Các quan điểm Do Thái và Kitô Giáo về tính bổ túc nam nữ (Phần I)

27/02/2018
1226
Sau phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tháng Sáu năm 2013 nhằm đảo ngược Đạo Luật Bảo Vệ Hôn Nhân, hôn nhân đồng tính đã trở thành hợp pháp tại hơn 30 tiểu bang. Sự thay đổi lớn lao này khiến các nhóm tôn giáo, nhất là Do Thái Giáo và Kitô Giáo, lên tiếng bênh vực hôn nhân truyền thống theo nghĩa một cuộc kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà. 

Thực vậy, ba hội nghị tôn giáo quan trọng đã được tổ chức liên tiếp trong bốn tuần của tháng Mười và tháng Mười Một năm 2014, chuyên bàn về hôn nhân. Trước nhất, Ủy Ban Đạo Đức và Tự Do Tôn Giáo của Giáo Hội Baptist miền Nam Hoa Kỳ tổ chức một hội nghị với chủ đề The Gospel, Homosexuality, and the Future of Marriage (Tin Mừng, Đồng Tính Luyến Ái, và Tương Lai Hôn Nhân, tháng Mười, 2014). Chỉ ít ngày sau, tức trung tuần tháng Mười Một, Dự Án Cải Cách (Reformation Project), một tổ chức Thệ Phản, đã tổ chức một hội nghị ở Washington D.C. để chứng minh sự tương hợp của đồng tính luyến ái với các niềm tin Thệ Phản.

Và cuối cùng, cũng trong tháng Mười Một, Toà Thánh Vatican tổ chức một nghị hội liên tôn gọi là Hội Thoại Humanum (Colloquium Humanum) bàn về tính bổ túc nam nữ. Đây là một hội nghị thực sự có tính liên tôn, qui tụ các tham dự viên và diễn giả Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Sikh, Do Thái Giáo, Mormon, Ấn Giáo, và Phật Giáo. Tuy khác nhau về tín ngưỡng, tất cả các tham dự viên và diễn giả này đều đồng thuận với sứ điệp thống nhất của Hội Thoại rằng tính bổ túc nam nữ là gốc rễ của hôn nhân và rất quan trọng để con người phát triển. 

Tuy nhiên, nói đến tính bổ túc là nói đến các dị biệt nam nữ, điều mà não trạng hiện đại có khuynh hướng bác bỏ vì cho rằng nhấn mạnh tới dị biệt là nhấn mạnh và duy trì hiện trạng bất bình đẳng nam nữ. Đặc biệt, đó là chủ trương của những người cổ vũ hôn nhân đồng tính. Người cổ vũ tính bổ túc thì cho rằng bổ túc không hề là bất bình đẳng. Lý luận đưa ra để bênh vực luận đề này có khá nhiều sắc thái mà chúng ta cần đào sâu. 

Trong loạt bài này, chúng tôi sẽ tường trình ba đóng góp quan trọng của các đại diện Giáo Hội Baptist miền Nam Hoa Kỳ, Do Thái Giáo và Giáo Hội Công Giáo, ba quan điểm ủng hộ tính bổ túc nam nữ, một bổ túc không bác bỏ tính bình đẳng giữa hai phái tính này.

Như sẽ thấy, khi nói tới cung cách bổ túc cho nhau, mỗi đại diện sẽ cho thấy những sắc thái dị biệt của mình. Lấy đại diện của Giáo Hội Baptist Miền Nam Hoa Kỳ làm điển hình. Dựa vào chân lý: người đàn bà và người đàn ông được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, tác giả cho rằng họ bình đẳng trong yếu tính và do đó, trong phẩm giá, nhưng khác nhau như những biểu thức khác nhau của cùng một bản chất yếu tính. 

Tuy nhiên, khi quá nhấn mạnh tới sự khác nhau này, tác giả đã lâm vào thế khó khăn lớn dẫn tới chủ trương cho rằng người đàn ông phải là người lãnh đạo, người đứng đầu, ít nhất trong gia đình và trong Giáo Hội. Ông cho rằng: người nam được dựng nên trước, không cần trung gian; còn người nữ được dựng nên sau, cần trung gian (xương sườn Ađam). Nên trong ý định của Thiên Chúa, đã có một ưu tiên về thời gian đối với nam nữ. Rồi dựa vào 1Tm 2:13 và 1Cor 11:8, ông kết luận: “Quyền lãnh đạo của nam giới dường như đã bắt nguồn từ thứ tự tạo dựng này”.

I. Quan điểm Baptist về tính bổ túc nam nữ 

Sau đây là nguyên văn bài “Male and Femal Complementarity and The Image of God” của Bruce A. Bruce A. Ware, Phụ Tá Khoa Trưởng Trường Thần Học và là Giáo Sư Thần Học Kitô Giáo tại Chủng Viện Thần Học Baptist Miền Nam, Louisville, Kentucky, đăng trong Biblical Foundations for Manhood and Womanhood, do Wayne Grudem chủ biên, xuất bản năm 2002. Chúng tôi lược bỏ phần tác giả nói về hình ảnh Thiên Chúa, để đi thẳng vào phần ông nói tới bình đẳng và vị thế “ưu tiên” của người nam trong sự bình đẳng này.

Nam và nữ như là hình ảnh Thiên Chúa

Sự bình đẳng nam nữ như là hình ảnh Thiên Chúa


Các nhà chủ trương bổ túc và các nhà chủ trương bình đẳng đều đồng ý với nhau rằng việc dựng nên nam và nữ như hình ảnh Thiên Chúa cho thấy giá trị người đàn bà bằng với giá trị người đàn ông vì đều trọn vẹn là những con người cả, với phẩm giá, giá trị và tầm quan trọng bằng nhau. Dù St 1:26-27 có nói tới việc Thiên Chúa dựng nên “con người (man)” giống hình ảnh Người, nhưng ở cuối câu 27, đoạn văn này cố ý mở rộng để nói rằng “Người dựng nên chúng có nam có nữ”.

Rõ ràng ý định của bản văn muốn nói rằng cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều có một nhân tính chung và có giá trị bằng nhau trước mặt Thiên Chúa (do đó, cả hai đều là người) ấy thế nhưng, không vì thế họ trở thành đồng nhất, y như nhau (do đó, họ là “nam và nữ” khác biệt nhau).

St 5:1-2 chỉ củng cố và tăng cường cái hiểu trên mà thôi. Ở đây, Thánh Kinh viết “Ðây là gia phả ông Ađam: Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là "người (man)", ngày họ được sáng tạo”. Cũng như ở St 1:26-27, ở đây ta thấy căn tính chung của cả nam lẫn nữ, vì cả hai đều được đặt tên là “người”, thế nhưng nam và nữ vẫn là lối diễn tả khác nhau của cùng một bản tính chung và được chiếm hữu ngang nhau là “người”. Như nhiều người đã nhận định, vì bản văn này được viết trong ngữ cảnh chế độ gia trưởng (patriarchal), nên quả là điều đáng lưu ý khi soạn giả Thánh Kinh quyết định đồng nhất hóa người nữ với người nam, xác nhận họ có cùng tên và bản tính là “người”. Nam và nữ, như thế, quả bình đẳng trong yếu tính và do đó bình đẳng trong phẩm giá, trong giá trị và tầm quan trọng. 

Một chứng từ rõ ràng khác của Thánh Kinh đối với sự bình đẳng này tìm thấy nơi vị trí của người đàn ông và người đàn bà được cứu chuộc trong Chúa Kitô. Câu của Thư Galát 3:28 (“không phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, không phân biệt nô lệ hay tự do, không biệt nam hay nữ, vì anh chị em tất cả đều là một trong Chúa Giêsu Kitô”) cho thấy rõ: các phân biệt theo phái tính không có liên hệ gì tới thế đứng và công phúc ta có trong Chúa Kitô (15). Như Thánh Phaolô từng nói trong câu trước đó, tất cả những người chịu phép rửa nơi Chúa Kitô đều được mặc lấy Chúa Kitô” (3:27). Như thế, cả đàn ông và đàn bà, những người trở thành con cái Chúa nhờ đức tin, đều được dự phần vào lời hứa của Người và tất cả những gì do lời hứa này phát sinh (3:29). Thánh Phêrô cũng lặp lại ý tưởng này khi ngài khuyên các người chồng tín hữu phải tỏ lòng kính trọng vợ như những người đồng thừa hưởng ơn thánh của đời sống trong Chúa Kitô với mình (1Pr 3:7). Vợ chồng Kitô hữu có cùng một thế đứng hoàn toàn bình đẳng trong Chúa Kitô: cả hai được đức tin cứu vớt, cả hai được kết hợp trọn vẹn với Chúa Kitô, và cả hai đều là người thừa hưởng mọi kho tàng của Chúa Kitô. Các đoạn Tân Ước này phản ảnh giáo huấn Thánh Kinh dạy rằng: nam nữ bình đẳng trong nhân tính của họ thế nào (St 1:26-27), thì họ cũng bình đẳng như thế trong việc tham dự vào sự viên mãn của Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc họ (Gl 3:28). 

Sự dị biệt hóa nam nữ như là hình ảnh Thiên Chúa

Sau khi quả quyết sự bình đẳng hoàn toàn trong yếu tính của người đàn ông và người đàn bà như đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, một nhận xét hiển nhiên cần phải đưa ra vì có hệ luận khá quan trọng, đó là: dù người nam là người hoàn toàn, nhưng họ là người nam, chứ không phải người nữ; và dù người nữ là người hoàn toàn, nhưng họ là người nữ, chứ không phải người nam. Nghĩa là, dù Thiên Chúa có ý định dựng nên người nam và người nữ như những người bình đẳng trong bản chất yếu tính làm người của họ, Người cũng đồng thời có ý định dựng nên họ như những biểu thức khác nhau của cùng bản chất yếu tính ấy, vì nam và nữ quả phản ảnh việc làm người cách khác nhau. Thành thử, câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây là: các dị biệt nam nữ này có liên hệ ra sao với vấn đề ý nghĩa của việc đàn ông và đàn bà được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. 

Một số người có thể nghĩ rằng vì St 1:26-27 và St 5:1-2 đều nói tới việc nam và nữ được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa như nhau, nên bất cứ sự khác nhau nào giữa nam và nữ mà người ta có thể chỉ ra đều không thể liên hệ tới ý nghĩa thống nhất trong đó họ chiếm hữu hình ảnh Thiên Chúa cách bình đẳng và trọn vẹn. Việc cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa một cách bình đẳng và trọn vẹn không chứng tỏ sự dị biệt của họ mà chỉ chứng tỏ sự chung nhau và bình đẳng của họ mà thôi. Đúng, nam và nữ có khác nhau, nhưng, có người cho rằng, họ không khác nhau theo nghĩa là hình ảnh Thiên Chúa; ta phải dựa vào điều khác để xác định căn bản cho các dị biệt của họ. 

Thiển nghĩ việc phân biệt này không phản ảnh trọn vẹn giáo huấn của Thánh Kinh. Ở đây, chúng tôi nghĩ: cách tốt nhất nên hiểu việc tạo dựng nguyên thủy người nam và người nữ như một trình thuật trong đó, người nam được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa trước, một cách không cần trung gian, vì Thiên Chúa tạo nên họ từ bụi đất, trong khi người nữ được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa sau đó, một cách cần trung gian, vì Thiên Chúa không chọn đất mà là chọn xương sườn cụt của Ađam để dựng nên Evà cũng trọn vẹn và là hình ảnh Thiên Chúa bằng nhau. Như thế, dù cả hai đều trọn vẹn là hình ảnh Thiên Chúa, và cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa bằng nhau, nhưng có thể cả hai không được cấu tạo giống hình ảnh Thiên Chúa một cách y như nhau. Thánh Kinh cho ta một số chỉ dẫn cho thấy có một sự ưu tiên về thời gian (temporal priority) trong ý định của Thiên Chúa (16): Người muốn cho người nam làm hình ảnh nguyên thủy của Người, qua đó, người nữ được phát sinh, với tư cách là hình ảnh Thiên Chúa nhưng được cấu tạo từ người nam. 

Thánh Kinh rõ ràng cho thấy Thiên Chúa dựng nên người đàn ông trước. Đó không phải là dấu chỉ một thứ ưu tiên nào đó ít nhất về thời gian hay sao? Tuy nhiên, có người cho rằng dựng nên đàn ông trước hay đàn bà trước chỉ là việc Thiên Chúa tung lên một đồng tiền hai mặt, không có ý nghĩa thần học gì cả. Nhưng đó không hẳn là nhận định của Thánh Phaolô trong 1Tm 2:13 và 1Cor 11:8 (17). Ngài cho rằng việc dựng nên người nam trước người nữ có một ý nghĩa thần học quan trọng. Quyền lãnh đạo của nam giới dường như đã bắt nguồn từ thứ tự tạo dựng này. 

Vả lại, nếu Thiên Chúa cố ý dựng người nam trước người nữ về thời gian, thì ta cũng có thể cho rằng Người cố ý dựng nên Ađam bằng bụi đất và dựng nên Evà bằng chiếc xuơng sườn cụt của Ađam. Việc này cho thấy, tuy cùng dựng nên họ giống hình ảnh Người, Thiên Chúa đã dựng nên họ một cách không như nhau. Bởi nếu không, đáng lẽ, sau khi dựng nên người nam bằng bụi đất rồi, Người cũng sẽ dùng bụi đất mà dựng nên người nữ chứ. Nhưng Người đã không làm thế, Người đã dùng xương sườn cụt của Ađam mà dựng nên Evà. Ở đây, dường như Thiên Chúa muốn chỉ ra hai sự thật thần học, chứ không phải chỉ là một: vì người nữ được lấy ra từ người nam, nên 1) nàng là người một cách trọn vẹn và bình đẳng vì nàng phát sinh từ xương thịt chàng, 2) bản tính người của nàng được cấu tạo, không phải một cách song hành nghĩa là cùng bởi bụi đất như chàng, mà dẫn khởi từ chính bản tính của chàng do đó cho thấy, do Chúa sắp đặt, nàng phải lệ thuộc vào chàng để khởi sinh. 

Lối hiểu trên dường như được chính lời lẽ của Thánh Phaolô xác nhận: 1Cor 11:8 quả quyết rằng: “vì người nam không phát sinh từ người nữ, nhưng người nữ phát sinh từ người nam”. Ta thấy ở đây, Thánh Phaolô không chỉ nói: người nam được dựng nên trước người nữ, mà người nữ phát sinh từ người nam. 

Thứ hai, trong St 5:2, Thiên Chúa quyết định đặt cho cả người nam và người nữ một cái tên ở giống đực: adam trong tiếng Hípri là một hạn từ giống đực chỉ được dùng cho nam giới, nhất là trong St 1-4, nhưng ở đây được dùng như một hạn từ chủng loại (generic term) chỉ cả nam lẫn nữ. Tại St 5:2, ta đọc thấy rõ ràng rằng Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Người, có nam có nữ, và “khi họ (chúng) được dựng nên, Người gọi họ (chúng) là ‘người’”. Xem ra Thiên Chúa muốn cho căn tính của cả hai chứa một yếu tố ưu tiên dành cho người nam, vì Người chọn làm tên chung cho họ một cái tên rõ ràng thuộc giống đực, tức một cái tên cũng có thể chỉ dùng cho người nam, như một người khác với người nữ, nhưng không bao giờ dùng cho một mình người nữ, hiểu như khác với người nam. Vì Thiên Chúa đã quyết định dựng nên con người có nam có nữ như thế, nên do kế sách của Người, căn tính người nữ, trong tư cách nữ, đã nối kết một cách hết sức chặt chẽ và bắt nguồn từ căn tính có trước của người nam (18). 

Như thế, việc Thiên Chúa gọi cả nam lẫn nữ là “đàn ông” (tiếng Anh: man) cùng một lúc cho thấy cả sự khác biệt của nữ đối với nam, lẫn sự thống nhất trong bản tính nữ vì nó được đồng hóa với bản tính có trước của người đàn ông đầu tiên được tạo dựng, mà từ đó, nay nàng phát xuất. Vì sự việc như thế, nên ta nên chống lại phong trào phiên dịch Thánh Kinh ngày nay, một phong trào có khuynh hướng dịch các điển hình sử dụng chữ’adam bằng hạn từ hoàn toàn không chỉ phái tính nào chuyên biệt là “hữu thể nhân bản” (human being) (19). Lối dịch này đã không xét gì đến hệ luận do chính Thiên Chúa dự tính, được chuyên chở bởi hạn từ chủng loại chỉ phái nam là “người đàn ông”; hệ luận này là: đàn bà chỉ sở hữu được bản chất chung nhân bản nhờ bản chất có trước của đàn ông. Nói cách khác, nàng là đàn bà giống hình ảnh Thiên Chúa nhờ chia sẻ nơi đàn ông, người trước đó vốn là hình ảnh Thiên Chúa. Như thế, sự ưu tiên của người nam đã được ấn định song song với sự bình đẳng hoàn toàn của nam và nữ, khi Thiên Chúa gọi cả nam lẫn nữ là “đàn ông”.

Thứ ba, hãy xem câu hơi khó hiểu của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô 11:7: “Người đàn ông không phải che đầu, vì họ là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa; còn người đàn bà là vinh quang của người đàn ông”. Ta hãy lưu ý hai nhân tố thuộc bối cảnh có liên hệ tới việc giải thích câu này. Thứ nhất, tiếp theo câu 11:7 là hai câu giải thích, mỗi câu bắt đầu với chữ gar ("vì") trong các câu 8 và 9 (dù các bản dịch đều không dịch chữ gar ở đầu câu 9). Hai câu này cho ta biết lý do tại sao Thánh Phaolô nói điều ngài nói ở câu 11:7. Trong hai câu 11:8-9, Thánh Phaolô viết rằng: “Vì, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. Cũng chẳng phải (vì) người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam”. Từ hai câu 8-9, điều ta biết rõ là Thánh Phaolô muốn biện luận tư cách cầm đầu của người đàn ông đối với người đàn bà (xem 1Cor 11:3). Người đàn ông không phải che đầu trong khi người đàn bà thì nên che đầu vì người đàn bà tự người nam mà có, chứ không ngược lại (11:8) và vì người đàn bà được dựng nên vì người đàn ông, chứ không ngược lại (11:9). 

Về nhân tố thứ hai, nên lưu ý rằng cả hai câu giải thích đều liên hệ tới nguồn gốc của người đàn ông và của người đàn bà. 1Cor 11:8 chuyên biệt nói rằng người đàn ông được tạo dựng trước nhất, sau đó tới người đàn bà, vì người đàn bà được tạo nên từ người đàn ông (xem St 2:21-23), còn 11:9 thì cho thấy: mục đích của việc dựng nên người đàn bà là cung cấp sự phục vụ và trợ giúp thích đáng cho người đàn ông (xem St 2:18 và 20). Nên, rõ ràng là Thánh Phaolô đặc biệt nghĩ tới nguồn gốc của người đàn bà so với nguồn gốc của người đàn ông, và ở đây ngài suy nghĩ về sự quan trọng của việc người đàn ông được dựng nên trước, rồi qua con người của họ, và vì họ, sự sống của người đàn bà mới xuất hiện.

Căn cứ vào các câu 11:8-9, xem ra câu Thánh Phaolô nói ở 11:7 hẳn có ý nói tới sự khác nhau tương đối trong việc truy tầm nguồn gốc người đàn ông và người đàn bà. Ta tin rằng trọng điểm của ngài là: vì người đàn ông được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa trước nhất, nên chỉ một mình họ được Thiên Chúa dựng nên một cách trực tiếp và tức khắc giống hình ảnh Người, do đó, biểu lộ vinh quang Thiên Chúa. 

Nhưng còn người đàn bà, vì được lấy ra từ và khỏi người đàn ông và được dựng nên làm người trợ giúp thích đáng của người đàn ông, nên vinh quang của nàng là phản ảnh vinh quang của người đàn ông (20). Giống người đàn ông, được Thiên Chúa trực tiếp dựng nên theo hình ảnh và vinh quang của Người, người đàn bà, vì được dựng nên từ người đàn ông, nên vinh quang của nàng là qua người đàn ông. Thành thử, ở đây, điều Thánh Phaolô không nói một cách minh nhiên, nhưng nói một cách mặc nhiên là: vì được dựng nên như vinh quang của người đàn ông, nên người đàn bà, nhờ được tạo dựng nhờ người đàn ông, cũng được dựng nên như hình ảnh và vinh quang Thiên Chúa. Ít nhất, điều rõ ràng là vì Thiên Chúa quyết định dựng nên nàng, người đàn bà không được tạo nên để làm người tách biệt khỏi người đàn ông nhưng chỉ nhờ người đàn ông mà thôi. Như thế có phải là hợp lý không khi nhân tính của nàng, kể cả việc nàng là hình ảnh của Thiên Chúa, diễn ra khi Thiên Chúa tạo nên nàng từ người đàn ông như là “vinh quang” của họ?

Nhìn vấn đề kiểu trên hoà hợp được điều mà nhìn cách khác có thể mâu thuẫn, nghĩa là St 1:26-27 and 5:1-2 dạy rằng người đàn bà dược dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa nhưng 1Cor 11:7 lại bảo nàng chỉ là “vinh qang của người đàn ông”. Ta tin rằng trọng điểm của Thánh Phaolô là: vinh quang của nàng xuất hiện nhờ người đàn ông, và như thế (hàm ẩn trong 1 Cor 11:7), nàng cũng sở hữu được bản chất người của nàng cách trọn vẹn, tuy một cách phát sinh (derivative). Nhưng, lẽ dĩ nhiên, vì bản chất người của nàng phát sinh “từ người đàn ông”, nên việc nàng là hình ảnh của Thiên Chúa cũng chỉ có khi Thiên Chúa tạo nên nàng từ Ađam, mà nàng vốn là vinh quang. Cho nên, không có mâu thuẫn giữa St 1:27 và 1Cor 11:7. Người đàn bà với người đàn ông được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:27), nhưng người đàn bà nhờ người đàn ông mà có bản chất người chân thực và do đó, vinh quang của nàng (1Cor 11:7b), vinh quang của người đàn ông, hữu thể vốn là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa (1Cor 11:7a).

Thứ bốn, ta hãy xét một đoạn văn khác giúp ta hiểu vấn đề này. Sáng Thế 5:3 đưa ra một nhận xét đáng chú ý rằng lúc 130 tuổi, Ađam “có một con trai giống hoạ ảnh ông, giống hình ảnh ông; và ông đặt tên cho nó là Sét”. Ngôn từ ở đây giống hệt ngôn từ ở St 1:26. Dù thứ tự “họa ảnh” và “hình ảnh” có đảo ngược, nhưng rõ ràng điều nói trước đó về con người được dựng nên giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa (St 1:26) lại được nói đến tại đây khi Sét sinh ra giống họa ảnh và hình ảnh của Ađam (St 5:3). Ta hãy lưu ý hai điều: Thứ nhất, vì tác giả Sáng Thế vừa nói tới cả nam lẫn nữ (5:2: “Người dựng nên họ có nam có nữ và chúc lành cho họ. Và khi họ được dựng nên, Thiên Chúa gọi họ là người ‘nam’”, thì đáng lẽ tự nhiên phải nói về Sét như đã được sinh ra giống họa ảnh và hình ảnh của Ađam và Evà. Nhưng thay vào đó, tác giả chuyên biệt nói rằng Sét giống họa ảnh và hình ảnh của Ađam (mà thôi). Thứ hai, bản chất song hành của hình ảnh này với St 1:26 phần chắc có hệ quả muốn nói rằng Sét sinh ra giống hình ảnh Ađam, là người giống hình ảnh Thiên Chúa, đến nỗi, Sét, vì giống hình ảnh Ađam, cũng giống hình ảnh Thiên Chúa. Ít nhất, ta cũng biết điều này: sau Ađam và Evà, con người tiếp tục sinh ra giống hình Thiên Chúa. Khi St 9:6 cấm giết người, thì căn bản của lệnh cấm này là người bị giết được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Như thế, rõ ràng những người sinh ra đều trở thành hình ảnh của Thiên Chúa vì họ sinh ra qua những người là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhưng St 5:3 dẫn ta tới chỗ nói một cách chính xác hơn. Rõ ràng: Sét sinh ra giống hình ảnh Thiên Chúa vì anh ta sinh ra nhờ tư cách làm cha của Ađam (chỉ Ađam được nhắc đến, chứ Evà không được nhắc đến ở đây). Như thế, vì Sét sinh ra giống họa ảnh và hình ảnh Ađam, nên anh ta sinh ra giống hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa.

Hiểu như trên, ta thấy một song hành về ý niệm giữa St 5:3 và 1Cor 11:7. Như Thánh Kinh đặc biệt cho thấy, điều đúng trong cả hai bản văn, về việc tạo nên Sét và người đàn bà, là: họ nhận được bản chất người của họ qua người đàn ông. Một song hành rõ ràng và có ý nghĩa khác là: cả Sét lẫn Evà đều là hình ảnh của Thiên Chúa một cách trọn vẹn và bằng nhau khi so sánh với Ađam, người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, cuộc tranh luện hiện nay tái khẳng định và củng cố quả quyết trước đây của chúng ta rằng mọi hữu thể nhân bản, cả đàn ông lẫn đàn bà, cả con cái lẫn cha mẹ, đề là hình ảnh của Thiên Chúa một cách trọn vẹn và bằng nhau. Nhưng nói như thế rồi, Thánh Kinh cho biết thêm điểm nữa: Kế sách của Thiên Chúa về việc người đàn bà và đứa con trở nên hình ảnh Thiên Chúa như thế nào xem ra liên quan một cách không thể giải thích và cố ý vai trò của việc hiện hữu trước của người đàn ông như là hình ảnh của Thiên Chúa. 

Như thế, hình như Sét trở nên hình ảnh của Thiên Chúa nhờ phát nguồn từ cha mình, nghĩa là được sinh ra giống họa ảnh và hình ảnh của Ađam (St 5:3) thế nào, thì người đàn bà cũng trở nên hình ảnh của Thiên Chúa, một điều chắc chắn nàng là (St 1:26), nhờ (và do kế sách cố ý của Thiên Chúa, chỉnhờ) nguồn phát sinh của nàng từ người đàn ông và là vinh quang của người đàn ông mà thôi như vậy (St 2:21-23 và 1Cor 11:7-9). Như thế, điều được gợi ý ở đây là: ý niệm người đàn ông đứng đầu có liên hệ không những tới vấn đề người đàn ông và người đàn bà có liên hệ với nhau và làm việc với nhau ra sao, mà hình như sự thật còn là việc người đàn ông đứng đầu là một phần trong chính việc cấu tạo ra người đàn bà như được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Người đàn ông là hữu thể nhân bản được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa trước; người đàn bà chỉ trở nên hữu thể nhân bản mang hình ảnh Thiên Chúa là nhờ người đàn ông. Dù cả hai đều là hình ảnh của Thiên Chúa cách trọn vẹn và bằng nhau, vẫn có một ưu tiên nội tại dành cho người nam, phản ảnh kế hoạch của Thiên Chúa muốn người nam đứng đầu trong trật tự tạo vật.

Tính bổ túc cho nhau giữa nam và nữ như là hình ảnh của Thiên Chúa

Từ trước đến nay, ta đã nhận ra ba ý tưởng chính. Ý tưởng thứ nhất, ta thấy hình ảnh Thiên Chúa nơi người đàn ông liên hệ tới việc Thiên Chúa tạo ra các biểu tượng thần thiêng (là hình ảnh Thiên Chúa), những biểu tượng này, trong mối liên hệ với Thiên Chúa và với nhau, hành xử để đại diện cho Thiên Chúa (làm hình ảnh của Người) bằng cách thực thi các trách nhiệm được Thiên Chúa chỉ định. 

Ý tưởng thứ hai: ta thấy rằng Thánh Kinh dạy rõ ràng sự bình đẳng trọn vẹn về nhân bản và yếu tính của người đàn ông và của người đàn bà vì đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và ý tưởng thứ ba: ta thấy: dù nam và nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa như nhau, vẫn có sự ưu tiên dành cho ngưòi nam như là người qua họ người nữ được cấu tạo như hình ảnh Thiên Chúa, vì nàng được tạo dựng như là vinh quang của người đàn ông, mà người đàn ông thì vốn là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa. Bây giờ là lúc để ta tự hỏi ba yếu tố này trong tính bổ túc nam nữ cho nhau như là hình ảnh của Thiên Chúa có thể được sử dụng ra sao để sống như các hình ảnh mà Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta. Ta hãy xem xét năm khía cạnh của viễn kiến bổ túc cho nhau này (*):

Khía cạnh thứ nhất, vì sự ưu tiên trong ý niệm hình ảnh Thiên Chúa phải dành cho việc ta hành xử như là các đại diện của Thiên Chúa để thực thi các trách nhiệm do Người chỉ định, nên ta phải thấy điều này: người đàn ông và người đàn bà phải học cách làm việc với nhau một cách thống nhất hóa để đạt được điều Thiên Chúa đã dành cho họ làm. Sẽ không thể có chuyện cạnh tranh ở đây, tranh chấp triệt để ở đây về mục đích nếu ta muốn hành xử như là hình ảnh của Thiên Chúa. Tạo tư thế thù nghịch không hề có chỗ đứng giữa người đàn ông và người đàn bà khi cả hai đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Lý do đơn giản là: cả đàn ông lẫn đàn bà, vì là hình ảnh của Thiên Chúa, đều được mời gọi thi hành một loạt trách nhiệm đã được thống nhất hóa do Thiên Chúa chỉ định. Vì cả hai cùng chia sẻ các trách nhiệm chung, cả hai phải tìm cách thống nhất hóa trong công trình hoàn tất của mình.

Chắc chắn điều trên đã được hàm ẩn trong trình thuật của Sáng Thế 2. Khi thấy không có một trợ thủ thích đáng cho người đàn ông, Thiên Chúa đã để ông ngủ say, rồi lấy một chiếc xương từ cạnh sườn của ông, và tạo ra người đàn bà làm người giúp ông gánh vác gánh nặng. Người đàn ông đáp ứng bằng cách nói rằng nàng là xương của xương ông và thịt của thịt ông, và lời nhận định được linh hứng nói về sự kết hợp của họ rằng nay họ là “một xác thịt” (St 2:22-24). Hệ luận ở đây khá rõ ràng: giờ đây, vì nàng kết hợp với chàng thành một thân xác, nên họ tìm cách cùng nhau thi hành điều chính Thiên Chúa trước đó mời gọi người đàn ông thực hiện. Người trợ thủ thích đáng cho Ađam giờ đây đang ở đây, nên công việc chung để hoàn thành các mục đích của Thiên Chúa có thể được cùng nhau đẩy mạnh. 

Khía cạnh thứ hai, vì việc hành xử của chúng ta trong tư cách hình ảnh của Thiên Chúa (tức đại diện cho Thiên Chúa) là phản ảnh và nối dài bản chất của chúng ta (như các đại biểu của Thiên Chúa), nên ở đâu bản chất ta bị lên khuôn sai thì ở đấy việc hành xử của chúng ta cũng bị hướng dẫn sai. Việc hành xử đích thực trong tư cách hình ảnh của Thiên Chúa phải dành ưu tiên cho việc tái lên khuôn đời ta. Chỉ khi nào, nhờ ơn Chúa, ta tìm cách nên giống như Chúa Kitô trong cuộc sống bên trong của ta, ta mới càng ngày càng sống ở bề ngoài theo cung cách phản ảnh được Người hơn mà thôi. Tác giả Dallas Willard chắc chắn đúng. Trong cuốn The Spirit of the Disciplines của mình, ông biện luận chủ đề cho rằng ta chỉ có thể sống như Chúa Giêsu khi ta tự kỷ luật mình để suy nghĩ, cảm nhận và đánh giá như Chúa Giêsu (21). Ta chỉ có thể sống như Người bao lâu ta tự làm lại để giống như Người. Việc hành xử của nam/nữ như là hình ảnh của Thiên Chúa, một sự hành xử cần phải cho thấy sự thống nhất trong viễn kiến và cùng chung cố gắng, sau đó, phải dựa vào những người đàn ông và đàn bà biết tha thiết chờ mong Thiên Chúa sẽ tái tạo ta một cách gia tăng tiệm tiến thành hình ảnh của Chúa Kitô để ta có thể phản ảnh hình ảnh này trong khi thực thi công việc chung do Thiên Chúa chỉ định. 

Khía cạnh thứ ba, sự bình đẳng trọn vẹn trong yếu tính và đặc tính nhân bản của người nam và người nữ trong hình ảnh Thiên Chúa có nghĩa không bao giờ đúng cả khi đàn ông hạ giá đàn bà, hay đàn bà hạ giá đàn ông. Các ý niệm thấp kém hơn hay trổi vượt hơn không hề có chỗ đứng trong bản chất do Thiên Chúa sắp đặt của nam và của nữ như là hình ảnh của Thiên Chúa. Như đã nhắc trên đây, đoạn thư 1Phêrô 3:7 đã nhấn mạnh điểm này liên quan tới thái độ của người chồng tín hữu đối với người vợ tín hữu của mình. Chàng phải dành cho vợ vinh dự làm người đồng thừa kế ơn phúc sự sống. Và, như câu Thánh Kinh vừa rồi kết luận, Thiên Chúa cảm nhận mạnh mẽ đối với việc người chồng vinh danh vợ mình như hoàn toàn bình đẳng và là người đồng thừa hưởng các kho tang của Chúa Kitô đến nỗi Người cảnh cáo rằng bất cứ người chồng nào vi phạm nguyên tắc này, Thiên Chúa sẽ không chấp nhận lời cầu nguyện của họ. Không chỗ nào trong Thánh Kinh mà sự dị biệt hóa nam nữ là căn bản cho sự trổi vượt về giá trị hay tầm quan trọng của đàn ông hay sự bóc lột đàn bà. Tất cả các thái độ và hành động này đều là các vi phạm tội lỗi đối với chính bản chất nhân tính chung của chúng ta như những người nam người nữ được dựng nên giống hình Thiên Chúa một cách trọn vẹn và bằng nhau.

Khía cạnh thứ tư, dù được thống nhất hóa trong sự bình đẳng về yếu tính con người và trách nhiệm chung của chúng ta trong việc thi hành thánh ý Thiên Chúa, sự ưu tiên có tính thời gian của hình ảnh Thiên Chúa nơi người đàn ông, qua họ, người đàn bà đã được cấu tạo làm người mang hình ảnh Thiên Chúa, quả hỗ trợ cho nguyên tắc người đàn ông đứng đầu trong việc hành xử như là hình ảnh Thiên Chúa… Đây chính là điều Thánh Phaolô nhấn mạnh ở 1Cor 11. Lý do khiến ngài quan tâm tới việc che đầu là: ngài biết Thiên Chúa đặt kế sách để người đàn ông và người đàn bà hành xử sao đó để mỗi người đều tôn trọng các vai trò do Thiên Cúa chỉ định cho người kia. Người đàn bà phải tôn trọng và người đàn ông phải đảm nhiệm trách nhiệm đặc biệt mà Thiên Chúa đã trao cho người đàn ông trong quyền lãnh đạo thiêng liêng trong gia đình và cộng đồng tín hữu. Nơi nào quyền đứng đầu của người nam không được nhìn nhận, thì việc hành xử của ta trong tư cách hình ảnh của Thiên Chúa bị cản trở và giảm thiểu. Điều này đặt giáo huấn của Thánh Phaolô trong thư Êphêsô 5 dưới một ánh sáng mới. Điều ta hiểu là: khi người vợ phục tùng chồng như Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô (5:22-24), và khi người cHồng Yêu vợ như Chúa Kitô yêu Giáo Hội (5:25-27), họ biểu lộ các vai trò do Chúa Chỉ định cho họ như những người mang hình ảnh Thiên Chúa. Không phải chỉ trong sự bình đẳng của họ, họ mới là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ cũng mang và biểu lộ hình ảnh của Thiên Chúa khi họ hành xử một cách biết nhìn nhận quyền đứng đầu của người nam trong việc ban phát hình ảnh Thiên Chúa (1Cor 7-9).

Kết luận 

Sự kiện chúng ta là nam và nữ theo hình ảnh Thiên Chúa nói khá nhiều điều về mục đích của Thiên Chúa đối với chúng ta, các tạo vật nhân bản của Người. Chúng ta được tạo nên để phản ảnh chính bản chất của Người ngõ hầu ta có thể đại diện cho Người trong các hành xử của ta với người khác và với thế giới Người đã tạo nên. Mục tiêu của chúng ta là chu toàn thánh ý Người và vâng theo lời Người. Ấy thế nhưng, để thực hiện được điều này, Người đã thiết lập ra một khuôn khổ liên hệ. Nam và nữ, dù bằng nhau một cách trọn vẹn như là hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng khác biệt nhau trong cung cách sở hữu hình ảnh của Thiên Chúa. Việc người nữ trở nên hình ảnh Thiên Chúa qua người nam cho thấy một chiều hướng do Thiên Chúa sắp đặt nàng phải dựa vào chàng, như đã được biểu lộ cách đặc biệt trong gia hộ và trong cộng đồng đức tin. Ấy thế nhưng, mọi người chúng ta, qua các mối liên nhệ của mình, phải tìm cách làm việc với nhau để hoàn thành các mục đích mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta thực hiện. Trong học lý này, ta thấy chân lý kép sau đây: chúng ta được mời gọi hiện hữu cả trong tư cách cá nhân lẫn trong mối liên hệ với những điều Thiên Chúa dự tính chúng ta trở thành, để ta có thể làm điều đem vinh dự lại cho Người và hoàn thành thánh ý Người. Các đại diện của Thiên Chúa, trong tương quan với Thiên Chúa và với người khác, đại diện cho Thiên Chúa và thi hành các trách nhiệm do Thiên Chúa chỉ định; điều này, xét cho cùng, chính là viễn kiến cần được người nam và người nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa tìm kiếm nếu họ muốn thực hiện trọn vẹn mục đích được tạo dựng của họ. Ước chi chúng ta thấy kế sách tốt lành và khôn ngoan của Thiên Chúa về tư cách đàn ông và đàn bà của ta được hiểu và đem ra sống thực một cách trọn vẹn hơn ngõ hầu các mục đích của Thiên Chúa nơi và qua ta, các hình ảnh tạo dựng của Người, được hoàn thành, vì ích lợi của ta, nhờ ơn thánh Người và vì vinh quang của Người.

II. Quan điểm Do Thái Giáo

Người ta vẫn coi quan điểm của Giáo Hội Baptist Miền Nam Hoa Kỳ là cổ vũ tính bổ túc chứ không cổ vũ tính bình đẳng nam nữ. Một số hệ phái Kitô Giáo khác cũng nghiêng về phía nhấn mạnh tới các dị biệt nam nữ để chứng minh tư cách “làm đầu” của người đàn ông.

Thực thế, tại Hội Thoại Humanum, Henry B. Eyring, Chủ Tịch Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô của Các Thánh Ngày Sau Hết (Mormon), cũng nhấn mạnh tới các dị biệt nam nữ, ngầm cho thấy vai trò đứng đầu của người đàn ông. Ông nói: “chúng tôi (vợ chồng ông) đã bổ túc cho nhau vượt quá bất cứ điều gì chúng tôi có thể tưởng nghĩ. Khả năng chăm dưỡng người khác của nàng lớn lên trong tôi khi chúng tôi trở nên một. Khả năng đặt kế hoạch, điều khiển và lãnh đạo trong gia đình chúng tôi lớn lên trong nàng khi chúng tôi kết hợp trong hôn nhân. Tôi hiểu ra rằng chúng tôi cùng lớn lên thành một, từ từ nâng cao và lên khuôn lẫn nhau, năm này qua năm nọ. Khi hút tỉa sức mạnh của nhau, việc này không hề làm giảm các ơn phúc bản thân của chúng tôi”. 

Tổng giám mục Nicholas Okoh của Hiệp Thông Anh Giáo Nigeria, trong bài phát biểu tại Hội Thoại Humanum, cho rằng người đàn ông phải đứng đầu gia đình và trong Giáo Hội, dù Hiệp Thông Anh Giáo đã phong chức giám mục cho phụ nữ. Ngài ủng hộ lập trường của Craig Blomberg trong cuộc tranh luận về tư cách đứng đầu của đàn ông, khi cho rằng “dù một số người viết hoàn toàn tách biệt các vấn đề trong gia đình với các vấn đề trong Giáo Hội, đa số đồng ý rằng [Giáo Hội] khởi đầu vốn rập khuôn theo [gia đình]. Học hỏi hơn nữa về kế sách của Thiên Chúa dành cho các người chồng và các người vợ, ta sẽ có thể có lý khi từ đó suy ra các vai trò của đàn ông và đàn bà trong cộng đồng tín hữu”. Tư cách đứng đầu gia đình được dành cho người đàn ông; điều này đúng cho cả hôn nhân và gia đình Kitô Hữu lẫn hôn nhân và gia đình truyền thống. 

Tóm lại, tuy nhiều Giáo Hội thệ phản phong chức linh mục và cả giám mục để đứng đầu các Giáo Hội địa phương, nhưng họ lại có khuynh hướng hiểu nghĩa bổ túc nam nữ không theo nghĩa hợp tác hay cùng tùng phục lẫn nhau như Công Giáo mà nhấn mạnh tới liên hệ cầm đầu (nam) và phục tùng (nữ).

Do Thái Giáo thì sao? Xem ra cũng không khác gì. Thánh Kinh của họ vốn ghi rõ ở Sáng Thế Ký 3:16: “Ngươi [người đàn bà] sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị ngươi”.

Tuy nhiên, có người (xem The Role of Women, tại mechon-namre.org) cho rằng vai trò của người đàn bà trong Do Thái Giáo truyền thống đã bị giải thích và hiểu lầm một cách thô thiển. Thực ra vị trí của người đàn bà không thấp hèn như nhiều người hiện đại vốn nghĩ. Thực vậy, địa vị người đàn bà trong halakhah (Luật Do Thái) đã có từ thời Thánh Kinh tốt hơn địa vị của người đàn bà trong luật dân sự Hoa Kỳ của thế kỷ trước. Nhiều lãnh tụ quan trọng của phong trào nữ quyền thế kỷ 20 như Gloria Steinem và Betty Friedan là phụ nữ Do Thái.

Trong Do Thái Giáo truyền thống, đàn bà phần lớn được coi là tách biệt nhưng bình đẳng. Các nghĩa vụ và trách nhiệm của họ khác với đàn ông, nhưng không kém quan trọng.

Thực vậy, sự bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà có nguồn gốc tối cao là chính Thiên Chúa. Người Do Thái luôn coi Thiên Chúa có cả các phẩm tính nam và phẩm tính nữ. Gọi Người theo giống đực chỉ là để thuận tiện, vì tiếng Hípri vốn không có hạn từ trung tín. Thiên Chúa không thuộc giống đực hơn chiếc bàn chiếc ghế. 

Phần lớn các học giả Do Thái cho rằng theo Sáng Thế 1:27, Thiên Chúa dựng nên “con người” với phái tính đôi, sau đó, mới tách thành nam và nữ. 

Người đàn bà, trong Do Thái Giáo truyền thống, có khi còn được coi là trổi vượt hơn đàn ông, như được phú bẩm nhiều “binah”, tức trực giác, hiểu biết, trí hiểu, hơn đàn ông, vì các rabbi cho rằng họ được “xây thành” (St 2:22) chứ không “nặn ra” (st 2:7) như đàn ông. Mà gốc của chữ xây, trong tiếng Hípri có cùng các phụ âm như chữ “binah”. Họ cũng cho rằng các tổ mẫu Xara, Rêbécca, Raken và Lêa có khả năng nói tiên tri cao hơn các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp. Phụ nữ không thờ Bò Vàng và gần gũi lý tưởng của Thiên Chúa hơn đàn ông. 

Họ cũng chiếm giữ nhiều chức vụ đáng kính trong Do Thái Giáo từ thời Thánh Kinh: Miriam được coi là một trong các nhà giải phóng của Con Cái Israel, cùng với các anh trai mình là Môsen và Aaron. Một trong các Phán Quan là phụ nữ (Đêbôra). Bẩy trong 55 tiên tri trong Thánh Kinh là đàn bà. 

Mười Điều Răn nhắc đến cả cha lẫn mẹ. Tuy người cha được nhắc đến trước trong Xh 20:12, nhưng mẹ đã được nhắc đến trước trong Lv 19:3. Nhiều nguồn truyền thống coi việc đảo ngược này nhằm nhấn mạnh rằng cả hai cha mẹ đều được tôn kính bằng nhau. 

Tất nhiên có nhiều xem xét tiêu cực về phụ nữ, nhất là trong văn chương Talmud. Đàn ông được khuyên không nên kết giao với phụ nữ. Nhưng việc này liên quan đến tính “dê” của đàn ông nhiều hơn, chứ không phải vì phụ nữ xấu xa. Phụ nữ được khuyên không nên theo đuổi việc học cao đẳng hay các chức vụ tôn giáo, nhưng việc này chỉ là để họ không sao lãng các bổn phận hàng đầu của họ là làm vợ và làm mẹ. Các rabbi không sợ đàn bà ít tâm linh, họ chỉ sợ đàn bà quá tâm linh mà thôi. 

Trong Do Thái Giáo truyền thống, quyền lợi phụ nữ cao hơn phụ nữ Tây Phương ít nhất cho tới thế kỷ 20: họ được quyền mua, bán và sở hữu tài sản, ký khế ước riêng. 

Đã đành, vai trò hàng đầu của họ là làm vợ và làm mẹ, nhưng Do Thái Giáo truyền thống coi rất trọng các vai trò này và ảnh hưởng tâm linh của chúng đối với gia đình họ: người đàn ông đạo đức mà lấy phải người đàn bà xấu xa, anh ta sẽ trở thành kẻ xấu xa; trái lại, người đàn ông xấu xa lấy được người đàn bà đạo đức, anh ta sẽ trở thành người đạo đức. Đứa con của một phụ nữ Do Thái Giáo và một người đàn ông ngoại giáo là người Do Thái Giáo vì ảnh hưởng tâm linh của người mẹ; đứa con của một người đàn ông Do Thái Giáo và một người đàn bà ngoại giáo không phải là người Do Thái Giáo. Phụ nữ được miễn các giới luật (mitzvoth) tích cực [“ngươi hãy”] phải thực hiện trong những thời khắc nhất định vì bổn phận làm mẹ và làm vợ của họ quan trọng hơn. 

Phần lớn các hiểu lầm về vai trò của phụ nữ phát sinh từ phạm vi trên, coi chúng như các ngăn cấm. Thực ra, tuy không buộc phải thực hiện các mitzvot trên, họ vẫn có thể thực hiện nếu họ muốn. Thứ hai, vì việc miễn chước trên có liên quan đến hội đường, nên nhiều người cho rằng phụ nữ không có vai trò gì trong sinh hoạt tôn giáo của Do Thái Giáo. Thực ra không hẳn thế, vì sinh hoạt tôn giáo của Do Thái Giáo không xoay quanh hội đường mà là xoay quanh gia đình, nơi vai trò của đàn bà không kém quan trọng như đàn ông. 

Thực vậy, ở đấy, có ba mitzvot được dành cho phụ nữ đó là nerot (đốt nến để khởi đầu ngày Sabát), challah (tách riêng một phần bột đã nhào) và niddah (nằm riêng khi có kinh).

Tiện đây, cũng nên hiểu bản chất của mitzvot trong Do Thái Giáo và sự tách biệt đàn ông đàn bà. Do Thái Giáo vốn cho rằng bản chất con người là nổi loạn chống lại uy quyền; nên ai làm một điều gì đó vì được truyền lệnh phải làm thì được coi có công trạng nhiều hơn người làm điều gì đó vì tự quyết định làm. Hơn nữa, motzvot vốn được coi là một đặc ân ban cho dân Israel, nên càng nhiều mitzvot để buộc phải tuân giữ, ta càng có nhiều đặc ân hơn.

Vì đàn bà không buộc phải thi hành một số mitzvot, nên việc giữ các mitzvot này không tính vào công trạng của họ. Và vì họ bị đòi hỏi thi hành ít motzvot hơn đàn ông, nên đàn bà được coi là ít công trạng hơn đàn ông. Chính trong bối cảnh này, mà người đàn ông ca ngợi Thiên Chúa vì “đã không tạo nên con làm đàn bà”. Lời cầu nguyện này không hề hàm ý làm đàn bà là điều tồi tệ, mà chỉ có nghĩa làm đàn ông “diễm phúc” hơn vì nhiều nghĩa vụ hơn.

Còn về việc đàn ông đàn bà cầu nguyện ở các nơi khác nhau, và nếu cùng một nơi thì phải cách nhau tấm màn mechitzah, thì có hai lý do: thứ nhất, để khi cầu nguyện, mấy ông khỏi chia trí về mấy cô gái đẹp; thứ hai để tránh hoạt động tính dục hay làm tình hội đồng (orgies) trong lúc thờ phượng như thói quen của các tôn giáo ngoại đạo cùng thời với Do Thái Giáo. Tóm lại là vì “yếu điểm” của đàn ông. Hơn nữa, nên nhớ sinh hoạt tôn giáo, đối với Do Thái Giáo không chỉ diễn ra nơi hội đường, mà thẩm thấu mọi khía cạnh của đời sống, mọi điều bạn làm, từ lúc thức dậy vào buổi sáng tới lúc bạn vào giường, từ những gì bạn ăn đến quần áo bạn mặc và công việc làm ăn bạn quản trị. 

Thực ra, Do Thái Giáo không đơn giản chỉ có hình thức cổ truyền mà nhiều hình thức đã xuất hiện. Chính vì thế, có khá nhiều lập trường về liên hệ nam nữ. 

Theo trang mạng mishpacha.org, không phạm vi nào trong đời sống Do Thái đã trải qua một biến đổi triệt để như phạm vi các vai trò phái tính. Nó đã trở thành chất nam châm thu hút một cuộc tranh luận nẩy lửa và những chia rẽ sâu xa nhất trong thế giới Do Thái Giáo.

Chủ trương của Do Thái Giáo cổ truyền đã được trình bầy ở trên. Qua thời cận đại, càng ngày biên giới phân biệt nam nữ, kể cả trong phụng vụ, càng mờ nhạt đi. Hiện nay, nhiều phụ nữ tiến vào cả lãnh vực nghiên cứu Torah, vốn dành cho nam giới trước đây, nhiều người trở thành học giả về Torah. Năm 1983, Phong Trào Bảo Thủ còn tấn phong phụ nữ làm rabbi. Do Thái Giáo Cải Cách thiết lập nguyên tắc trung tính về phái tính (gender neutrality) cả mấy thập niên trước Phong Trào Bảo Thủ. Họ phong rabbi cho phụ nữ từ năm 1972 và các buổi thờ phượng bình đẳng đã diễn ra nhiều năm trước đó. 

Về tương quan nam nữ, theo Rebbetzin Tziporah Heller, truyền thống truyền khẩu Do Thái cho rằng: Thiên Chúa khởi đầu dựng nên một con người đầy đủ có cả nam lẫn nữ. Rồi Người thấy điều ấy không tốt, vì nếu như thế, anh ta sẽ có ảo tưởng tự mãn về chính mình. Một tự mãn như thế mâu thuẫn với ý niệm Thiên Chúa là nguồn của mọi sự. Nên Thiên Chúa đã tách con người thành hai người riêng rẽ để tạo ra một tình huống lành mạnh gồm cả lệ thuộc, khát mong và hiến tặng hỗ tương. Người không muốn để các con người nhân bản hiện hữu một mình vì như thế, họ không có ai để cho đi, không có ai để lớn lên với, và không có gì để cố gắng đạt tới. 

Nhưng nếu thế, chỉ cần hai con người giống hệt như nhau là được rồi, đâu cần phải khác nhau thành nam nữ? Câu trả lời là: để tối đa hóa việc cho đi, người nhận phải khác với người cho. Nếu là hai người hoàn toàn như nhau, việc cho đi vẫn có thể diễn ra, nhưng một cách giới hạn. Người cho đi dựa vào chính nhu cầu của mình, vì người nhận cũng có cùng những nhu cầu y hệt. Muốn thực sự là một người cho đi, người này phải tính đến nhu cầu của người nhận chứ không chỉ là điều người cho muốn. Khi cho một người có các nhu cầu khác với mình, người ta được huấn luyện phải nghĩ và cho trên những điều kiện khác với của riêng mình.

Thành thử tách biệt thành hai con người khác nhau là để ta biết cách đánh giá, yêu thương, cho đi, và chăm sóc những người không như ta.

Trong Hội Thoại Humanum, cựu Đại Giáo Trưởng Do Thái Giáo của nước Anh, Ngài Jonathan Sacks, đã nhấn mạnh tới sự bổ túc này, chứ không nhấn mạnh tới những điểm khác nhau; lưu ý tới hợp tác, không lưu ý tới cầm đầu, phục tùng. Với bài diễn văn duyệt lại việc phát triển của hôn nhân qua 7 câu truyện bắt đầu với hành vi tính dục của loài cá ở Tô Cách Lan cho tới hành vi tính dục của con người thời nay, cựu Đại Giáo Trưởng đã được toàn thể Hội Thoại hoan hô vang dậy. 

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu bài diễn văn của Ngài Sacks tại Hội Thoại Humanum. 

Buổi sáng nay, tôi muốn bắt đầu cuộc đàm đạo của chúng ta bằng cách kể truyện về ý niệm đẹp đẽ nhất trong lịch sử văn minh: đó là ý niệm yêu thương đem sự sống mới vào trần gian. Dĩ nhiên, có nhiều cách để kể câu truyện này, và đây chỉ là một trong những cách ấy. Nhưng đối với tôi, đây là một câu truyện của bẩy khoảnh khắc chủ yếu, mỗi một khoảnh khắc đều khiến ta ngạc nhiên và bất ngờ. 

Khoảnh khắc thứ nhất, theo một tường trình báo chí ngày 20 tháng Mười năm 2014, diễn ra tại một chiếc hồ ở Tô Cách Lan cách nay 385 triệu năm. Theo một phát giác mới, lúc đó có hai con cá đến với nhau để thực hiện điển hình đầu tiên của việc sinh sản bằng tính dục mà khoa học biết được. Cho đến lúc đó, sự sống được lưu truyền một cách phi tính dục, bằng việc phân chia tế bào, đâm chồi nẩy lộc (budding), phân cắt (fragmentation) hay trinh sinh (parthenogenesis), tất cả đều đơn giản hơn rất nhiều và đỡ “tốn phí” hơn là việc phân chia sự sống thành đực và cái, mỗi phái có vai trò khác nhau trong việc tạo ra sự sống và duy trì sự sống.

Khi ta xét đến việc ngay trong thế giới động vật, bao nhiêu cố gắng và bao nhiêu năng lực mà việc đến với nhau của đực và cái đã phải trải qua, trong việc trình diễn, tán tỉnh, đua tranh và đánh nhau, hẳn ta phải thắc mắc tại sao lại để cho việc sinh sản bằng tính dục xẩy ra làm chi. Các nhà sinh vật học cho đến nay vẫn không biết chắc tại sao nó đã xẩy ra. Một số người nói rằng để bảo vệ chống lại các loài ký sinh hay để miễn dịch chống lại bệnh tật. Nhiều người lại cho rằng chỉ là vì cuộc gặp gỡ giữa hai thể đối nghịch sẽ sản sinh ra tính đa dạng. Bất chấp cách này hay cách kia, cá ở Tô Cách Lan đã khám phá được một điều mới mẻ và đẹp đẽ sẽ mãi mãi được mô phỏng sau đó bởi gần như mọi hình thức tiến bộ của sự sống. Sự sống bắt đầu khi đực và cái gặp nhau và ôm lấy nhau.

Khoảnh khắc bất ngờ thứ hai là thách thức độc đáo đặt ra cho homo sapiens do hai nhân tố: chúng ta đứng thẳng làm hẹp khung chậu (pelvis) nữ, và chúng ta có một bộ óc lớn hơn, gia tăng tới 300 phần trăm, nghĩa là có một chiếc đầu to hơn. Kết quả: bé thơ của con người phải sinh ra sớm hơn các chủng loại khác, và do đó, cần sự che chở của cha mẹ lâu hơn. Điều này khiến việc làm cha mẹ của con người trở thành đòi hỏi khắt khe hơn bất cứ chủng loại nào khác, và phải là công việc của hai con người hơn là một. Do đó, việc kết cặp của con người là một hiện tượng hết sức hiếm hoi trong các loài có vú, không giống các chủng loại khác nơi phần đóng góp của con đực thường chấm dứt với việc thụ tinh. Nơi những động vật linh trưởng (primate) nhất, các người cha còn không thèm nhìn nhận con cái mình, nói chi tới việc chăm sóc chúng. Ở nơi khác trong thế giới động vật, bổn phận làm mẹ thì hầu như phổ quát nhưng bổn phận làm cha là thứ họa hiếm. 

Thành thử điều xẩy ra cho con người nhân bản là việc kết hợp của người cha và người mẹ sinh học để chăm sóc con cái họ. Bởi thế diễn trình là: khởi đầu với thiên nhiên, sau đó là văn hóa và thứ ba là ngạc nhiên. 

Nơi những người hái lượm săn bắn, việc cặp đôi là một chuẩn mực. Rồi tới nghề nông, thặng dư kinh tế, các đô thị và văn minh, và lần đầu tiên, bắt đầu xuất hiện các bất quân bình rõ rệt giữa người giầu và người nghèo, kẻ quyền thế và người vô quyền. Các ngôi đền (ziggurat) vĩ đại của Mesopotamia và các kim tự tháp của cổ Ai Cập, với cái nền rộng và đỉnh hẹp của chúng, là những lời tuyên bố hùng vĩ bằng đá cho thấy một xã hội phẩm trật trong đó thiểu số có quyền trên đa số. Và biểu thức quyền lực hiển nhiên nhất của phái nam tiên khởi, bất luận là người hay linh trưởng, là thống lãnh được quyền chiếm hữu những đối tượng nữ nhiều khả năng sinh đẻ và do đó, tối đa hóa được khả năng lưu truyền các gien của mình cho thế hệ kế tiếp. Bởi đó, mà có chế độ đa thê, một chế độ hiện hữu ở 95 phần trăm các loài có vú và 75 phần trăm các nền văn hóa được khoa nhân chủng học biết đến. Chế độ đa thê là biểu thức tối hậu của bất bình đẳng vì nó có nghĩa: nhiều nam nhân không bao giờ có cơ hội có vợ và có con. Và suốt trong lịch sử, ghanh tị tính dục là động lực đệ nhất dẫn tới bạo lực, cả nơi động vật lẫn nơi con người.

Điều trên khiến cho chương đầu của Sách Sáng Thế có tính cách mạng trong các tuyên bố của nó đến độ coi mọi con người nhân bản, bất kể giai cấp, mầu da, văn hóa hay tín ngưỡng, đều là hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng trong thế giới cổ thời, chỉ có các nhà cai trị, các vua, hoàng đế và pharaô mới được coi giống hình ảnh Thiên Chúa. Thành thử điều Sách Sáng Thế muốn nói là: tất cả chúng ta đều là vua chúa. Mỗi người chúng ta đều có phẩm giá bằng nhau trong vương quốc đức tin dưới quyền tối thượng của Thiên Chúa. 

Từ đó, có thể nói mỗi người chúng ta đều có quyền ngang nhau để kết hôn và có con cái; đây là lý do tại sao, bất kể chúng ta đọc câu truyện Ađam và Evà ra sao, và quả có những dị biệt trong cách đọc của Do Thái Giáo và của Kitô Giáo, qui phạm mà câu truyện này giả thiết là: một người đàn bà, một người đàn ông. Hay như chính Thánh Kinh quả quyết “Đó là lý do tại sao người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mình và kết hợp với vợ mình, và họ trở nên một thân xác”.

Đơn hôn không lập tức trở thành quy phạm, kể cả trong thế giới Thánh Kinh. Nhưng nhiều câu truyện thời danh nhất của nó, về sự căng thẳng giữa Xara và Haga, hay giữa Lêa và Raken và con cái họ, hay giữa Đavít và Bétxêba, hay các bà vợ vô số của Salômôn, tất cả đều là những phê phán dẫn đường tới đơn hôn.

Và có một nối kết sâu sắc giữa độc thần và đơn hôn, cũng như từ phía ngược lại, giữa việc thờ ngẫu thần và ngoại tình. Độc thần và đơn hôn nói về mối liên hệ bao quát giữa Tôi và Ngài, giữa bản thân tôi và một người khác, bất luận người khác này là người phàm hay thần thiêng. 

Điều làm cho việc xuất hiện chế độ đơn hôn khác thường là các giá trị của xã hội thường được giai cấp thống trị áp đặt. Mà giai cấp thống trị, trong bất cứ xã hội phẩm trật nào, thường được hưởng lợi nhiều hơn nhờ việc được lang chạ và đa hôn, cả hai đều có tính nhân thừa cơ may các gien của họ được lưu truyền cho thế hệ kế tiếp. Với đơn hôn, người giầu và người quyền thế mất mát còn người nghèo và người vô quyền thì được lợi. Bởi thế, việc trở về với chế độ đơn hôn đánh đổ các lợi điểm thông thường của thay đổi xã hội và là một chiến thắng thực chất cho phẩm gia bình đẳng của mọi người. Mọi cô dâu và mọi chú rể đều là vương giả; mọi gia hộ đều là một cung điện khi được trang hoàng bằng tình yêu. 

Khoảnh khắc phát triển đáng kể thứ tư là cung cách điều trên biến đổi đời sống luân lý. Chúng ta đã trở nên quen thuộc với việc các nhà sinh học biến hóa sử dụng các mô hình vi tính (computer simulations) và thế lưỡng nan của các tù nhân bị ở tù liên tiếp để giải thích lý do tại sao lòng vị tha hỗ tương lại hiện hữu nơi tất cả các động vật có tính xã hội. Chúng ta hành xử với người khác theo cách chúng ta muốn họ hành xử với chúng ta, và chúng ta đáp trả họ theo cách họ đáp trả chúng ta. Như C S Lewis từng nhấn mạnh trong cuốn The Abolition of Man của ông ta, tính hỗ tương là Luật Vàng chung của mọi nền văn minh.

Điều mới mẻ và đáng lưu ý trong Thánh Kinh Do Thái là ý niệm cho rằng tình yêu, chứ không phải sự hợp tình hợp lý (fairness), là nguyên tắc điều hướng của đời sống luân lý. Có ba tình yêu. “Người hãy yêu Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi”. “Ngươi hãy yêu người lân cận ngươi như chính ngươi”. Và, trong các sách Môsen, được lặp đi lặp lại không ít hơn 36 lần là câu sau “Ngươi hãy yêu người khách lạ vì ngươi biết làm khách lạ là như thế nào rồi”. Hay nói cách khác: Thiên Chúa đã dựng nên thế giới tự nhiên trong yêu thương và tha thứ thế nào, thì chúng ta cũng có nhiệm vụ dựng nên một thế giới xã hội trong yêu thương và tha thứ như thế. Và tình yêu này là ngọn lửa đốt lên trong hôn nhân và gia đình. Luân lý tính là tình yêu giữa người chồng và người vợ, cha mẹ và con cái, mở rộng ra ngoài tới thế giới. 

Khoảnh khắc phát triển thứ năm lên khuôn cho toàn bộ cấu trúc của kinh nghiệm Do Thái Giáo. Ở Israel cổ thời, hình thức thỏa hiệp nguyên thủy có tính thế tục, tên là giao ước, đã được sử dụng và biến đổi thành một lối suy nghĩ mới về mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, trong trường hợp Nôê, và giữa Thiên Chúa và một dân tộc trong trường hợp Ápraham và sau đó người Do Thái trên núi Sinai. Giao ước giống một cuộc hôn nhân. Nó là lời đoan hứa hỗ tương sẽ trung thành và tín thác giữa hai con người hay nhiều hơn, mỗi người sẽ kính trọng phẩm giá và sự toàn vẹn của người kia, cùng làm việc với nhau để cùng đạt với nhau điều mà họ không thể đạt được một mình. Và có một điều mà cả Thiên Chúa cũng không thể đạt được một mình, một điều phải được sống bên trong trái tim con người. Điều này cần tới chúng ta. 

Bởi thế, chữ Hípri emunah, vốn được dịch sai là đức tin, thực sự có nghĩa lòng tín trung (faithfulness), trung thành, trung nghĩa, lòng kiên định, không bỏ đi dù gặp lúc đường đi gian khổ, tin tưởng vào người kia và tôn kính niềm tín thác của họ nơi ta. Điều giao ước đã làm, và ta thấy điều này nơi hầu hết các tiên tri, là hiểu mối tương quan giữa ta và Thiên Chúa theo ngôn từ của mối tương quan giữa cô dâu và chàng rể, giữa vợ và chồng. Như thế, tình yêu không những là căn bản của luân lý mà của cả thần học nữa. Trong Do Thái Giáo, đức tin là một cuộc hôn nhân. Không ở đâu nói như thế một cách đẹp đẽ bằng Hôsê khi ngài nhân danh Thiên Chúa nói rằng: 

“Ta sẽ đính ước ngươi với ta mãi mãi; 

Ta sẽ đính ước ngươi trong chính trực và công lý, trong yêu thương và cảm thương.

Ta sẽ đính ước ngươi trong trung tín, và ngươi sẽ biết Chúa”. 

Người đàn ông Do Thái đọc các lời trên mọi buổi sáng ngày thường trong tuần khi chúng tôi cuộn giải tefillin (đựng các cuộn Thánh Kinh) quanh ngón tay của chúng tôi thành như một nhẫn cưới. Mỗi buổi sáng, chúng tôi lặp lại cuộc hôn nhân của chúng tôi với Thiên Chúa. 

Điều trên dẫn tới ý niệm thứ sáu và khá tinh tế là: chân, thiện, mỹ, và cả sự sống nữa, không hiện hữu nơi bất cứ con người hay thực thể nào mà là hiện hữu “ở giữa” (in between) điều mà Martin Buber gọi là Das Zwischenmenschliche, tức đối âm (counterpoint) liên ngã của nói và nghe, của cho và nhận. Suốt trong Thánh Kinh Do Thái và văn chương rabbi, chiếc xe chuyên chở sự thật là đàm đạo. Trong mạc khải, Thiên Chúa nói và yêu cầu ta lắng nghe. Trong cầu nguyện, ta nói và xin Thiên Chúa lắng nghe. Không bao giờ có cảnh chỉ nói một mình. Trong Thánh Kinh, các tiên tri lý luận với Thiên Chúa. Trong Talmud, các rabbi lý luận với nhau. Thực vậy, đôi khi tôi nghĩ rằng sở dĩ Thiên Chúa chọn dân Do Thái là vì Người thích một cuộc lý luận tốt. Do Thái Giáo là một cuộc đàm đạo ghi lại nhiều giọng nói, nhưng không đâu say mê hơn trong Diễm Ca, một bản tấu ca (duet) giữa một người đàn bà và một người đàn ông, giữa người được yêu và người yêu nàng, một bản tấu ca được Rabbi Akiva gọi là thánh thiêng của các thánh thiêng trong nền văn chương tôn giáo. 

Tiên tri Malaki gọi tư tế nam là người canh giữ luật sự thật. Sách Cách Ngôn nói về người đàn bà tiết hạnh rằng “luật nhân ái yêu thương ở trên môi miệng nàng”. Chính cuộc đàm đạo giữa các giọng nói nam và nữ, giữa sự thật và tình yêu, giữa công lý và thương xót, giữa lề luật và tha thứ, đã lên khuôn cho đời sống tâm linh. Thời Thánh Kinh, mỗi người Do Thái phải dâng nửa đồng shekel vào Đền Thờ để nhắc chúng ta nhớ: mình chỉ là một nửa. 

Có những nền văn hóa dạy rằng ta không là gì cả. Lại có những nền văn hóa khác dạy rằng chúng ta là tất cả. Quan điểm của người Do Thái là: chúng ta là một nửa và chúng ta cần mở lòng ra đón nhận một ái đó, nếu chúng ta muốn trở thành toàn vẹn.

Tất cả các điều trên dẫn ta tới khoảnh khắc thứ bẩy: trong Do Thái Giáo, gia hộ và gia đình trở thành khung cảnh trung tâm cho đời sống đức tin. Trong một câu duy nhất của Thánh Kinh Do Thái để giải thích tại sao Thiên Chúa chọn Ápraham, Người nói: “Ta biết hắn để hắn dạy dỗ con cái hắn và gia hộ hắn duy trì đường lối của Chúa bằng cách làm những điều đúng và chân chính”. Ápraham được chọn không phải để thống trị một đế quốc, chỉ huy một quân đội, thực hiện các phép lạ hay đưa ra các lời tiên tri, mà chỉ để làm bậc cha mẹ. Ở một trong các câu thời danh nhất của Do Thái Giáo, Môsen truyền rằng “Các ngươi sẽ dạy những điều này cho con các ngươi một cách liên tục, nói với chúng khi chúng ngồi trong nhà các ngươi hay khi các ngươi đi đường, khi các ngươi đang nằm và khi các ngươi trỗi dậy”. Cha mẹ là các nhà giáo dục, giáo dục là cuộc đàm đạo giữa các thế hệ, và trường học đầu tiên là gia đình.

Như thế, người Do Thái trở thành một dân tộc có xu hướng gia đình một cách thâm hậu, vì chính điều này đã cứu chúng tôi khỏi thảm họa. Sau khi Đền Thờ Thứ Hai bị phá hủy vào năm 70, người Do Thái đã phải tản mác khắp thế giới, ở đâu cũng là thiểu số, ở đâu cũng không có quyền lợi, chịu một số cuộc bách hại tồi tệ nhất chưa từng dân tộc nào phải chịu xưa nay; ấy thế nhưng họ đã sống thoát vì họ không bao giờ đánh mất ba điều: cảm thức gia đình, cảm thức cộng đồng và đức tin.

Và họ được đổi mới mỗi tuần nhất là vào ngày Sa bát, ngày nghỉ ngơi khi chúng tôi dành cho hôn nhân và gia đình điều chúng cần hơn cả và đói khát hơn cả trong thế giới hiện nay, tức thì giờ. Có lần, tôi đã sản xuất một cuốn phim tài liệu cho BBC về trạng thái gia đình ở Anh, và tôi đem người lúc đó là chuyên gia hàng đầu của Anh Quốc về chăm sóc trẻ em, Penelope Leach, tới một trường tiểu học Do Thái vào một sáng thứ Sáu.

Tại đó, cô thấy các trẻ em diễn trước điều các em sẽ thấy vào buổi tối hôm đó quanh chiếc bàn ăn của gia đình. Có các em năm tuổi đóng vai bà mẹ và ông bố già chúc lành cho các em năm tuổi đóng vai con cái, trong khi các em năm tuổi đóng vai ông bà trọng tuổi đứng coi. Cô bị thôi miên bởi toàn bộ định chế này, và cô hỏi xem các em thích nhất điều gì của ngày Sabát. Một bé trai 5 tuổi quay qua cô và thưa: “đây là đêm duy nhất trong tuần bố em không phải vội vã”. Khi việc quay phim đã hoàn tất, lúc cuốc bộ ra khỏi ngôi trường, cô quay qua tôi và nói: “thưa đại giáo trưởng, ngày Sabát của ngài đã cứu được cuộc hôn nhân của cha mẹ các em”.

Đó là một trong những cách kể truyện, cách của người Do Thái, bắt đầu với sự ra đời của việc sinh sản nhờ tính dục, sau đó, là các đòi hỏi độc đáo của việc làm cha mẹ, rồi cuộc chiến thắng sau cùng của đơn hôn như lời tuyên bố nền tảng về bình đẳng, tiếp theo là cách hôn nhân lên khuôn viễn kiến của ta về đời sống luân lý và tôn giáo đặt căn bản trên tình yêu, giao ước và lòng trung tín, thậm chí tiến đến chỗ coi sự thật như một cuộc đàm đạo giữa người yêu và người được yêu. Hôn nhân và gia đình là nơi đức tin tìm được mái ấm của nó và là nơi Thánh Nhan Thiên Chúa sống trong tình yêu giữa người chồng và người vợ, giữa cha mẹ và con cái. 

Như vậy thì điều gì đã thay đổi? Sau đây là một cách diễn tả. Cách đây ít năm, tôi có viết một cuốn sách về tôn giáo và khoa học và tôi tóm tắt sự khác nhau giữa chúng với nhau bằng hai câu văn. “Khoa học tách rời sự vật ra để xem chúng hành động ra sao. Tôn giáo thì đặt sự vật lại với nhau để xem chúng có ý nghĩa gì”. Và đó cũng là cách suy nghĩ về văn hóa. Văn hóa đem các sự vật lại với nhau hay tách rời chúng ra với nhau?

Vì hàng loạt các lý do khác nhau, một số liên quan tới các phát triển y khoa như kiểm soát sinh sản, thụ thai trong ống nghiệm và nhiều can thiệp khác về di truyền học, một số liên quan tới sự thay đổi luân lý như ý niệm cho rằng ta được tự do làm bất cứ điều gì ta thích miễn là đừng gây hại tới người khác, một số liên quan tới việc chuyển giao trách nhiệm từ các cá nhân sang nhà nước, và các thay đổi khác và sâu xa hơn trong nền văn hóa Tây Phương, gần như mọi sự trước đây được hôn nhân đem lại với nhau, nay đã được tách rời khỏi nhau. Tình dục tách rời khỏi tình yêu, tình yêu tách rời khỏi cam kết, hôn nhân tách rời khỏi việc có con cái, và việc có con cái tách rời khỏi trách nhiệm chăm sóc chúng. 

Kết quả là ở nước Anh năm 2012, 47.5 phần trăm trẻ em sinh ngoại hôn, có cơ trở thành đa số vào năm 2016. Số người kết hôn ít hơn và 42 phần trăm các cuộc hôn nhân kết liễu bằng ly dị. mà việc sống chung cũng không thay thế cho hôn nhân. Trung bình, thời gian sống chung ở Hoa Kỳ và Anh Quốc dưới 2 năm. Kết quả là việc gia tăng rõ rệt nơi người trẻ các xáo trộn về ăn uống, ghiền ma túy và rượu mạnh, các hội chứng liên quan tới căng thẳng, trầm cảm và mưu toan tự tử cũng như tự tử thật. Việc đổ vỡ hôn nhân đã tạo ra một hình thức nghèo nàn mới tập trung nơi các gia đình có cha hoặc mẹ đơn lẻ, và trong số các gia đình này, gánh nặng chính rơi xuống vai phụ nữ; năm 2011, họ đứng đầu 92 phần trăm các căn hộ cha hoặc mẹ đơn lẻ. Ngày nay ở Anh, hơn một triệu trẻ em lớn lên không hề được tiếp xúc bất cứ cách nào với người cha của các em. 

Điều trên đang tạo ra một phân cách trong lòng các xã hội và sự phân cách này chưa hề được thấy kể từ ngày Disraeli nói tới “hai quốc gia” cách nay một thế kỷ rưỡi. Những trẻ em nào được diễm phúc lớn lên trong mối liên kết yêu thương bền vững với hai con người từng đem các em vào đời, tính trung bình, sẽ khỏe mạnh hơn về thể lý và xúc cảm. Các em sẽ thành công hơn ở trường và nơi làm việc. Các em sẽ có nhiều mối liên hệ thành công hơn, hạnh phúc hơn và sống lâu hơn.

Và dĩ nhiên, có những ngoại lệ… Tuần này, ở Anh, một cuốn phim mới đã được trình chiếu, kể lại câu truyện về một trong những đầu óc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đó là Alan Turing, nhà toán học của Cambridge, người từng đặt nền tảng triết lý cho ngành vi tính và trí khôn nhân tạo, và giúp thắng cuộc chiến tranh bằng cách phá được Enigma, tức mật mã của hải quân Đức. Sau chiến tranh, Turing bị bắt và bị đưa ra tòa vì tác phong đồng tính luyến ái, bị thiến bằng hóa chất, và chết lúc 41 tuổi do độc tố cyanide, được nhiều người cho là tự tử. Đây là một thế giới mà chúng ta không nên bao giờ trở lại.

Nhưng lòng cảm thương của chúng ta đối với những người quyết định sống cách khác không nên ngăn cản chúng ta trở thành những người cổ xúy cho định chế duy nhất có tính nhân bản hóa hơn cả trong lịch sử. Gia đình, đàn ông, đàn bà, và đứa con, không phải là một chọn lựa lối sống trong nhiều chọn lựa khác. Nó là phương thế tốt nhất chúng ta từng khám phá ra để dưỡng dục các thế hệ tương lai và giúp trẻ em lớn lên trong một khuôn khổ ổn định và yêu thương. Chính ở đây chúng ta học được nghệ thuật tinh tế của khoa biên đạo múa liên hệ choreography of relationship) và cách xử lý các tranh chấp không thể không có bên trong bất cứ nhóm nhân bản nào. Chính ở đây, lần đầu tiên, chúng ta dám liều cho và nhận yêu thương. Chính ở đây, thế hệ này chuyển giao các giá trị của mình cho thế hệ kế tiếp, bảo đảm tính liên tục của văn minh. Đối với bất cứ xã hội nào, gia đình cũng là điều chủ yếu cho tương lai của nó, và vì tương lai con cái, chúng ta phải là người bảo vệ nó. 

Vì đây là một cuộc tụ tập tôn giáo, nên xin cho phép tôi được kết thúc bằng một mẩu giải thích Thánh Kinh. Câu truyện của gia đình đầu tiên, của người đàn ông và người đàn bà đầu tiên trong vườn Địa Đàng, nói chung, không được coi là thành công. Bất kể chúng ta có tin tội nguyên tổ hay không, nó vẫn không kết thúc tốt đẹp. Sau nhiều năm nghiên cứu bản văn, tôi muốn đề nghị một cách đọc khác. 

Câu truyện kết thúc với ba câu xem ra không hề nối kết với nhau. Chẳng dây mơ rễ má. Chẳng luận lý học chút nào. Trong Sáng Thế 3:19, Thiên Chúa nói với người đàn ông: “ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn cho tới ngày ngươi trở về lòng đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra; ngươi hiện hữu từ bụi đất thì ngươi sẽ trở về với bụi đất”. Rồi trong câu tiếp theo, ta đọc thấy “con người gọi vợ mình là Evà, vì nàng là mẹ mọi sự sống”. Và trong câu kế tiếp “Chúa là Thiên Chúa làm quần áo da cho Ađam và vợ ông và mặc cho họ”. 

Thử hỏi mối liên kết giữa ba câu trên ra sao? Tại sao việc Thiên Chúa bảo người đàn ông rằng ông là một kẻ tử sinh lại dẫn ông tới việc cho vợ mình một cái tên mới? Và tại sao hành vi này xem ra đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với cả hai người, đến độ, Người làm một hành vi đầy nhân ái, là làm quần áo cho họ, gần như thể Người đã tha thứ cho họ một phần? Tôi cũng xin nói thêm: chữ “da” trong tiếng Hípri gần như không thể phân biệt được với chữ “ánh sáng”, đến nỗi Rabbi Meir, nhà hiền triết vĩ đại của đầu thế kỷ thứ hai, đã đọc bản văn như sau: Thiên Chúa làm cho họ “quần áo ánh sáng”. Ông muốn nói gì đây? Nếu chúng ta đọc bản văn một cách cẩn thận, ta sẽ thấy: cho tới lúc này, người đàn ông đầu tiên chỉ cho vợ mình một cái tên hoàn toàn có tính chủng loại. Ông gọi nàng là ishah, đàn bà. Ta hãy nhớ lời ông nói khi thấy nàng lần đầu: “Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi; nàng sẽ được gọi là đàn bà vì được lấy ra từ đàn ông”. Với ông, nàng là một mô phỏng (type), không phải một ngôi vị. Ông cho nàng một danh từ, không phải một cái tên. Ông định nghĩa nàng như một hữu thể phát sinh (derivative) từ chính ông: một điều lấy ra từ ông. Với ông, nàng chưa là một ai đó khác, tự mình là một ngôi vị. Nàng chỉ là một thứ phản chiếu của chính ông. 

Bao lâu người đàn ông còn nghĩ mình bất tử, thì ông đâu có cần ai khác. Nhưng giờ đây, ông biết mình là loài tử sinh. Một ngày kia, mình sẽ chết và trở về bụi đất. Chỉ còn một cách duy nhất là một điều gì đó của chính ông phải sống tiếp sau khi ông chết. Điều này sẽ có thể nếu ông có một đứa con. Nhưng ông làm sao tự mình có con được. Chính vì thế, ông cần có vợ. 

Chỉ nàng mới có thể sinh con. Chỉ một mình nàng mới giảm thiểu được tính tử sinh của ông. Và không phải vì nàng giống ông nhưng vì nàng không giống ông. Chính lúc đó, với ông, nàng hết còn là một mô phỏng, mà đã trở thành một ngôi vị ngay trong chính nàng. Và một ngôi vị thì phải có tên riêng. Nên ông đã cho nàng cái tên ấy, tên Chavah, “Evà” nghĩa là “người cho sự sống”. 

Chính lúc đó, lúc họ sắp sửa rời vườn Địa Đàng để đối diện với trần gian, một nơi tối tăm, như ta đã biết, Ađam đã cho vợ mình tặng phẩm đầu tiên của tình yêu, một cái tên riêng. 

Cũng chính lúc đó, Thiên Chúa đáp trả cả hai trong yêu thương và làm cho họ quần áo để che sự trần truồng của họ, hay như Rabbi Meir từng nói “quần áo ánh sáng”.

Và từ đó, sự việc cứ thế diễn tiến: khi một người đàn ông và một người đàn bà đến với nhau trong sợi dây trung tín, Thiên Chúa mặc cho họ quần áo ánh sáng, và chúng ta tiến gần Thiên Chúa như chưa bao giờ tiến gần đến thế, trong việc đem sự sống mới vào hiện hữu, biến văn suôi sinh học thành thi ca tinh thần nhân bản, cứu bóng tối trần gian bằng sự sáng lạn của tình yêu.

Hết phần I 

Vũ Văn An 

(Vietcatholic.net)

______________________________________________________________

(*) Chúng tôi lược bỏ khía cạnh thứ năm, nói về viễn kiến bổ túc cho nhau áp dụng vào người độc thân

Ghi Chú

[15] Xem Rick Hove, Equality in Christ: Galatians 3:28 and the Gender Dispute (Wheaton, IL: Crossway Books, 1999). 

[16] Trong tiết này, khi nói đến “sự ưu tiên” của người nam trong việc Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ bằng nhau trong tư cách hình ảnh của Người, độc giả nên hiểu rằng ở đây không có ý chuyển đạt bất cứ cảm thức nào về giá trị, phẩm giá, đáng giá, tư cách nhân vị cao hơn hoặc chia sẻ lớn hơn hình ảnh của Thiên Chúa nơi người đàn ông so với người đàn bà; thực vậy, tiết trước đã nói rất rõ rằng chúng ta tin Thánh Kinh dạy rất rõ ràng về sự bình đẳng hoàn toàn giữa người nam và người nữ trong tư cách hình ảnh của Thiên Chúa. Như sẽ nói rõ sau đó, giống như con cái trở nên hình ảnh của Thiên Chúa một cách trọn vẹn và bằng nhau nhờ biểu thức sinh sản của cha mẹ các em do Thiên Chúa sắp đặt thế nào, thì người đàn bà tuy là người thứ hai trở nên hình ảnh của Thiên Chúa cũng đã trở nên hình ảnh này một cách trọn vẹn và bằng nhau như hình ảnh Thiên Chúa nơi người đàn ông, dù nàng được Thiên Chúa tạo dựng như hình ảnh của Người từ xương sườn của Ađam chứ không từ đất như Ađam. 

[17] Như sẽ thấy sau đây, dù cả hai bản văn này đều nói tới sự ưu tiên về thời gian của việc dựng nên người nam, nhưng chúng không y như nhau trong cách quả quyết tính thực tại lịch sử này, và một sự khác biệt đáng lưu ý có thể được nhận ra trong các dùng chữ trong các câu này. 

[18] Ở đây không có ý nói rằng, trên nguyên tắc, Thiên Chúa không thể dựng nên người đàn bà cách khác, độc lập đối với người nam, thậm chí được dựng nên trước và hiện hữu mà chưa có đàn ông. Nhưng trọng điểm là: đây không phải là cách Thiên Chúa thực sự đã dựng nên người nữ. Đúng hơn, Người đã cấu tạo nên nàng như một người từ Ađam mà có (St 2:23; 1Cor 11:8), và điều này được biểu tượng bằng việc sử dụng hạn từ chủng loại có tính giống đực là từ “ha-adam” trong St 5:2. 

[19] Xem Vern S. Poythress and Wayne A. Grudem, The Gender-Neutral Bible Controversy: Muting the Masculinity of God's Words (Nashville, TN: Broadman & Holman, 2000). 

[20] Xem Hans Conzelmann, 1 Corinthians: a Commentary on the First Epistle to the Corinthians, bản tiếng Anh của J. W. Leitch, Hermeneia Series (Philadelphia: Fortress Press, 1975). 

[21] Dallas Willard, The Spirit of the Disciplines (San Francisco: Harper & Row, 1988).