Suy niệm với Lời Chúa (18.9.2018 – Thứ ba Tuần 24 Thường niên​​​​​​​)

17/09/2018
483

Lời Chúa: Lc 7, 11-17

Khi ấy, Ðức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain, có các môn đệ và một đám người rất đông cùng đi với Người. Khi Ðức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có đám rất đông người trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!” Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Ðức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Ðức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.

Suy niệm

I. Thiên Chúa viếng thăm dân Người
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. 
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.

Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?

Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: 
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. 
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, 
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.

Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.

Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.

Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.


II. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

1. Lòng thương xót
Để giúp đọc hiểu và cầu nguyện với bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, trong một lớp giáo lý, Ma Soeur hỏi các em thiếu nhi:
Tại sao Chúa cho người con trai sống lại?”
Các em trả lời: “Vì khi còn sống, người con đã sống đạo đức, ngoan ngoãn và học giỏi”!
Có lẽ, khi được hỏi, những người lớn như chúng ta cũng sẽ đưa ra một câu trả lời tương tự, dựa trên sự xứng đáng của con người trong tương quan ân sủng với Chúa: con người phải sống xứng đáng, phải giữ luật, thì Chúa mới ban an ơn; hay nói cách khác và một cách rộng hơn, ơn cứu độ là có điều kiện. Điều này đúng, nhưng không đúng hoàn toàn, hay ít nhất, không phải lúc nào cũng đúng, bởi vì ơn Chúa luôn vượt xa những nỗ lực của con người.
Thật vậy, bài Tin Mừng trình bày chúng ta một Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giê-su, với một khuôn mặt khác hẳn:
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương
và nói: “Bà đừng khóc nữa”.

(c. 13)
Chúa chạnh lòng thương trước nỗi đau của người mẹ mất người con trai duy nhất, trước mọi nỗi đau của loài người chúng ta; và Ngài chạnh lòng thương một cách nhưng không, nghĩa là không cần biết người mẹ hay người con đã từng là gì, đã làm gì, và có xứng đáng hay không. Chưa hết, tình thương của Chúa con đi xa hơn. Chúng ta nghe lại lời của Tin Mừng:
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa”. Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài và làm cho người con trai sống lại.
(c. 13-14)
Như thế, vì thương người mẹ đang đau nỗi khổ mất con, hay đúng hơn, Chúa chạnh lòng vì tình yêu của người mẹ dành cho người con, nên Chúa cứu người con. Chứ không phải vì người con khi còn sống đã sống đạo đức, ngoan ngoãn và học giỏi.

2. Sự sống hôm nay
Đọc lại các Tin Mừng, chúng ta sẽ nghiệm ra được rằng, rất nhiều lần điều tương tự đã xẩy ra. Và đó cũng là trường hợp của hai mẹ con thánh nữ Mô-ni-ca và thánh Augustinô, và của vô vàn trường hợp trong đời sống của chúng ta: vì thương người mẹ, là thánh nữ Mô-ni-ca mà chúng ta mừng kính hôm nay, mà Chúa đã cứu người con, là thánh Âu-tinh, mà chúng ta mừng kính ngày mai. Như thế, Chúa cũng mến thương những người chúng ta thương mến trong Chúa. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho những người còn sống cũng như những người đã qua đời.
Người con trai là người con duy nhất của người mẹ góa bụa. Đức Giêsu cũng là người con trai duy nhất của Mẹ Maria ; và về phương diện xã hội, Mẹ Maria của Ngài cũng « góa bụa » ; vì thế, Ngài thấu suốt nỗi đau của người mẹ góa bụa mất người con duy nhất.
Sau khi cho sống lại, Đức Giêsu trao người con cho người mẹ. Như thế, người con bây giờ là quà tặng thuần túy của Đức Giê-su dành cho người mẹ. Và trong tương quan gia đình, cộng đoàn hay nhóm, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra người này là quà tặng Chúa ban cho người kia. Bởi vì, đó chính là kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng làm nên bầu khi yêu thương, tha thứ, bao dung và hiệp nhất giữa chúng ta.

3. Sự sống mai sau
Tuy nhiên, quà tặng này vẫn là quà tặng có giới hạn, vì đến một ngày nào đó, người con cũng phải chết một lần nữa, hay người mẹ phải lìa xa người con. Vì đó là thân phận chóng qua của loài người chúng ta.
Đức Giê-su, Người Con Duy Nhất, cũng cảm thương thân phận phải chết của loài người chúng ta. Vì thế, trong cuộc Thương Khó, Người không chỉ « đụng vào quan tài » của người con đã chết, và của mỗi người chúng ta, nhưng còn để cho mình chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá, để cho thấy Người mạnh hơn sự chết và cả sự dữ nữa, để trao ban với tình yêu đến cùng, sự sống đời đời cho loài người phải chết của chúng ta,

  • để cho hai mẹ con, mà bài Tin Mừng của ngày lễ hôm nay kể lại, tìm lại được nhau và ở bên nhau mãi mãi trong sự sống muôn đời của Đức Ki-tô và Thiên Chúa Cha ;
  • và để cho tất cả những ai thương mến nhau, trong đó có hai mẹ con là thánh nữ Mô-ni-ca và thánh Âu-tinh, và có mọi người chúng ta đang thương yêu nhau, bây giờ ở bên nhau, và sau này cũng được ở bên nhau mãi mãi, vì tình thương và lòng thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa.