưởng phục sinh như một sự biến đổi con người trong lịch sử, và do đó nói về thân xác phục sinh là “vinh quang” ( Pl 3, 21) và “linh thánh” (1 Cr 15, 44). Sự phục sinh của con người, cũng như của Đức Kitô, sẽ xảy ra cho tất cả mọi người sau khi chết, vào cuối thời gian.

Giáo hội không hứa cho các Kitô hữu một cuộc sống thành công trên trần gian, mà người ta gọi đó là ảo tưởng, vì cuộc sống trần gian của chúng ta luôn mang dấu Thánh Giá. Đồng thời, qua bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, quá trình phục sinh đã bắt đầu phần nào ở đời này[3]. Theo thánh Tôma, trong trạng thái phục sinh, linh hồn ảnh hưởng đến thân xác đến mức mọi phẩm chất luân lý và thiêng liêng đều phản chiếu trên thân xác[4]. Như vậy, sự phục sinh cuối cùng, sẽ xảy ra khi Đức Giêsu Kitô đến trong vinh quang, sẽ cho phép việc xét xử cuối cùng kẻ sống và kẻ chết.

Bốn lưu ý thực tiễn về giáo lý phục sinh:

1.     Giáo lý phục sinh cuối cùng loại trừ thuyết luân hồi, theo đó linh hồn con người sau khi chết sẽ chuyển sang thân xác khác nhiều lần cho đến khi được thanh tẩy hoàn toàn. Cuộc sống con người là duy nhất, không lặp lại; điều này làm cho mọi hành động hàng ngày của chúng ta trở nên có ý nghĩa sâu sắc. Trong vấn đề này, Công đồng Vatican II đã nói về “một cuộc sống duy nhất của chúng ta”[5].

2.     Một biểu hiện rõ ràng của đức tin Giáo hội vào sự phục sinh của chính thân xác chúng ta là sự tôn kính hài cốt các thánh, điều rất trung tâm trong lòng đạo đức tín hữu.

3.     Dù việc hỏa táng không bị cấm, trừ khi được chọn vì những lý do trái với đức tin (Giáo luật, 1176), Giáo hội vẫn khuyên nên giữ tục lệ chôn cất thi thể; thân xác với tính vật chất là phần không thể tách rời của con người, sẽ được phục sinh vào cuối thời gian, đã từng tiếp xúc với các bí tích do Đức Kitô thiết lập và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. 

4.     Sự phục sinh của thân xác trùng khớp với những gì Thánh Kinh gọi là sự đến của “trời mới và đất mới” (Kh 21,1). Không chỉ con người được đưa đến vinh quang, mà cả vũ trụ trong đó con người sống và hoạt động cũng sẽ được biến đổi. Giáo hội, trong Đức Kitô Giêsu mà tất cả chúng ta được gọi và nhờ ơn Thiên Chúa mà đạt được sự thánh thiện, chỉ đạt đến sự hoàn thiện trong vinh quang thiên quốc, khi thời điểm tất cả mọi sự được đổi mới đến (Cv 3,1) và cùng với nhân loại, toàn bộ vũ trụ, liên kết mật thiết với con người và qua con người đạt đến định mệnh của mình, sẽ tìm thấy sự hoàn hảo cuối cùng nơi Đức Kitô (Ep 1,10; Cl 1,20; 2 Pr 3,10-13).

Ý nghĩa Kitô giáo về cái chết

Bí ẩn về cái chết của con người chỉ có thể được hiểu dưới ánh sáng của sự Phục Sinh của Đức Kitô và sự phục sinh của chúng ta trong Ngài. Thật vậy, cái chết, sự mất đi sự sống con người, sự chia lìa linh hồn và thân xác được xem như điều ác lớn nhất trong trật tự tự nhiên. Nhưng điều này sẽ hoàn toàn được khắc phục khi Thiên Chúa, trong Đức Kitô, phục sinh nhân loại vào cuối thời gian.

Cái chết là tự nhiên theo nghĩa linh hồn có thể tách khỏi thân xác. Nó đánh dấu sự kết thúc cuộc hành trình trần gian. Sau cái chết, con người không thể làm điều lành hay điều dữ nữa; cũng không còn cơ hội ăn năn hối cải. Ngay sau khi chết, linh hồn sẽ đến thiên đàng, hỏa ngục hoặc luyện ngục, trải qua cái gọi là phán xét riêng[6]. Tính không thể tránh khỏi của cái chết giúp con người chỉnh đốn cuộc sống, biết tận dụng thời gian và các tài năng khác Thiên Chúa ban, hành động chính trực và phục vụ tha nhân.

Mặt khác, Kinh Thánh dạy rằng cái chết đã vào thế gian vì tội lỗi ( St 3, 17-19; Gs 1, 13-14; 2, 23-24; Rm 5, 12; 6, 23; Gc 1, 15 ). Theo nghĩa này, cái chết được xem như sự trừng phạt tội lỗi: con người, vì muốn sống tách rời Thiên Chúa, phải chấp nhận những đau khổ và hậu quả của sự chia lìa với Ngài, với xã hội và với chính bản thân như kết quả của sự xa lánh đó.

Tuy nhiên, Đức Kitô, nhờ vâng phục, đã chiến thắng cái chết và đem lại sự phục sinh cùng ơn cứu độ cho nhân loại. Với những ai sống trong Đức Kitô qua bí tích Rửa Tội, cái chết luôn đau đớn và đáng ghét, nhưng không còn là dấu nhắc sống động về tội lỗi nữa mà là cơ hội quý giá để chuộc lỗi với Đức Kitô bằng sự chết đi cho mình và dâng hiến cho tha nhân. “Nếu chúng ta đã chết với Ngài, thì cũng sẽ sống với Ngài” (2 Tm 2, 11). Vì thế, “nhờ Đức Kitô, cái chết của người Kitô có một ý nghĩa tích cực”[7]. Sự chết đi dần dần cho bản thân mà đời sống Kitô giáo mang lại giúp đạt được sự hiệp nhất vĩnh viễn với Đức Kitô qua cái chết.

Sự sống đời đời trong hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa

Khi sáng tạo và cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã định hướng con người đến sự hiệp thông vĩnh cửu với Ngài, điều thánh Gioan gọi là “sự sống đời đời”, hay thường gọi là “thiên đàng”. Đức Giêsu đã trao ban cho con cái Ngài lời hứa của Chúa Cha: “ Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, anh đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ giao cho anh việc lớn hơn; hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25, 21). Vậy sự sống đời đời là gì? “Sự đời đời không phải là sự nối tiếp liên tục các ngày trong lịch, mà là một khoảnh khắc tràn đầy thỏa mãn, trong đó tổng thể ôm lấy chúng ta và chúng ta ôm lấy tổng thể. Đó sẽ là khoảnh khắc đắm chìm trong đại dương tình yêu vô hạn, nơi mà thời gian trước và sau không còn tồn tại. Chúng ta chỉ có thể cố gắng nghĩ rằng khoảnh khắc đó là sự sống viên mãn, một sự đắm mình luôn mới mẻ trong bao la của sự tồn tại, trong khi chúng ta chỉ đơn giản là tràn ngập niềm vui”[8].

Cuối cùng, sự sống đời đời là điều mang lại ý nghĩa cuối cùng và bền vững cho cuộc sống con người, cho sự cam kết đạo đức, cho sự cho đi rộng lượng, cho sự phục vụ tận tụy, và cho nỗ lực truyền đạt giáo lý và tình yêu của Đức Kitô cho mọi linh hồn.

Niềm hy vọng Kitô giáo về thiên đàng không mang tính cá nhân chủ nghĩa “cho riêng tôi”, mà liên quan đến tất cả mọi người. Dựa trên lời hứa sự sống đời đời, người Kitô hữu kiên định tin rằng “đáng để” sống trọn vẹn đời sống Kitô giáo. “Thiên đàng là đích cuối cùng và sự hoàn thành những khát vọng sâu xa nhất của con người, là trạng thái hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn”[9].

Những ai chết trong ân sủng sẽ mãi mãi giống Thiên Chúa, vì họ nhìn thấy Ngài “như Ngài thật sự là” (1 Ga 3, 2), nghĩa là “đối diện trực tiếp” (1 Cr 13, 12), gọi là sự thị kiến hạnh phúc của Thiên Chúa. Thiên đàng là biểu hiện cao nhất của sự ban tặng Thiên Chúa cho con người.

Cùng lúc đó, trên thiên đàng, con người có thể yêu thương những ai mình đã yêu thương trên trần thế bằng một tình yêu tinh khiết và vĩnh cửu. “Sau khi chết, đừng bao giờ quên rằng Tình Yêu sẽ đến với bạn. Và trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bạn sẽ tìm thấy tất cả những tình yêu cao quý mà bạn từng biết trên trần gian”[10]. Niềm vui trên thiên đàng đạt đến đỉnh điểm với sự phục sinh của thân xác.

Việc thiên đàng tồn tại vĩnh viễn không có nghĩa là con người mất tự do trong đó. Chắc chắn, trên thiên đàng con người không phạm tội; họ không thể phạm tội vì khi thấy Thiên Chúa trực diện, thực sự họ không muốn phạm tội. Một cách tự do và như con cái, con người được cứu sẽ luôn hiệp thông với Thiên Chúa, vì đó là điều họ mong muốn. Với thiên đàng, tự do của họ được thực hiện trọn vẹn.

Cuối cùng, theo thánh Tôma, sự sống đời đời phụ thuộc vào lòng bác ái của mỗi người: “Ai có lòng bác ái nhiều hơn thì sẽ được tham dự ánh sáng vinh quang nhiều hơn, và sẽ thấy Thiên Chúa trọn vẹn hơn và được hạnh phúc hơn”[11].

Hỏa ngục như sự từ chối cuối cùng đối với Thiên Chúa

Thánh Kinh dạy rằng những người mắc tội trọng sẽ mất phần thưởng vĩnh cửu của sự hiệp thông với Thiên Chúa, và ngược lại sẽ chịu sự thất sủng muôn đời. “Chết trong tội trọng mà không ăn năn và không đón nhận tình yêu nhân từ của Thiên Chúa có nghĩa là tự do lựa chọn sống xa cách Người mãi mãi. Và đó là trạng thái tự loại trừ vĩnh viễn khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh nhân mà ta gọi là hỏa ngục”[12]. Thiên Chúa không định đoạt ai phải chịu sự phán xét vĩnh viễn; chính con người, khi tìm kiếm mục đích cuối cùng của mình ngoài Thiên Chúa và thánh ý của Người, tự xây dựng cho mình một thế giới cô lập mà ánh sáng và tình yêu của Thiên Chúa không thể xuyên nhập. Hỏa ngục là một mầu nhiệm, mầu nhiệm của Tình yêu bị từ chối; nó là dấu hiệu của sức mạnh hủy diệt của con người tự do khi quay lưng với Thiên Chúa. Địa ngục là “không còn yêu nữa”.

Học thuyết về hỏa ngục trong Tân Ước được trình bày như một lời kêu gọi trách nhiệm trong việc sử dụng các ân tặng và tài năng được ban, cũng như lời mời gọi hoán cải. Sự hiện hữu của nó làm cho con người nhận thức được tính nghiêm trọng của tội trọng, và sự cần thiết phải tránh bằng mọi cách, trước hết là bằng lời cầu nguyện khiêm tốn và tin tưởng. Khả năng bị phán xét vĩnh viễn cũng nhắc nhở các Kitô hữu phải sống một cuộc đời hoàn toàn tận hiến cho người khác trong sứ vụ Kitô giáo.

Thanh luyện để tìm thấy Thiên Chúa

“Những ai chết trong ân sủng và tình bạn với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn về ơn cứu độ đời đời, thì sau khi chết sẽ chịu sự thanh luyện để đạt được sự thánh thiện cần thiết nhằm vào niềm vui thiên đàng”[13]. Có thể nghĩ rằng nhiều người, dù không sống thánh thiện trọn vẹn trên đời, không bị giam hãm mãi mãi trong tội lỗi. Khả năng được thanh luyện sau khi chết khỏi những ô uế và thiếu sót của cuộc đời, dù tốt hay xấu, là một lòng thương xót mới của Thiên Chúa, Người muốn sống thân mật với họ: “Luyện ngục, lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho những ai mong muốn đồng hóa mình với Người”[14].

Cựu Ước cũng nói về sự thanh luyện sau đời này. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corinthô (1 Cr 3, 10-15) trình bày sự thanh luyện Kitô giáo trong đời này và đời sau qua hình ảnh lửa; một ngọn lửa mà phần nào phát ra từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc, Thẩm Phán và Nền Tảng của đời sống Kitô giáo. Mặc dù học thuyết về luyện ngục chưa được định nghĩa chính thức cho đến thời Trung cổ  nhưng việc thực hành cổ xưa và thống nhất dâng lời cầu nguyện cho các linh hồn, đặc biệt qua Thánh Lễ, là bằng chứng rõ ràng cho niềm tin của Hội Thánh về sự thanh luyện sau khi chết. Cầu nguyện cho người chết sẽ vô ích nếu không thể giúp được họ ( 2 Mcb 12, 40-45).

Luyện ngục có thể xem như trạng thái tạm thời và đau đớn xa cách Thiên Chúa, nơi tội nhẹ được tha thứ, khuynh hướng xấu do tội để lại trong linh hồn được thanh luyện, và “hình phạt tạm thời” do tội gây ra được vượt qua. Quả thật, tội không chỉ xúc phạm Thiên Chúa và hại chính kẻ phạm tội, mà qua sự hiệp thông các thánh, còn làm tổn hại Hội Thánh, thế giới và toàn thể nhân loại. Nhưng lời cầu nguyện của Hội Thánh cho người chết phần nào tái lập trật tự và công lý, và làm hòa giải vĩnh viễn với Thiên Chúa. Ở luyện ngục có nhiều nỗi đau, tùy theo hoàn cảnh từng người. Tuy nhiên, đó là nỗi đau có ý nghĩa lớn, “một nỗi đau được chúc phúc”[15]. Các Kitô hữu được mời gọi tìm sự thanh luyện tội lỗi trong cuộc sống hiện tại qua sám hối, đền tội, bù đắp và sống thánh thiện.

                                                                                    Linh mục Giuse Phan Cảnh

ĐCV Thánh Phaolo Lê Bảo Tịnh Thanh Hóa

[1] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 997.

[2] Saint Thoma d’Aquin, Summa Contra Gentes, IV, 81.

[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1000.

[4] Saint Thoma d’Aquin, Summa Theologiae, III. Suppl., 78-86.

[5] CĐ Vaticano II, Lumen gentium, số 48.

[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1021 - 1022.

[7] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1010.

[8] ĐGH Benedicto XVI, Spe Salvi,  số 12.

[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1024.

[10] Thánh Josémaria, Bạn hữu của Thiên Chúa, số 221.

[11] Saint Thoma d’Aquin, Summa Theologiae, I, 12.

[12] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1033.

[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1030.

[14] Thánh Josémaria, Sillon, số 889.

[15] ĐGH Bênêđíctô XVI, Spe Salvi, số 47.