Suy niệm với Lời Chúa (20.9.2018 – Thứ năm Tuần 24 Thường niên)​​​​​​​

19/09/2018
496

Lời Chúa: Lc 7, 36-50

36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn.37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi! “40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: “Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông! ” Ông ấy thưa: “Dạ, xin Thầy cứ nói.”41 Đức Giê-su nói: “Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục.42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn? “43 Ông Si-môn đáp: “Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức Giê-su bảo: “Ông xét đúng lắm.”44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.”49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: “Ông này là ai mà lại tha được tội? “50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”

Suy niệm

I. Chị hãy đi bình an
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó, 
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.

Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!

 Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc. 
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.

Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ, 
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả. 
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.

Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42), 
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.

Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).

Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?

Cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
R. Tagore
(Đỗ Khánh Hoan dịch)

II.Tội nhiều, được tha nhiều, nên yêu mến nhiều
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

Dựa vào bản văn Tin Mừng, chúng ta nên dành nhiều thì giờ để hình dung ra diễn biến của câu chuyện:

  • Bước thứ nhất : cử chỉ của người phụ nữ dành cho Đức Giê-su. Trong khi mọi người, trong đó có Đức Giê-su và người Pha-ri-sêu tên là Simon, đang dùng bữa, người phụ nữ đột ngột xuất hiện sát bên chân Đức Giê-su; mọi người, trong đó có Đức Giê-su hướng về người phụ nữ này, nhưng không có cùng một cái nhìn.
  • Bước thứ ba : cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và ông Simon về người phụ nữ.
  • Bước thứ ba: lời nói của Đức Giê-su dành cho người phụ nữ.

 1. Người phụ nữ và Đức Giê-su (c. 36-38)

a. Người phụ nữ

Chúng ta hãy nhìn ngắm người phụ nữ, lắng nghe tiếng khóc (và tiếng lòng nữa) của chị, và quan sát chị thật chăm chú, vì ngôn ngữ của chị là cử chỉ. Ngoài tiếng khóc, chỉ có cử chỉ mà thôi. Chúng ta nghe lời tác giả Tin Mừng nói về chị nữa : « chị vốn là người tội lỗi trong thành », nghĩa là cuộc đời của chị, tương quan của chị với mọi người, tất cả đều đổ bể ; nhưng chị lại quan tâm đến Đức Giê-su và biết được Ngài đang hiện diện ở đây. Ngoài ra, chúng ta phải ngửi nữa (phương pháp áp dụng ngũ quan vào trong cầu nguyện) : mùi thơm của dầu, mùi thơm của tình yêu, của ơn tha thứ, của sự sống mới.

Khi quan sát, chúng ta đừng bỏ qua một chi tiết nào, vì Tin Mừng mô tả rất kỹ và mỗi chi tiết đều mang nặng ý nghĩa và nặng tình nghĩa nữa : chị đi vào nhà mạnh dạn có lẽ chỉ toàn đàn ông, không mặc cảm sợ hãi (điều gì làm chị mạnh dạn, can đảm như thế ?), tay cầm bình bạch ngọc đựng dầu thơm (là điều rất giá trị ; nhưng hãy vượt qua giá trị vật chất để tự hỏi : bình bạch ngọc có nghĩa gì ? dầu thơm có nghĩa gì ? Những điều này tượng trưng cho điều gì ?), chị đứng đàng sau, sát bên chân Đức Giê-su mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người (hẳn là khóc dữ lắm, thì mới đủ « nước » tưới), chị lấy tóc mình mà lau (không thể tưởng tượng được!), rồi hôn chân người (quá sức tưởng tượng!), sau cùng, mới lấy dầu thơm và đổ lên.

Hãy khám phá ra ý nghĩa của những cử chỉ lạ lùng này, và nhất là khám phá ra tâm tình của đôi tay, của ánh mắt, của con tim, và của chính ngôi vị. Tất cả những gì chị có (bình bạch ngọc), và những gì chị là (hiện diện, nước mắt, mái tóc, những nụ hôn, danh dự, ngôi vị), chị đổ hết vào chân Chúa. Những cử chỉ này như muốn diễn tả tận cùng, diễn tả bao nhiêu có thể lòng mến của chị: « bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều » (c. 47). Hơn thế nữa, những cử chỉ của chị như muốn thâu tóm cả một cuộc đời mới mà chị hy vọng Đức Giê-su sẽ mở ra cho chị. Ngoài ra, cử chỉ này còn tôn vinh sự sống mới nơi Đức Giê-su (như cô Maria trong Ga 12, 1-8 và người phụ nữ trong Mc 14, 3-9).

Chúng ta hãy dừng lại thật lâu để nhìn ngắm, cảm nhận và thưởng nếm sự dịu dàng của tất cả những gì mà người phụ nữ đã làm cho Đức Giê-su. Và khi nhìn ngắm chị, chúng ta hãy xin Chúa đánh thức lòng ước ao yêu mến Chúa cũng mãnh liệt như thế theo cách thức riêng của mỗi người chúng ta và theo ơn gọi riêng của chúng ta.

b. Đức Giê-su

Hãy nhìn ngắm Đức Giê-su, tại sao Ngài để cho làm kì như vậy, trước mặt mọi người. Ánh mắt, thái độ và nhất là tâm cảm của Ngài. Sao Chúa không đẩy ra hay « đạp » cho một cái ? Đức Giê-su như đồng hóa mình với tội ; và điều này làm cho ông Simon nêu nghi vấn về căn tính của Người : « Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi ». Như thế, cách Đức Giê-su đón nhận người phụ nữ và phản ứng của những người chứng kiến đã loan báo mầu nhiệm Thập Giá rồi (tương tự như khi Chúa tha tội cho người bại liệt trong Mc 2, 1-12)

Ngoài ra, chúng ta cũng đừng quên nhìn, nghe các nhân vật (dù bản văn chưa tường thuật lời nói của các nhân vật, nhưng chắc chắn đã có những trao đổi xì xào), và quan sát thái độ của họ khi chứng kiến những gì mà chị làm cho Đức Giê-su. Nhưng thật ra những gì diễn ra trong lòng họ mới là vấn đề. Điển hình là ông Simon.

  1. Đức Giê-su và ông Simon (c. 39-47)

Nếu ở đoạn trên, cái nhìn của chúng ta hướng về người phụ nữ, thì ở đây, cái nhìn của chúng ta được mời gọi hướng về ông Simon và hướng về Đức Giê-su. Và đây mới là trung tâm của trình thuật Tin Mừng. Chúng ta là tội nhân, hiển nhiên rồi, nhưng vẫn còn một vấn đề lớn khác : cái nhìn của chúng ta về những tội nhân khác. Trong phần này, chúng ta cần lắng nghe, lắng nghe tiếng lòng và lắng nghe tiếng nói.

Tiếng lòng (nghĩ trong bụng) của ông simon : ông giản lược ngôi vị vào những hành vi tội lỗi ở quá khứ, vì thế ông mù lòa đối với những hành vi đang diễn ra trước mắt ông, chúng hoàn toàn vô nghĩa. Đức Giê-su sẽ giúp ông mở mắt ra để biết nhìn. Ông Simon cũng đại diện cho tiếng nói bí ẩn dìm chúng ta vào mặc cảm tội lỗi.

Biết những suy nghĩ trong lòng ông, Ngài không giận dữ áp đặt cái nhìn của mình, Ngài kiên nhẫn dẫn ông ra ngoài (người cha ra ngoài gặp người con lớn, trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu) bằng cách kể cho ông nghe một câu chuyện, đặt câu hỏi để tự ông phán đoán. Chúng ta hãy dừng lại đây để thán phục và cảm nếm sự kiên nhẫn và cách thức dẫn dắt tài tình của Chúa. Ngài là Ngôi Lời (Lời, trong tiếng Hi-lạp là Logos, còn có nghĩa là lý lẽ của mọi sự, lý do tồn tại của mọi sự, qui luật liên kết mọi sự), nên mời gọi chúng ta dùng cả trí khôn, lý trí, óc phán đoán để hiểu và đón nhận Ngài và cung cách ứng xử của Ngài với người khác.

Sau khi ông phán đoán đúng về câu chuyện trong dụ ngôn (là dụ ngôn, nhưng lại diễn tả rất đúng lòng thương xót vô hạn và nhưng không của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi), Đức Giê-su đưa ông về với thực tại, là người phụ nữ đang hiện diện trước mắt ông và mắt Chúa. Và trong những lời này, Chúa như vô tình để lộ căn tính của mình : Ngài nói như thể Ngài là một ngôi vị mà người ta phải có lập trường, phải quyết định : tin hay không tin, đón nhận hay không đón nhận ; và nhất là Ngài công bố ơn tha tội, điều mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được mà thôi. Và người ta đã không bỏ qua điều phi thường này : « Ông này là ai mà có quyền tha tội? ».

Ngài ghi nhận từng chi tiết cử chỉ của người phụ nữ dành cho Ngài (nước mắt tưới chân, mái tóc lau khô, hôn chân liên tục, lấy dầu thơm đổ lên) rồi đem so sánh với thái độ tiếp rước của ông Pha-ri-sêu. Chúa như muốn áp dụng người nợ 500 quan tiền cho người phụ nữ và 50 quan cho ông Pha-ri-sêu, vì ông tự cho mình là người công chính). Nếu kết luận của dụ ngôn là hợp lí không chút bất ngờ, kết luận Chúa rút ra từ những gì đang xẩy ra chắc chắn đã làm mọi người chưng hửng (chị, ông, mọi người có mặt, và cả chúng ta nữa đang chiêm ngắm câu chuyện, nghĩa là cũng hiện diện) :

« Vì thế, tôi nói cho ông hay tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít »(c. 47)

Câu kết luận diễn tả những diễn biến nội tâm không nhìn thấy được, và nhất là cái nhìn của Thiên Chúa về những diễn biến trong lòng con người: những cử chỉ của người phụ nữ diễn tả lòng mến lớn ; và lòng mến lớn là dấu chỉ của ơn tha thứ còn lớn hơn đối với “rất nhiều tội”! Còn ai được tha ít (vì tự cho mình là ít tội, là công chính, thì sẽ yêu mến ít! Chúng ta có thể dừng lại để gẫm suy lời này của Đức Giê-su. Ông Simon, thinh lặng; và Chúa đã phải chờ câu trả lời của ông. Nhưng có lẽ Chúa phải chờ thật lâu, vì câu trả mà Chúa mong muốn, đòi một biến đổi nội tâm, biến đối quan điểm, cái nhìn, con tim. Và điều này cần rất nhiều thời gian. Vấn đề của ông cũng là vấn đề của chúng ta.

 Đức Giê-su và người phụ nữ (c. 48-50)

“Tội của chị đã được tha rồi”; “lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an”. Hai câu của Đức Giê-su dành cho người phụ nữ thật ngắn gọn, nhưng đi đôi với ánh mắt dịu dàng và diễn tả sự đón nhận cách trân trọng tất cả những gì chị vừa làm, cũng như tất cả những chuẩn bị đã dẫn chị đến đây ; hai câu nói chữa lành những vết thương lòng của chị, phục hồi ngôi vị của chị, tái tạo cuộc đời chị.

Như thế, lòng tin có khả năng cứu vớt. Thật vậy, lòng tin vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị và Thập Giá của Đức Giê-su, giải thoát chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi, khỏi sự nghi ngờ chết chóc đối với tình yêu và lòng thương xót của Chúa, cho dù cuộc đời của chúng ta có như thế nào. Điều này hoàn toàn hợp với suy tư của thánh Phaolô trong thư Galát và Roma : “Người ta nên công chính nhờ lòng tin, chứ không phải nhờ làm điều luật dạy” (Gal 3, 16). Ông Pha-ri-sêu là người giữ luật hơn ai hết ! Nhưng, những vấn đề nội tâm của ông dường như vẫn còn nguyên trong tương quan với tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

* * *

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, dù chúng ta là ai, đang ở tình trạng nào, để nhận ra và tín thác nơi tình yêu tình yêu đến cùng của Chúa. Xin cho tình yêu đến cùng của Chúa khơi dậy nơi con tim của chúng ta lòng khao khát cũng yêu Chúa đến cùng, như người phụ nữ tội lỗi.